KỶ NIỆM HỘI NGỘ KHÓA 6/68 SQ/TB THỦ-ĐỨC, 2014

05 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 9671)
“VĂN HÓA MAGAZINE” THỨ BẨY SEP 06 2014

Tùy bút

KỶ NIỆM HỘI NGỘ KHÓA 6/68 SQ/TB THỦ-ĐỨC, 2014

VÀ NHỮNG HOÀI NIỆM RIÊNG

Điệp Mỹ Linh

Để tưởng nhớ em tôi – Nguyễn Phiêu Linh – và kính tặng tất cả cựu SVSQ/TĐ khóa 6/68.

Đây không phải là lần đầu tiên tôi được tham dự sinh hoạt của “mấy ông nhà binh”; nhưng, kỳ Hội Ngộ của khóa 6/68 Cựu SQ/TB Thủ Đức vừa qua, tại Nam California, lại là một Hội Ngộ khiến tôi xúc động nhiều nhất.

Sự liên hệ giữa khóa 6/68 SQ/TB Thủ-Đức và Điệp-Mỹ-Linh bắt nguồn từ nhà văn Vũ-Uyên-Giang, tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Từ khi quen anh Vinh, tôi chỉ biết anh là một nhà văn Quân Đội chứ chưa bao giờ tôi hỏi xuất xứ của anh. Sau khi anh Vinh tạo ra website Thủ-Đức khóa 6/68, em tôi – Nguyễn-Phiêu-Linh – từ Việt-Nam emailed cho tôi biết rằng Linh cùng khóa 6/68 với anh Vinh. Linh cũng giới thiệu với tôi những người bạn cùng khóa như anh Tiêu Nhơn Lạc, anh Lê Đông Hải, anh Xuân Thu, chị Bích Thủy, v.v...

Khi biết tôi là chị Hai của Linh, vài anh – khi emailed cho tôi – cũng gọi tôi là “chị Hai”. Tôi ngại ngùng hồi đáp: “Cảm ơn các anh. Nhưng tôi không dám nhận là ‘chị Hai’ của các anh đâu”. Điều làm tôi vui thích nhất là khi các anh chuyển emails qua lại với nhau, vô tình vài emails “lạc” vào box của tôi; và tôi thấy trong các emails đó, các anh gọi Điệp-Mỹ-Linh bằng ba chữ thân thiết: “Chị thằng Linh”. Từ ngày Linh bất ngờ ngã bệnh cho đến khi Linh lìa đời, gia đình khóa 6/68 đã hết lòng với Linh. Do đó, tôi thầm mong được một lần đích thân cảm tạ tấm lòng của gia đình khóa 6/68 SQTB/TĐ.

Nhà văn Vũ Uyên Giang gửi đến tôi một thiệp mời in rất đẹp và những dòng chữ thân tình.Đến phi trường John Wayne, tôi được anh Lê Đông Hải đón. Anh Hải bảo: -Mấy ngày chị ở đây Hải sẽ lo phần đưa đón chị, chị đừng ngại. Bây giờ, trước khi đưa chị về khách sạn, Hải mời chị dùng cơm trưa. Hải sẽ gọi vài người trong khóa đến nhà hàng gặp chị.

Là một người nhút nhát, ít giao thiệp, nhưng trong bữa ăn trưa với anh Hải, anh Tiến, anh Hạnh, anh Thanh, anh Hiền, v. v... không những tôi không cảm thấy ngại ngùng, xa lạ hoặc lạc lõng mà tôi lại cảm thấy vui và thân mật như những ngày tôi ăn cơm lính – đúng nghĩa nhất – trên những chiến đỉnh trong vùng U-Minh hung hiểm.

Đêm tiền Hội Ngộ, 24 tháng 5-2014, tôi được gặp và làm quen với nhiều người bạn khác của Linh. Bằng một cách nào đó, trong ánh mắt, nụ cười, trong lời thăm hỏi, trong những câu chuyện trao đổi giữa các anh chị và tôi, tôi tưởng như tôi đã quen thân với quý anh chị từ lâu lắm.

Đang vui, lòng tôi chợt chùng xuống khi nghe nhà văn Vũ Uyên Giang – trong khi đứng trên sân khấu giới thiệu về Đặc San của khóa 6/68 – bảo rằng trong Đặc San có bài của Điệp-Mỹ-Linh và của Nguyễn Phiêu Linh. Linh viết bài và chuyển đến anh Vũ Uyên Giang trước khi Linh ngã bệnh. Sau đó, mỗi anh đứng lên, tự giới thiệu về mình: Tên, họ, số quân và đơn vị. Tôi nhìn quanh hội trường rồi nhìn ra cửa, nhìn ra bãi đậu xe, lòng thầm ước được thấy Linh bước vào, tự giới thiệu: Nguyễn Phiêu Linh, số quân 68/...

Dĩ nhiên tôi hiểu rằng không bao giờ Linh có thể xuất hiện trong niềm ước mơ không tưởng của tôi. Nhưng lạ lùng thay, tôi lại tưởng như tôi thấy được Linh cùng một nhóm quân nhân thuộc đơn vị Pháo Binh Diện Địa đồn trú tại Phù-Cát, thành phố Qui-Nhơn, vào những ngày cuối tháng Ba năm 1975.

Sau khi biết chiến hạm Hải-Quân “bốc” nhiều đơn vị Bộ-Binh, quân bạn, đồng bào và đã rời khỏi hải cảng Qui-Nhơn, Linh cùng nhóm quân nhân kết bè, vượt thoát. Sau khi hay tin Hải-Quân rút khỏi Qui-Nhơn, tôi nhờ người bạn liên lạc với sĩ quan tùy viên của trung tướng Nguyễn Xuân Thịnh – vị Tướng chỉ huy tất cả đơn vị Pháo-Binh VNCH – nhờ vị sĩ quan này tìm phương vị của Linh. Vài ngày sau, vị sĩ quan tùy viên của

Tướng Thịnh điện thoại cho tôi hay rằng Nguyễn Phiêu Linh đã về đến Cam-Ranh vào đêm 31 tháng Ba năm 1975. Sau khi Ba Má tôi sang Mỹ,

Ba Má tôi kể lại: Gần sáng 1 tháng 4-75, nghe tiếng gõ cửa, cả nhà sợ, không dám mở. Gõ hoài, cửa vẫn không mở, Linh lớn tiếng gọi tên vợ của Linh. Lúc đó cả nhà mới nhận ra giọng của Linh và vùng dậy, vui mừng khi thấy Linh cùng nhóm quân nhân. Nhưng khi Linh đề nghị cả gia đình nên di tản bằng đường bộ; vì con đường từ quốc lộ I qua Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Cam-Ranh đã đông nghẹt người và lính gác không cho vào thì Ba tôi từ chối. Nhà của Ba Má tôi ở ngay quốc lộ I. Ngày cũng như đêm, Ba Má tôi chứng kiến từng suối người cuồn cuộn tuôn về Nam. Nhiều gia đình thất lạc, nhiều người già và trẻ em chết, bị bỏ lại bên đường, cho nên Ba tôi sợ. Linh im lặng, tụ họp cả đại gia đình tại phòng khách. Linh bảo mọi người đứng thành vòng tròn, Linh đứng giữa. Mọi người, kể cả nhóm quân nhân cùng vượt thoát với Linh, đều nhìn nhau, không hiểu Linh có ý định gì. Linh rất bình tĩnh, lấy từ túi quần nhà binh một trái lựu đạn, rút chốt, dõng dạc hỏi: “Ba Má có di tản hay không? Nếu không, con cho lựu đạn nổ để cùng chết!” Mọi người hoảng sợ, năn nỉ Linh.

Khi cùng gia đình và nhóm quân nhân đến cầu Trà Long, Linh mới biết được rằng giòng người bị ứ đọng tại đó từ lâu; vì cầu Trà Long bị Lý Tống, phi công của VNCH, dội bom sập!

Năm 1998, Minh và tôi về Việt-Nam, vì bà Cụ của Minh bị bệnh nặng. Dù đã chích ngừa và đem theo nhiều thuốc dự phòng, tôi vẫn bị trúng độc, nằm liệt giường, tại khách sạn, Nha-Trang. Tôi không thể ăn hoặc uống bất cứ thứ gì; vì vậy, số thuốc đem theo không thể dùng được. Trong khi bị lã người vì cơ thể thiếu nước, mà bác sĩ tại Nha-Trang cũng không thể giúp tôi được, tôi nghe loáng thoáng Minh trò chuyện với Linh: “Tội nghiệp chị Hai của Linh, khi nhận được tin Linh từ chối sang Mỹ theo diện H.O., chị Hai như phát điên!” Giọng Linh bùi ngùi: “Lúc ở tù, bị tụi nó hành hạ về thể chất lẫn tinh thần – và nhất là mỗi sáng đi lao động ngang vườn rau cải, thấy Ba phải gánh phân người, đã chế biến, để tưới rau cải, em chịu không được – em oán hận tụi Mỹ đã bỏ rơi miền Nam cho nên em từ chối phỏng vấn diện H.O..

Về sau, chương trình H.O. mở lại thì các con em đều trên 21 tuổi, không được đi. Em nghĩ, em đã ở tù nhiều năm, không lo được gì cho con em; bây giờ vợ chồng em qua Mỹ để làm gì khi mà các con của em ở lại trong cảnh khốn cùng, cho nên em cũng ‘dẹp’ luôn! Đó là một quyết định sai lầm mà em rất ân hận khi vợ và con của em bệnh, không được chữa trị vì thuộc vào gia đình Ngụy, đành phải chết!” Vừa nói đến đây, Linh mới chợt nhớ, vội nói với Minh: “Chết! Em đang nấu nước gạo rang cho chị Hai uống mà nãy giờ em quên; để em xuống bếp xem xong chưa.” Minh hỏi vói theo: “Ai bày Linh vậy?” Linh đáp: “Dạ, mấy người làm trong khách sạn này.”

Khi Linh trở lại phòng, Minh đỡ tôi dậy. Tôi vừa hớp vài ngụm nước gạo rang thì lại nôn trở ra. Linh năn nỉ tôi: “Chị Hai! Ráng uống chút nước gạo rang em nấu nè.”Âm vang sáu tiếng thân thương: “...nước gạo rang em nấu nè” của Linh khơi dậy trong hồn tôi câu nói “Chị Hai! Cù-là nè. Chị đau ở đâu, em xức cho” mà Linh đã nài nỉ tôi sau khi tôi bị...đòn!

Tôi bị đòn vào chiều 15 tháng 6 năm 61, cũng tại Nha-Trang. Lý do tôi nhớ được cả không gian và thời gian vì sáng 16-6-61 là Lễ Đính Hôn của Minh và tôi.Cả tuần lễ trước ngày Lễ Đính Hôn của tôi, gia đình tôi rất bận rộn. Minh đến xin phép Ba Má tôi cho Minh đưa tôi đến tiệm vàng lấy chiếc nhẫn đính hôn mà Ba Mạ của Minh đã đặt mua từ mấy ngày trước.

Sau khi Ba Má tôi cho phép – như một điều kiện không thể thay đổi – Ba Má tôi gọi Linh, với dụng ý bảo Linh đi theo Minh và tôi. Sau vài lần gọi mà không nghe Linh đáp, bà giúp việc từ bếp bước lên cho Ba Má tôi hay rằng Bà Ngoại của tôi bị đứt tay khi cắt trái su, Linh đạp xe đi mua thuốc đỏ cho Ngoại. Ba Má tôi nhìn nhau, chưa biết quyết định như thế nào thì Minh nhìn đồng hồ tay, có vẻ sốt ruột. Má tôi hỏi Minh: “Một mình cháu đi lấy nhẫn, được không?” Minh đáp: “Dạ được. Nhưng con không thể biết nhẫn rộng hoặc chật cho ngón tay của Thanh-Điệp, rủi mai nhẫn bị rộng hoặc chật thì làm sao?” Ba tôi hỏi Minh: “Đây ra tiệm vàng rồi trở về, cháu nghĩ mất khoảng bao nhiêu thời gian?” Minh đáp: “Thưa bác, khoảng 45 phút hoặc một tiếng đồng hồ là tối đa.”

Minh và tôi đi bộ được một khoảng khá xa, Minh đón chiếc xích-lô. Tôi ngạc nhiên, hỏi. Minh bảo đi bộ lâu lắm, ngại về không kịp giờ đã hứa với Ba Má tôi. Tôi đề nghị nên đón một xích-lô nữa. Minh bảo mai là lễ “Lễ Hỏi” rồi mà còn ngại gì nữa! Tôi cho Minh biết rằng Ba Má tôi rất nghiêm khắc; tôi không dám làm trái ý Ba Má tôi. Minh thuyết phục và hứa sẽ giữ đúng tư cách.

Vâng, Minh đã giữ đúng tư cách của một sĩ quan Hải-Quân. Minh bảo tôi ngồi sát hẳn bên trong để ít ai thấy, Minh ngồi sát mé phía ngoài. Tôi thầm phục tư cách của Minh.Trên đường về, Minh bảo xích-lộ dừng rất xa nhà Ba Má tôi. Minh và tôi đi bộ về nhà. Vừa đến cửa lớn, thấy Ba Má tôi ngồi nơi phòng khách, nét mặt đầy tức giận, tôi hơi lo.

Tôi vừa bước vào, thưa: “Thưa Ba Má con mới về” thì Ba tôi chụp cây chổi quét nhà, “quất” tôi ba cán chổi! Vừa đánh tôi Ba tôi vừa gằng từng tiếng: “Ai cho phép con ngồi chung xe xích-lô với đàn ông, hả?Hả?” (1) Tôi gần như hoảng loạn; vì tôi là “con cưng”, rất dễ dạy và suốt gần 20 năm sống trong gia đình, chưa bao giờ Ba tôi nặng lời mắng nhiết tôi thì làm thế nào tôi có thể mường tượng được rằng có ngày Ba tôi sẽ đánh tôi! Tôi xoay sang có ý tìm Minh, nhưng không thấy Minh đâu cả!

Tôi cảm thấy đau thì ít mà tủi thân thì nhiều. Tôi ngồi co ro trong góc nhà, khóc. Linh đem chai cù-là đến, nói nhỏ, vì sợ Ba Má tôi nghe: “Chị Hai! Cù-là nè, chị đau ở đâu, em xức cho.” Tôi cứ im lặng, khóc, trong khi Linh cứ nài nỉ: “Chị đau ở đâu, em xức cho”. Một lúc sau, Ba Má tôi gọi tôi đến. Tôi khoanh hai tay, đứng như “Trời trồng”. Sau khi giảng cho tôi nhớ về tư cách của một thiếu nữ con nhà nề nếp, có giáo dục, có học thức, có đạo đức thì phải sống theo lễ giáo của Thánh Hiền “Nam nữ thọ thọ bất thân”, Ba tôi bảo Má tôi đưa tôi vào phòng, thoa cù-là cho tôi.

Suốt buổi cơm tối, thấy tôi lơ là như nuốt không trôi, Linh cứ hỏi nhỏ: “Chị ăn hết chưa, em bới cho?” Dùng cơm tối xong, như mỗi khi có điều chi buồn, tôi ôm Accordéon dạo những bản nhạc chợt đến trong hồn chứ tôi không nhìn bản nhạc. Tôi buồn Ba tôi thì ít mà buồn Minh thì nhiều; vì tôi tự hỏi: Tại sao Minh lại lẫn tránh, không dám nhận lỗi với Ba Má tôi là chính Minh đã thuyết phục tôi?

Tôi đàn liên miên từ bản nhạc này chuyển sang bản bản nhạc khác. Khi bất ngờ những ngón tay của tôi chuyển sang một tình khúc Việt Nam, tôi “ngân nga” nho nhỏ theo từng giọt nước mắt rơi trên phím đàn: “Đàn ơi! Tan

nát tim ta nhiều rồi mà sao ta vẫn say sưa hoài cùng em quanh năm ngày tháng?...Cho ta lên tiếng cùng em vài lời. Đời mà thiếu em ta vắng vui!...”(2)

Không biết Linh có nghe tiếng “ngân nga” của tôi hay không, nhưng Linh đến, ngồi đối diện với tôi, khoanh hai tay trên bàn rồi tựa cằm lên, im lặng lắng nghe. Những ngón tay của tôi chuyển sang sầu khúc Sayonara. Ba tôi động lòng sao đó, bước đến, giọng buồn buồn: “Con à! Rạp Tân Tân chiếu phim Sayonara, con với Linh muốn đi xem không?” Linh ngồi bật dậy, nhanh nhẩu: “Dạ đi, Ba.” Thấy tôi vẫn im lặng, Linh tiếp: “Đi đi, chị Hai! Có Marlon Brando là tài tử ‘ruột’ của chị đóng vai chính mà.”

Khi Marlon Brando xuất hiện trong khung cảnh tươi đẹp, tình tứ, lãng mạn và âm thanh tuyệt vời của tình khúc Sayonara, tôi cảm thấy hồn tôi chơi vơi, như tan loãng, như hòa nhập với cốt truyện tràn ngập yêu thương.Trên đường về, Ba Má tôi đi trước; Linh và tôi “lẻo đẻo” theo sau. Vừa đi Linh vừa nghịch với những viên đá ven đường. Riêng tôi, âm hưởng tình khúc Sayonara cứ vang vọng khiến tôi cảm thấy nỗi buồn trong tôi cứ dâng cao, dâng cao đến ngập cả hồn tôi mà tôi không nhận biết được tôi buồn ai và buồn về cái gì!

Hơn nửa thế kỷ trước, trong khi tôi ôm trong lòng nỗi buồn “không tên” thì Linh vừa đi vừa “nhảy cà tưng” trên hè phố. Hôm nay, trong hội trường này, tôi ôm trong lòng nỗi buồn vì thương nhớ Linh thì Linh không còn nữa!...

...Đang bị chi phối vì kỷ niệm, bất chợt tôi choàng tĩnh vì chị ngồi cạnh nâng tay tôi: - Chị đứng lên. Chị đứng lên. Người ta giới thiệu Điệp-Mỹ-Linh kìa.

Tôi đứng lên. Trong khi cúi chào quan khách tôi mới nhận ra nước mắt đã nhạt nhòa trên mặt tôi từ bao giờ! Tôi ngại ngùng nhìn quanh rồi nhìn quý vị cùng bàn và nhận thấy quý anh chị đều nhìn tôi với ánh mắt cảm thông. Dù còn bị phân tâm, tôi cũng hơi ngạc nhiên khi nghe Ban Tổ Chức giới thiệu anh Hiền sẽ trình bày ca khúc Căn Nhà Tiền Chế. Tôi nhíu mày, cố nhớ xem tôi đã nghe bản nhạc nào có tựa đề như vậy hay chưa; nhưng nhớ không ra! Khi nghe nhạc dạo một đoạn ngắn tôi mới nghiệm ra anh Hiền đặt lời ca theo cuộc sống, cuộc tình của Lính, dựa vào âm hưởng ca khúc Lâu Đài Tình Ái. Nhìn anh Hiền hát một cách say sưa “...Em ơi! “Căn Nhà Tiền Chế” đó...” tôi cười và nhận ra niềm vui đã trở về! Tiếp đến là chị Bích Thủy – người em gái thân thương của khóa 6/68 Thủ-Đức – với giọng ca lảnh lót, ngọt ngào trong ca khúc Hoa Soan Bên Thềm Cũ của Tuấn Khanh.

Sau đó, Ban Tổ Chức giới thiệu phu nhân của Cố Đại Úy Quân Báo Trần Hữu Tánh, khóa 6/68, ngâm bài thơ do chính chị, bút hiệu Trần Thị Quê Hương, sáng tác để tưởng nhớ anh Tánh – “Người Tình Trăm Năm” của Chị. Giọng ngâm của chị Trần Thị Quê Hương trầm buồn tha thiết tựa như nỗi niềm của Chị suốt mười năm khổ lụy thăm nuôi anh Tánh trong các trại tù của Cộng Sản Việt-Nam:

“...Những chiều tắt nắng đìu hiu, Hoàng hôn gợi nhớ, tình yêu vẫy chào. Bóng anh khuất lẫn nơi nào? Nhớ anh tha thiết lệ trào ướt mi!...

Bài thơ dứt, chị Trần Thị Quê Hương cúi chào trong những tràn pháo tay tưởng chừng không dứt. Anh Tiến và chị Bích Thủy đến khen tặng chị Trần Thị Quế Hương rồi anh Tiến và chị Bích Thủy hỏi thăm tôi. Nhân cơ hội này, tôi hỏi anh Tiến:

-Thưa anh, khóa 6/68 khởi đầu với bao nhiêu sinh viên?

- Dạ, khoảng trên 2 ngàn sinh viên; nhưng khoảng 800 sinh viên được đưa đi huấn luyện tại Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân, Đồng Đế, Nha-Trang.

Tôi hỏi chị Bích Thủy:

- Đến tháng Tư -1975 còn được bao nhiêu sĩ quan, thưa chị?

- Dạ, không thể phối kiểm được.

- Thưa chị, hiện nay khóa 6/68 quy tụ được bao nhiêu cựu sĩ quan?

Chị Bích Thủy nhìn anh Tiến. Anh Tiến đáp:

- Khoảng 200. Nhưng mỗi lần Hội Ngộ chỉ gặp được khoảng trên dưới 150 người thôi.

- Về Thương Phế Binh thì khóa 6/68 đã liên lạc được bao nhiêu vị rồi, thưa anh?

- Dạ, chín người.

Dù những con số do chị Bích Thủy và anh Tiến đưa ra không chính xác, tôi cũng cảm thấy

nặng lòng! Tôi nhìn ra cửa, liên tưởng đến hai câu thơ của Vũ Đình Liêm: Những người muôn năm cũ, Hồn ở đâu bây giờ!

Tối hôm sau, 25 tháng 5-2014, là Đêm Hội Ngộ chính thức.Buổi chiều, anh Lê Đông Hải đề nghị sẽ đón tôi sau khi anh Hải phụ với Ban Tổ Chức trang hoàng hội trường. Tôi xin anh Hải cho tôi đến phụ với các anh chị.

Trong khi cùng các chị bưng từng giò lan tươi đẹp đặt trên mỗi bàn, tôi nghĩ: Mấy mươi năm qua tôi cứ tưởng tôi chỉ có những ràng buộc với đại gia đình Hải-Quân; nhưng từ khi Linh lâm trọng bệnh cho đến bây giờ, tôi mới biết tôi cũng có những ràng buộc vô hình với gia đình khóa 6/68 Thủ Đức.

Trước khi quan khách đến, Ban tổ chức giới thiệu nhà văn Vũ Uyên Giang và nhà văn Huy Văn – khóa 6/68 Thủ Đức – với hai tác phẩm mới và mời mọi người mua ủng hộ. Tiền bán sách sẽ được xung vào quỹ Thương Phế Binh. Mọi người hưởng ứng nồng nhiệt.Tối hôm qua, vì xúc động, tình cảm bị chi phối, tôi không theo dõi chương trình. Hôm nay, nhìn quanh hội trường, tôi cảm nhận được sự trang trọng, sự vui tươi và ấm cúng. Tôi hỏi chị Bích Thủy:

-Hôm qua anh Tiến và chị bảo chỉ liên lạc được khoảng trên dưới 150 cựu SV/SQ/Thủ-Đức; vậy mà tại sao hôm nay đến gần 50 bàn lận, chị?

-Dạ, thân hữu.

Trong số thân hữu chọn lọc, tôi nhận ra giáo sư và cũng là cựu Tư Lệnh Không Quân QL/VNCH Nguyễn Xuân Vinh, cựu đại tá Tư Lệnh Không Quân và Bà Huỳnh Hữu Hiền, Commodore Jansen Buckner và vài vị khác mà tôi không nhớ tên. Ông Buckner bắt tay mọi người cùng bàn.

Khi ông Buckner bắt tay tôi, tôi hỏi:

- Tôi nghe nói Ông là sĩ quan Hải-Quân, phải không, thưa Ông?

- Vâng. Và tôi từng tham chiến tại Việt Nam.

- Xin cảm ơn ông đã góp phần bảo vệ miền Nam Việt-Nam của chúng tôi.

Tôi bước sang chào giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, tác giả truyện dài Tìm Nhau Từ Thuở mà tôi đã đọc và viết về tác phẩm này. Sau khi trở về chỗ ngồi, tôi nói cho ông Buckner nghe về sự ngưỡng phục của tôi đối với tất cả Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ tham chiến tại Việt-Nam. Ông Buckner hỏi tôi, trong những chiến binh Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam tôi có để ý một nhân vật nào đặc biệt hay không? Tôi đáp ngay: John McCain. Ông Buckner cười, gật gù. Tôi tiếp, tôi để ý đến ông McCain không phải vì ông ấy từng là ứng cử viên Tổng Thống Hoa-Kỳ, mà vì tấm ảnh chụp lúc ông ấy bị thương, tay bị băng bột, treo lên. Trong hình đó, ông McCain giống như một tài tử xi-nê. Một tấm ảnh khác, chụp ông McCain và vài quân nhân Hoa Kỳ vừa rời xe buýt của Việt Cộng để đáp phi cơ về Mỹ, tôi thấy ánh mắt và thái độ của ông ấy, cũng như của những quân nhân Hoa-Kỳ khác cùng

được thả với ông ấy, đều mang nét bất khuất, kiêu hùng của những người Mỹ thời chinh

phục miền Tây.

Một nhân vật nữa là ông Richard Lee Armitage. Ông Armitage là một

trong những cố vấn của Hải-Quân VNCH. Khi thực hiện cuốn tài liệu Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975, tôi được hân hạnh phỏng vấn ông ấy. Câu chuyện giữa ông Buckner và tôi vừa đến đây thì Ban Tổ Chức yêu cầu mọi người đứng lên, nghiêm chỉnh cử hành lễ chào Quốc Kỳ. Sau đó giáo sư Vinh, cựu đại tá và bà Huỳnh Hữu Hiền và ông Buckner được mời lên sân khấu để Ban Tổ Chức tặng vòng hoa.

Tiếp theo là phần phát biểu của Ban Tổ Chức và của vài vị quan khách.Khi được mời lên sân khấu, tôi chỉ vắn tắt cảm ơn những người bạn tốt bụng của khóa 6/68 SQ/TB Thủ Đức và tôi chấm dứt bằng ba câu “...Các anh đã thể hiện một cách cao đẹp truyền thống Huynh Đệ Chi Binh của Người Lính QL/V.N.C.H.. Một lần nữa, Điệp-

Mỹ-Linh xin đa tạ tấm lòng của những người đã một thời cùng Nguyễn Phiêu Linh trải dài những tháng ngày đầu đời binh nghiệp tại Quân Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ-Đức; để rồi, sau đó, các anh cũng đã cùng Nguyễn Phiêu Linh hy sinh tuổi trẻ để bảo vệ Quê Hương Miền Nam.”

Khi trở về chỗ ngồi, thấy anh Tiến đứng cạnh ông Buckner, tôi hỏi nhỏ anh Tiến sao chưa thấy ông Buckner lên sân khấu? Anh Tiến cho biết rằng ông Buckner bảo ông ấy chưa chuẩn bị, hẹn kỳ Hội Ngộ sau sẽ phát biểu cảm tưởng và sẽ nói về những kỷ niệm khó quên ở Việt-Nam.

Chương trình văn nghệ “cây nhà lá vườn” nhưng rất vui và khởi sắc. Tôi được dịp cười vì anh Hiền lại đơn ca Căn Nhà Tiền Chế. Chị Bích Thủy cũng như nhiều thân hữu đã góp vui bằng những bài ca một thời của Lính.Tôi nhìn đồng hồ tay, thấy đã khuya mà quanh tôi mọi người vẫn còn dập dìu ra sàn nhảy. Bất ngờ ông Buckner bước qua phía tôi, nói nhỏ:

- Tôi phải về. Tạm biệt.

Tôi vội vàng đứng lên. Trong khi bắt tay ông Buckner, tôi hỏi:

-Thưa ông, ông nghĩ như thế nào về Đêm Hội Ngộ này?

- Tuyệt vời! Tôi có một buổi tối rất đẹp và niềm vui trọn vẹn.

- Cảm ơn ông. Tôi cũng có cùng cảm nghĩ với ông.

Buổi Hội Ngộ chấm dứt vào lúc một giờ khuya.Trong khi theo anh Hải và các anh chị trong Ban Tổ Chức ra bãi đậu xe, nhìn lên bầu trời trong xanh, tôi tưởng như tôi thấy Linh đang mỉm cười, vừa vẫy tay vừa lui dần vào khoảng không gian lấp lánh ánh sao. Tiếng hát xưa chợt ngân lên trầm trầm rồi vút cao trong hồn tôi: “Sayonara, Sayonara...goodbye!...”

Điệp Mỹ Linh

(1) Chi tiết này đã được con tôi, Xuân Nguyệt, đưa vào bài thuyết trình về Văn Hóa Việt-Nam khi cháu theo học tại Đại Học Rice.

(2) Nghệ Sĩ Với Cây Đàn của Nguyễn Văn Khánh

(3) Sayonara của Irving Berlin./

++++++++++++++++++++++++

Kén Chồng Cho Con

Hoàng Dũng Tuấn

Ở xứ Mỹ này, thời đại văn minh mà nói chuyện cha mẹ kén chồng cho con thì nghe lạ tai. Vậy mà chuyện đó lại xảy ra., chính tôi cũng có dính dáng vào.

Chẳng phải ông bà giàu có, sợ gặp thằng rễ đào mỏ, cũng chẳng phải cô gái thuộc loại ngây thơ, e thẹn, kín cổng cao tường, không dám tiếp xúc với ai. Thực sự cô đã băm đi băm lại nhiều lần rồi và năm nay ắt cũng gần bốn mươi cái xuân xanh. Cô cũng xông xáo vào xã hội để kiếm sống, cũng nói năng giao thiệp rộng rãi. Cô lại đẹp nữa. Vậy mà gặp cậu nào còn độc thân là ông bà vui vẻ mời ghé nhà. Chẳng thấy ai quí khách hơn ông bà, nhưng sau đó, hình như không đạt tiêu chuẩn nào đó, ông bà lại mời chàng khác viếng thăm chuyện vãn. Những chuyện trên tôi chỉ nghe trong cộng đồng người Việt ở Virginia bàn tán thế thôi.

Ông bố cô gái tôi biết vì trước bảy lăm tôi là nhân viên dưới quyền ông. Cả đến cô gái tôi cũng biết nữa, nhưng hiện nay những tiêu chuẩn chọn khách đông sàng của ông bà thì ai cũng mù tịt. Đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi, job thơm, chống cộng? Tất cả chỉ là giả thiết. Sở dĩ tôi thêm tiêu chuẩn chống cộng vào đây vì trong các cuộc mít ting của người Việt đòi nhân quyền, tự do cho đồng bào trong nước, ông bà đều dẩn cô gái theo. Để tăng cường sức mạnh cho cộng đồng hay để ông bà chọn anh chàng nào tố cộng hăng say? Hay để cho cô dễ tìm chồng giữa chốn ba quân? Tất cả vẫn còn trong vòng bí mật. Chỉ có một điều là bọn con trai, từ mới lớn cho đến sồn sồn đều suýt soa là cô quá đẹp. Đẹp dịu dàng, đẹp quí phái, thấy cô chỉ muốn ngắm mãi rồi thở dài vì biết mình không hy vọng gì.

Tôi xin dài dòng về những gì tôi biết về ông bà và cô gái của họ.
Năm 1973 tôi tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, được bổ về làm phó quận một tỉnh miền Trung. Lúc đó ông ta là đại tá tỉnh trưởng. Tên ông ta có họ Tôn Thất, tức là bà con với các vua triều Nguyễn. Ở Huế, người ta thường gọi những người thuộc hoàng tộc là mệ. Mệ đây không phải để chỉ các bà già mà là những người, già, trẻ, lớn, bé có họ hoàng tộc đều là mệ tuốt. Các mệ đi đâu, ở đâu cũng vậy, đều có một phong thái rất đặc biệt. Dù giàu, nghèo, sang, hèn họ đều có cách sống phong lưu, cách nhìn, cách nói trịch thượng không cố ý. Nó như có sẵn từ trong máu, thứ máu di truyền hoàng tộc mà chính họ cũng không biết được.

Trong thời gian làm việc ở quận, thỉnh thoảng tôi phải về tỉnh họp. Thấy mệ đại tá tỉnh trưởng tôi nhận ra ngay phong thái đó. Mệ như một ông vua con với bá quan. Thân mật nhưng có khoảng cách rõ ràng. Mệ hết lòng với dân nhưng phục vụ dân như một thiên mệnh hơn là bổn phận, tưởng như chức tỉnh trưởng do Trời ban cho chứ không phải do tổng thống bổ nhiệm. Chẳng bao giờ mệ giữ kẻ điều gì. Mệ muốn là mệ làm. Tôi xin kể một chuyện thực. Một lần mệ báo sẽ ra quận thanh tra. Tay quận trưởng cùng đoàn tùy tùng trong đó có cả tôi ra bãi đáp nghênh đón mệ. Trực thăng hạ xuống, mệ xuống đứng yên vài phút cho tay quận trưởng trình diện, xong mệ lẵng lặng đi quanh hàng rào phòng thủ quận chi khu. Mệ đi trước, phía sau là phái đoàn rồng rắn đi lòng vòng qua các giao thông hào, ụ súng, vọng gác. Đột nhiên tay quận trưởng lùi lại, ra dấu cho tất cả cùng lùi lại, yên lặng. Trời ạ! Mệ đứng tè ở góc vọng gác. Chuyện này – chỉ có sai về thời gian thôi – tôi mà sáng tác, nói láo, xin Trời đánh tôi.

Mệ có một thói quen buồn cười mà ai cũng bàn tán. Khi làm việc ở tòa hành chánh tỉnh, mệ thường đến các ty phòng nội thuộc. Vừa nói mấy câu là mệ vỗ vỗ túi áo rồi hỏi "Có thuốc không?" Ai cũng biết trước nên thủ sẵn một gói thuốc mệ thường hút, đưa ra, mệ lại hỏi "Có quẹt không?" Đưa quẹt cho mệ, mồi thuốc xong mệ bỏ tất cả vào túi áo mình rồi đi nơi khác. Có điều lạ là không ai biết mệ vất thuốc với quẹt ở đâu mà ngay sau đó chính mệ tìm cũng không ra, rồi mệ lại hỏi "Có thuốc không?". Mà chẳng phải mệ nghiện thuốc, mệ chỉ bặp bặp vài hơi là cắm điếu thuốc xuống cái gạt tàn, nói mấy câu, lại mồi thuốc, hút tiếp, lại dụi bỏ. Ngồi họp mà có mệ là tôi được cái thú đếm xem mệ hút bao nhiêu điếu thuốc trong buối họp. Đến ngày mất nước, mệ không bỏ chạy, mệ đi tù. Lúc ở trại Long Thành tôi có gặp mệ. Vẫn vẻ phong lưu, bất cần thiên hạ, nên trông mệ chẳng mất phong độ gì cả. Sau đó mệ được đày ra Bắc. Chẳng biết bao lâu, cuộc đời dâu bể – Khi tôi qua Mỹ, ở Virginia, tình cờ gặp mệ một lần. Chuyện này hồi sau sẽ rõ.

Còn chuyện tôi biết cô gái út của mệ cũng có nguyên do. Năm đó, gần đến Tết, tay thiếu tá quận trưởng của tôi ngồi than thở là tết nhất mà không có quà cáp cho xếp thì thật khó coi. Hắn ta rầu rĩ bảo "Nhưng trong túi moa, tài sản có mấy nghìn, biết mua cái gì bây giờ? Một cành mai thì chắc có đứa đem đến rồi, mà thứ mai chấm trần nhà kia, tiền đâu chịu thấu. Một cặp bông hồng hay vạn thọ thì hẻo quá!" Tôi đề nghị mua một món đồ cổ gì đó, các mệ chỉ thích đồ cổ để bày trong tủ thôi. Thế là hắn giao tôi nhiệm vụ đó. Tôi về đến tiệm đồ cổ, chỗ chân cầu Gia Hội mua một cái tô, không biết cổ thực hay giả, lơn tơn đến dinh tỉnh trưởng. Mệ đại tá không có nhà, chỉ có cô gái út ra tiếp. Cô mới mười lăm, mười sáu mà đẹp kỳ lạ. Tôi ngồi tán tỉnh tía lia, đáng lẽ để cái tô lại , nhưng tôi ôm về, hẹn với em hôm sau đến nữa. Dĩ nhiên tôi đến vào giờ công vụ thì làm sao ông bố có nhà. Thế là tôi và em nói chuyện sa đà, đến chiều tôi lại ôm cái tô về. Sở dĩ tôi đến được nhiều lần như thế là vì tôi về thuật lại với tay quận trưởng. Tay chịu chơi này sai tài xế lấy xe Jeep đưa tôi đến dinh tỉnh trưởng. Thấy xe quận quen thuộc, tay gác cổng không thắc mắc gì.

Tuy nhiên, một lần mệ tỉnh trưởng về sớm "Moa nghe mấy bửa ni toa cứ ôm cái tô vô ra đây mãi. Rứa là đủ rồi hỉ! Chờ ít năm, con Út Mai lớn chút nữa, lúc đó, mỗi lần đến đây, toa cứ nộp một cái tô, cái đĩa cổ chi đó là được. Moa hứa với toa nhưng không bảo đảm gì cả nghe!" Dù sao thì em cũng đã cho tôi hôn em một lần và chúng tôi cũng có tặng hình nhau gọi là "Để kỷ niệm những ngày mới quen nhau". Hình em mặc váy đầm, tóc thắc bím, ôm búp-bê. Hình tôi tặng em là cảnh tôi đứng vênh mặt trước trường Hành Chánh, chụp hôm tốt nghiệp, coi rất bảnh trai. Sau tấm hình tôi ghi cho em một câu đúng điệu nhạc vàng"Anh hứa yêu em suốt một đời".
Đáng lẽ cuộc tình của tôi với em còn dài, nhưng sau đó sập tiệm. Tôi đi tù, ông bố em cũng đi tù. Em như cánh chim giữa cơn bão, phiêu bạt về phương trời nào tôi không rõ. Hình em tặng tôi cũng đánh mất từ lâu. Cho đến khi nghe chuyện ông bà kén chồng cho em, tôi vẫn không hình dung được em ra sao, vì lâu quá, nhưng vẫn nhớ là em rất đẹp. Và nếu trước kia, đứng trước em tôi tự tin bao nhiêu thì nay tôi không dám gặp cả em nữa vì mặc cảm tự ti. Ra tù, thân tàn ma dại, qua xứ Mỹ tôi cũng chẳng hơn gì con gà mắc mưa: Tôi đứng bán Mc Donald.

Cho đến một sáng chủ nhật, tôi ghé tiệm chạp phô mua ít vật thực. Vừa ra khỏi xe tôi thấy một chiếc xe nhỏ chạy trước, xe cảnh sát chớp đèn chạy sau. Hai xe ngừng lại trước tiệm chạp phô. Tay cảnh sát xuống xe đến hỏi thăm sức khỏe người lái xe, có lẽ vi phạm giao thông gì đó. Hóa ra đó là vợ chồng mệ đại tá tỉnh trưởng của tôi ngày trước. Tôi thấy tay cảnh sát Mỹ xì xồ mấy câu nhưng mệ Tôn Thất của tôi vẫn tỉnh bơ, chẳng nói năng một tiếng cứ ngồi nhìn tay cảnh sát, như người xem TV nhìn cái quảng cáo. Không vui, không buồn, không sợ, không xun xoe…, và cứ trơ ra như thế. Có lẽ tay cảnh sát tưởng ông bà không biết tiếng Mỹ nên đến nhờ tôi thông dịch. Tôi nói "Sorry, he chinese, me Vietnamese, no talk, no hear!" Hắn ta chán cả tôi nên lắc đầu, lên xe bỏ đi. Lúc đó, mệ mới nhìn tôi cười chím chím rồi hai ông bà vô tiệm. Tôi có thể đến chào hỏi, tự giới thiệu để chuyện trò nhưng kẹt vì biết ông bà đang kén rễ nên tôi nghĩ tốt hơn đừng để họ tưởng mình có ý đồ gì. Nghe nói có mấy tên bác sĩ, kỹ sư đẹp trai, đi xe đắc tiền còn bị loại , sá gì đến tôi mà đèo bòng nên tôi phe lờ. Trong lúc tôi đứng trước quày đồ khô thì ông ta đến bảo:
"Toa thấy moa có lanh trí không, làm rứa là hắn chịu thua, mình khỏi bị ticket".
"Tôi thấy đại tá mới biết cách đó. Cái khó là giữ vẻ mặt sao cho tay cảnh sát vừa chán nản vừa thông cảm mới được. Tôi mà làm thế hắn còng tay ngay".
Ông ta ngạc nhiên.
"Ủa, răng toa biết moa?"
Lúc đó tôi mới bảo là tôi có làm phó quận trong lúc ông làm tỉnh trưởng. Thế là chúng tôi vui vẻ chuyện trò. Lát sau bà vợ ông ta đến, sau khi giới thiệu nhau, chúng tôi đã trở nên thân mật. Đàn bà đều giống nhau, thích tò mò chuyện đời tư người khác: "Chớ vợ con mô mà đi chợ một mình rứa?"
"Tôi chẳng có vợ con gì cả. Như lúc nãy, ông đại tá biết, tôi ra trường năm bảy ba, đến năm bảy lăm sập tiệm. Tôi đi tù về không ai thèm nhìn, đến khi có vụ HO thì chẳng hề quen biết mà cũng có người kêu gả con cho, tôi chán quá, không thèm lấy vợ nữa." Ông ta xen vào:
"Moa mà như toa đi chợ chi cho mệt. Ghé tiệm, quán ăn nào đó, ăn xong trả tiền, khỏi phải chợ búa phiền phức".
"Nhưng tôi còn bà mẹ, mọi khi tôi đưa bà cụ đi chợ, mấy hôm nay bà cụ mệt, dặn tôi mua các thứ về bà cụ nấu."
Chuyện trò đến đấy thì tôi xin cáo từ, ông bà có mời tôi ghé nhà, cho số nhà, số điện thoại đàng hoàng. Tôi không có thì giờ thăm viếng linh tinh, vả lại tuổi tác chênh lệch mà gia cảnh cũng không thích hợp nên tôi quên luôn. Bẵng đi một thời gian, một sáng chủ nhật đi chợ, tôi lại gặp ông bà. Họ coi bộ mừng rỡ lắm, nhất định mời tôi ghé thăm nhà, uống trà nói chuyện cho vui. Nể tình, tôi theo họ về nhà. Đó là một căn apartment, chẳng giàu sang gì, nhưng cách bài trí sắp xếp trong nhà ra người phong nhã, trí thức. Lúc ngồi ở phòng khách, cô gái Út của ông bà có pha trà mời tôi. Tôi không dám nhìn, sợ bất nhã, nhưng thoáng thấy, tôi nhận ra ngay cô bé ngày xưa và cô vẫn đẹp, còn đậm đà hơn trước nữa.

Thực ra tôi biết thân phận mình nên dững dưng. Sáng hôm đó, ông bà nghe tôi nói lại những nhận xét, cảm tưởng của tôi lúc ông ta làm tỉnh trưởng, họ cười như chưa bao giờ vui đến thế. Dĩ nhiên tôi chẳng dại gì nhắc đến chuyện tôi tán tỉnh cô út của ông bà, coi nham nhở quá, vả lại cô ta mà nghe được, ghét tôi ra mặt thì chẳng vui gì. Những lần sau đó, ông bà có gọi điện thoại mời tôi tôi đến uống trà trò chuyện. Tôi không thích nhưng có cô gái út ra mời khách, nghe mấy tiếng "Mời chú ạ!" ngọt như đường và tuy chỉ thấy có hai bàn tay mà tôi đã vấn vương người đẹp rồi. Một lần nhân chủ nhà vô ý, tôi nhìn quanh tìm cô ta thì y như là cô đang làm gì đó ngay trong tầm mắt tôi. Lúc đó cô đăm đăm nhìn lại tôi và tặng tôi một nụ cười. Tôi chới với, ngất ngây như say rượu. Cả tuần lễ sau, hình ảnh người đẹp cứ ở mãi trong đầu tôi. Nhưng tôi đã lớn, lại ở tù ra nên chín chắn chuyện đời chứ không bộp chộp như mấy cậu thanh niên. Giá như tôi tốt nghiệp đại học Mỹ, có job thơm, tôi đã đường hoàng nhào vô một cách tự tin. Về ngoại giao thì tôi có chút cảm tình của ông bà rồi, đối với cô ta, nếu không mặc cảm tôi đâu có khù khờ, ú ớ như bây giờ. Thế nên tim tôi rung động nhưng đầu óc tôi tỉnh táo. Tôi cứ dặn tôi"Yêu thì cứ yêu cho đời có chút hương vị, nhưng chớ dại mà biểu lộ cho người ta biết, chắc chắn bị từ chối , lại rước thêm cái xấu hổ vào thân, nhớ nhé!" Có câu hát "Khi cố quên lại càng nhớ thêm. ". Tôi thì khác, hể cố quên là tôi quên bẵng. Tôi lại hay nãn chí, thấy chẳng hy vọng gì nên tôi cứ lơ là dần.

Cho đến một buổi sáng, tôi nghe điện thoại reo.
"Thưa chú, ba mạ cháu mời chú qua uống trà."
Các cô gái Huế mà pha giọng miền Nam nói chuyện thì nghe như chim hót, ngọt ngào ngây thơ không thể tả. Tôi giả giọng Huế hỏi lại.
"Ba mạ cháu ở mô rứa?"
"Dạ ở nhà".
"Còn cháu ở mô?"
"Dạ cũng ở nhà".
"Rứa là biết rồi đó. Cám ơn cháu, chú qua ngay bây chừ."
Tôi phân vân, tại sao ông bố không gọi mà để cô gái gọi tôi? Khi tôi đến, mọi việc vẫn như trước, người đẹp ra mời trà, rồi chuyện trên trời , dưới đất. Đến khi giả từ, ông bà lại hỏi:
"Bà cụ có mạnh giỏi không?"
"Dạ, cám ơn. Oâng bà già nào lớn tuổi không bệnh này thì bệnh kia."
Tôi tố thêm một đòn về gia cảnh của tôi.
"Tôi đi làm không đủ tiêu, bà cụ phải giữ trẻ cho người ta. Tôi thật xấu hổ, không nuôi nổi mẹ."

Tưởng ông bà dội ngược không ngờ lại hỏi địa chỉ và bảo sẽ đến thăm. Kể dài dòng chỉ tổ mất thì giờ. Đại khái họ đến thăm lúc tôi đi làm. Mẹ tôi chất phác nên gần như ông bà nắm vững gia phả và đời tư của tôi. Theo mẹ tôi kể, ông bà cứ suýt soa rằng tôi có hiếu, họ rất quí trọng những người con có hiếu. Oâng bà cũng nói về gia đình họ, về cô út đã lớn mà không chịu lấy chồng. Cứ bảo sợ gặp người không tốt, bỏ cha mẹ già không ai săn sóc tội nghiệp. Mẹ tôi vừa kể vừa cười coi bộ tôi lọt mắt xanh của gia đình kia rồi. Tôi không nói gì, sợ mẹ tôi buồn, nhưng tôi bắt đầu nghi ngờ về thái độ của họ. Họ có điên mới đem gả cô út xinh đẹp như hoa cho một thằng không ra gì như tôi. Còn cô út nếu bằng lòng thì thần kinh cũng không hơn gì bố mẹ. Nhưng rõ ràng họ đã lộ ý rồi. Tôi đánh cờ tướng loại khá, khi đối phương đi một nước cờ, nếu không hiểu mục đích của nước cờ đó, tuyệt đối tôi không tấn công. Tôi bắt đầu đưa giả thiết, nhưng không giả thiết nào đứng vững. Thế nên tôi rút quân về thủ bằng cách báo với họ ý định sẽ đi tiểu bang khác làm ăn, ở đây sống khó khăn quá (Tôi chuẩn bị đi thực). Xong tôi chờ đối phương đi nước thứ hai.

Hôm đó, thứ bảy đầu năm, cộng đồng Việt Nam có lệ chào quốc kỳ trước chợ Eden. Tối thứ sáu, đi làm về, tôi được điện thoại của mẹ cô gái gọi.
"Sáng mai Tuấn có đi chào cờ ngoài Eden không?"
"Dạ cháu cũng chưa có ý định, phải đưa bà cụ đi chợ, e trễ mất".
"Tuấn cố gắng đưa bác và em Mai ra Eden sáng mai lúc chín rưỡi. Xe của em bị hư, còn ba nó phải ra sớm, chuẩn bị trước cho buổi lễ".
"Dạ cháu sẽ cố gắng đưa bác và cô Mai ra đúng giờ."
Nước cờ đến đây đã rõ mục đích. Họ đẩy cây xe ngon lành đến trước miệng con chốt, nhưng nguyên nhân vẫn còn trong vòng bí mật. Ông bố đã lùi một bước để bà mẹ đứng ra đạo diễn, rủi thất bại vẫn giữ được tướng an toàn.
Sáng đó, thấy tôi ăn mặc tươm tất, mẹ tôi lại cười. Đàn bà nhạy cảm chuyện này lắm, huống gì đó là một bà mẹ. Bà biết tôi đã yêu cô gái. Chính tôi cũng không hiểu mình yêu cô ta từ lúc nào. Tình yêu không đến trực tiếp từ cô gái mà đi vòng từ bố mẹ cô ta. Tôi không cần biết nguyên nhân, nhưng sự sắp xếp của họ khiến tôi cảm động và tôi tin chắc rằng sự sốt sắng đó đã được thúc đẩy từ cô gái cưng của họ. Nhưng tôi với cô ta đâu có tình ý nhau bao giờ?

 Đến nơi tôi để hai mẹ con vào đứng với đồng bào. Tôi thối thác chào quốc kỳ. Khi mới đặt chân lên đất Mỹ, lần đầu thấy lại lá cờ vàng ba sọc đỏ, tôi đứng khóc ngon lành như một đứa trẻ. Ngày Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, tôi cũng khóc cả buổi mà không hiểu sao lòng mình tan nát đến như vậy. Ngày đầu tiên cắp sách đến trường, tôi đã chào cờ hát quốc ca…Tình yêu nước đến lặng lẽ trong tim tôi theo thời gian như tình tôi thương mẹ, khi mất nước , mất mẹ mới thấy mình bơ vơ. Kẻ mất nước như mất hồn, như người thất tình.

Quên thì thôi, nhớ lại lòng cứ thẩn thờ, ngơ ngẩn."Ôi! ngựa Hồ hí gió Bắc"…Một lý do nữa là tôi nghĩ "Đứng cạnh cô thì thích quá rồi, nhưng rủi cô xích ra xa tôi hoặc bỏ đi chỗ khác thì có nước độn thổ mới hết nhục." Thấy người ta tử tế tưởng bở" Tôi yêu cô, ông bà tử tế với tôi , nhưng chuyện cô yêu lại tôi là viễn vong, vô căn cứ. Cho nên khi nghe tôi bảo sợ bị xúc động khi chào cờ phải đi tránh chỗ khác, bà mẹ thông cảm nhưng cô gái xụ mặt lại. Thấy cô như giận, tôi mừng trong bụng, muốn đổi ý nhưng đã muộn rồi nên đành lãng ra, vào một tiệm sách tìm đọc vớ vẫn nhưng hồn vía để cả ngoài kia, lòng tự trách "Chào quốc kỳ chảy nước mắt có gì mắc cỡ. Dễ gì được đứng gần người đẹp. Dại quá! Biết bao giờ mới có dịp như thế này".

Nghe chào cờ xong, tôi đi ra, định cà rà theo nói chuyện với cô ta nhưng mẹ cô nhờ tôi đưa bà về sớm, còn cô gái thì ở lại với bố. Tôi đành vâng lời. Về đến nhà, bà mẹ lại bảo tôi vô nhà nhờ chút chuyện. Tôi lại vâng lời. Tôi ngồi ở phòng khách. Chẳng cần rào đón, sau khi hỏi tôi sẽ đi tiểu bang nào, ngày nào đi, đột nhiên bà vào thẳng vấn đề. Bà nói về cô út hiếu thảo của bà không chịu vượt biên, ở lại với mẹ, vất vả, tần tảo để thăm nuôi bố. Qua xứ Mỹ, nói gì cô cũng không chịu lấy chồng, sợ bỏ cha mẹ già không ai săn sóc. Cô ra điều kiện chỉ lấy người có hiếu với cha mẹ thôi. Nay thấy tôi thương mẹ , cô đồng ý ngay. Tôi nghe mà tưởng mình mơ. Đời nay mà có cha mẹ hạ mình năn nỉ gả con gái xinh đẹp, nết na cho một thằng chẳng ra gì như tôi!? Tôi biết ông bà sốt ruột thật vì cô gái đã lớn mà cứ ở vậy, nhưng lý do chữ hiếu hình như là cái cớ thôi, chứ nguyên nhân nội vụ thì chưa rõ. Thế nên tôi xin phép bà được gặp riêng cô Mai để nói chuyện thông cảm nhau trước khi tôi quyết định về ân sũng đó. Bà mẹ chịu liền. Thế rồi một buổi chiều, tôi đến gõ cửa, cô ra mở cửa. Cô chào tôi mà không cười, vẻ mặt nghiêm trang, nhưng tôi nhận được từ đôi mắt cô những tia nhìn như reo vui.
"Chào chú ạ!"
"Chú đến thăm Mai".
"Dạ, mời chú vào"
Cô lùi lại, tôi bước vào, cô gần như đứng sát bên tôi. Cô mặc một bộ đồ lụa trắng, hơi rộng nên trông thướt tha. Mặt cô bầu bỉnh, có đánh chút phấn hồng, mắt đen nhánh. Vì cô thấp hơn tôi nên khi cô ngước nhìn , đôi mắt cô đẹp hết sức, vừa long lanh vừa như ngạc nhiên điều gì.
"Có ông bà cụ ở nhà không?"
"Dạ không, mời chú ngồi"
Cô ngồi đối diện. Cô rót nước trà rồi mở hợp bánh ra.
"Mời chú"
Tôi cầm tách trà lên nhấm nháp rồi làm bộ suýt soa như bị nóng lắm. Bấy giờ cô mới cười. "Trà còn nóng, cháu vừa mới pha"
Tôi cầm tách trà nửa chừng và nhìn cô. Cô cúi mặt xuống. Chúa ơi! Cô đẹp thế kia, trong trắng thế kia sao lại chịu đi bên cạnh cuộc đời bầm dập của tôi được. Thật khó tin. "Mai biết vì sao chú đến thăm Mai không?
"Dạ không".
"Thế mạ có nói chuyện này không?"
"Dạ có".
Không khí như căng thẳng, tôi phải sửa giọng nhẹ nhàng hơn. "Chú xin lỗi làm Mai bối rối. Bây giờ chú đề nghị thế này, mình kể chuyện linh tinh gì đó cho vui."
"Dạ"
"Trước hết chú kể chuyện của chú cho Mai nghe. Chú học hành chánh ra trường làm phó quận được hơn một năm thì đi tù sáu năm.. Ra tù, chú làm đủ nghề:đạp xích lô, bán vé số…Qua đây chú đi chùi nhà rồi bán Mc Donald. Kể ra thời đi học có vui chút đỉnh , đi làm cũng vui nhưng sau đó chán ngấy, hết đi tù thì làm những nghề mạt hạng." "Chú lập gia đình sẽ hết buồn ngay".
"Không đơn giản như Mai tưởng đâu. Muốn tiến đến hôn nhân phải có tình yêu. Vì có yêu người ta mình mới chịu đựng được những va chạm, khó khăn khi sống với nhau. Cho nên phải cẩn thận khi muốn lập gia đình. Không yêu thà sống một mình còn hơn." Cô ngước lên nhìn thẳng vào mắt tôi.
"Chú đã lập gia đình và đã thất bại, đã tan vỡ rồi phải không?"
"Chú chưa lập gia đình, và chú có yêu ai đâu".
"Cháu không tin, tuổi chú mà chưa yêu ai, cháu không tin"
"Chú cũng không tin cả mình nữa. Có người có biết bao nhiêu mối tình, nhưng chú thì chẳng có gì, khi đi làm có yêu chút đỉnh, nhưng sau đó chẳng còn nhớ nhau nữa. Nước mất nhà tan, vui thú gì mà yêu với đương".
"Chú tính xem đã yêu bao nhiêu người và bây giờ còn nhớ người nào?"
"Trước kia cũng có quen một cô, cũng anh anh em em vài câu, nhưng chỉ khoảng vài tuần. Cô ấy có cho chú hôn một lần trên trán. Rồi nước mất, tình cũng mất luôn. Cô ấy đã quên hẵn chú rồi. Lâu quá rồi! Thế Mai có mối tình nào lâm ly kể cho chú nghe với". "Chuyện của cháu cũng chẳng lâm ly gì. Lúc đó cháu mới lớn, có yêu một anh, rồi cũng như chú , khi mất nước, quá khổ, tâm trí đâu mà yêu ai."
"Nghe nói sau bảy lăm, Mai không vượt biên, ở lại Việt Nam với mạ kiếm tiền thăm nuôi ba trong tù."
"Lúc lộn xộn, trước ngày đầu hàng, mạ cháu bán được căn nhà. Hú vía, nếu trễ mấy ngày là bị chúng vô tịch thu rồi. Nhờ thế, mấy chị của cháu mới có tiền vượt biên, nhưng sau đó thì nghèo lắm. Cháu với mạ cháu phải ra đường bán quần áo cũ, bọn công an rượt chạy muốn chết."
Kể đến đấy cô lại cười, thật hồn nhiên. Tôi biết cô đã hết bối rối rồi.
"Có lẽ cũng giống như chú, sau đó không nhớ nhau, không gặp nhau, không nghĩ đến nhau nữa. Thế là xù. Phải không?"
"Đâu có như chú gì cũng quên. Mấy năm sau đó, cháu biết được anh ấy vẫn ở Saigon, cháu đến thăm mấy lần"
"Gặp nhau mừng mừng tủi tủi, kể lễ tâm sự nhớ thương nhau. Chà, mùi dữ". "Anh không biết cháu, ảnh không nhớ ra cháu, cháu cũng không nhắc nữa. Thật bực mình, người đâu mau quên".
"Chỉ cần nhắc vài câu là anh ta nhớ ra ngay".
"Gần cả chục năm, biết đâu anh ấy đã lập gia đình thì sao. Nên cháu chỉ đi ngang qua, nhìn cho đỡ nhớ mà không nói chuyện bao giờ. Đến khi dọ hỏi được biết là anh ấy còn độc thân thì tìm không ra. Anh ấy đã đi HO rồi."
Rồi cô thở dài.
"Bây giờ cháu cũng còn bực. Tức muốn chết được."
"Chú biết rồi, vì thế nên Mai giận đời, định đón một chiếc xe hoa nào đó, leo đại lên cho đỡ cô đơn chứ gì?"
"Cháu cũng muốn thế cho bỏ ghét, nhưng cháu yêu anh ấy…Rồi lại giận anh ấy, thấy cháu rõ ràng mà không thèm nhìn".
"Để chú đoán có đúng không nghe. Đó là một chàng sĩ quan Đà Lạt đẹp trai, hào hoa, làm dưới quyền ông cụ. Anh ta gặp cô nữ sinh đẹp quá, hai người yêu nhau. Theo chú có lẽ anh chàng cũng ở tù mút mùa như bọn chú. Nhưng sau khi ra tù, nhờ gia đình khá giả, anh ta đi buôn loại mánh mung như thuốc Tây, trầm, vàng chẳng hạn. Nghề này mau giàu lắm. Anh ta đi xe Dream, hút thuốc có cán. Lúc đó Mai ngồi bên đường với mạ bán quần áo cũ nên mặc cảm không nhìn mặt. Còn anh ta vì lâu quá nên quên người đẹp thuở nào, vả lại khi có tiền thì bao người đẹp khác chạy theo, phải không?"
"Chú đoán đúng một phần. Anh ấy cũng đi tù cải tạo, nhưng sau về nghèo lắm. Bán vé số ở Saigon."
"Chú cũng từng bán vé số, cứ nói tên, nói chỗ anh chàng hành nghề là chú biết ngay." Cô cười bí mật.
"Đố chú biết đó. Anh ấy bán vé số chỗ nhà thờ Đức Bà, trước Bộ Xã Hội cũ".
"Chú có ngồi đó, chú biết rõ. Có phải đại úy Minh, thiếu tá Tuấn, trung úy Đại…Cũng không phải luôn. Chú chịu. Nhưng những người đó đều có gia đình cả rồi mà." Tôi nhìn đồng hồ.
"Bây giờ cho chú nói lý do chú đến gặp Mai. Hôm chú được mạ Mai nói về chuyện chú với Mai, chú rất bất ngờ và cảm động. Chú cám ơn lòng tốt của Mai đã để ý đến chú. Vì chú sắp đi xa nên nhân tiện chú nói vài điều mong Mai thông cảm. Về phần chú, thú thực chú có yêu Mai, tình yêu đâu từ trước kia bây giờ sống dậy, nhưng chú biết thân phận mình nên yên lặng. Rồi bất ngờ nghe đề nghị đó chú không hiểu vì sao. Chú thua sút mọi người về mọi phương diện, chú cháu mình cũng chưa hề chuyện trò, tình ý gì nhau và chú chắc Mai cũng không hề yêu chú. Vậy thì lý do nào? Xin Mai cho chú một thời gian, hy vọng chúng ta tìm hiểu nhau rồi sẽ quyết định cũng không muộn. Tuần tới chú sẽ rời Virginia, chúc Mai ở lại tìm được một tình yêu, và lời chú khuyên Mai nên sống cho con tim mình, cho tương lai của mình. Ba mạ đâu có sống đời với mình, phải không? Phải có tình yêu trước khi quyết định tiến đến hôn nhân, chứ đừng nghe lời ba mạ, sau này hối cũng không kịp". Nói xong tôi định đứng dậy. Cô ngước nhìn tôi vẽ giận dữ.
"Thật, xin lỗi chú chứ chú … ngu quá! Chú khuyên cháu nên lấy người mình yêu. Vậy chứ cháu yêu chú thì sao?"
"Trời đất! Làm gì có chuyện đó…Không lẽ chỉ mấy lần bưng nước trà mới chú mà lại yêu chú được?!"
"Chú nói thật không? Cháu cho chú biết điều này. Theo cháu. Đi ngã này."
Cô đi trước, tôi rụt rè theo sau. Căn apartment chỉ có hai phòng, cô mở cửa một phòng đi vào.
"Vô đây".
Tôi sợ quá, chỉ dám đứng ở cửa nhìn vào. Cô chỉ vào một tấm hình cở tấm bưu thiếp để trên bàn nhỏ cạnh đầu giường:
"Chú biết ai đây không? Sau tấm hình viết gì không?"
"Chú đâu thấy gì, xa quá. Hình như anh chàng nào đứng đấy. Cho chú xem kỹ, có thể chú nhận ra anh chàng bán vé số tốt phước được lọt vào mắt xanh của Mai".
Cô gỡ tấm hình trong khung ra, đưa tôi.
"Nhìn kỹ xem là ai".
Tôi không tin ở mắt mình. Đó là hình tôi, chụp hôm tốt nghiệp trước trường Hành Chánh, sau tấm hình vẫn còn rõ câu hát nhạc vàng "Anh hứa yêu em suốt một đời". Tấm hình tôi tặng cô cách đây hơn hai mươi năm cô vẫn còn giữ, hình cô tặng tôi thì tôi vất nơi nào, lúc nào không rõ.
"Oái!hình chú đây mà!"
Cô ngồi trên giường, xây lưng về phía tôi, hai chân co lên, trên đầu gối là cái gối. Cô úp mặt vào gối yên lặng. Vai cô rung lên nhè nhẹ. Cô khóc, có lẽ vì giận tôi vô tình. "Cho chú xin lỗi. Chú vẫn nhớ chuyện cũ, nhưng tưởng Mai đã quên. Sao không nhắc, một câu thôi là chú hiểu ra ngay".
"Đâu có dịp nào. Hôm chào cờ ở Eden cũng bỏ đi…Mà biết còn nhớ người ta không hay đã yêu ai rồi?"
"Chú nhớ chứ, nhưng chú mặc cảm, đâu có dám mơ đến giây phút này. Hỏi thực Mai, rủi chú bảo đã yêu ai rồi thì sao?"
"Mặc kệ…Người ta tìm muốn chết!"
Yên lặng một lát.
"Hôm nào đi?"
"Bây giờ có họa là điên mới bỏ đi. Trúng số độc đắc chú cũng không mừng bằng. Chú không biết nói gì để cám ơn Mai. Chú..chú…"
Cô quay lại, mắt còn đỏ hoe. Cô chỉ cái khung hình còn nằm trên giường.
"Chú, chú hoài. Bộ ai ăn thịt sao cứ đứng ngoài đó. Bỏ hình lại vào khung, để lại trên bàn cho em, rồi ngồi xuống đây, em hỏi. Lúc ở tù ai thăm nuôi anh?"
"Có thăm chứ không có nuôi. Mẹ anh nghèo quá, các anh của anh cũng ở tù cả". "Em cũng đoán vậy nên cố tìm mà không biết anh ở trại nào, gia đình ở đâu để thăm nuôi. Em lo quá!"
Rồi cô lại cười, nhưng nước mắt chảy dài trên má.
Đây là chuyện cổ tích đẹp nhất trong những ngày buồn thảm nhất của nước Việt Nam Cộng Hòa. Cũng còn nhiều chuyện cổ tích sáng ngời hơn, đẹp đẻ hơn, ai cũng biết nhưng không bao giờ kể ra. Đó là quả tim của những bà mẹ, những bà vợ, những người con dành trọn cho con, cho chồng, cho cha đang ngắc ngoải trong ngục tù Cộng Sản.
Nhưng chuyện cổ tích nào cũng phải có tiên, Phật xuống hóa phép mầu cho những người hiếu hạnh , chung thủy được viên tròn hạnh phúc. Ở đây mấy cô tiên là chị của vợ tôi. Các cô vượt biên, học thành bác sĩ, tiền vô như nước. Thương cô em ở lại cùng mẹ nuôi cha, các cô bao thầu hết mọi chi phí đám cưới – dĩ nhiên tôi cũng chẳng có xu teng nào – lại còn giúp em một cơ sở nhỏ làm ăn…Hôm đám cưới, mấy chị em mừng rỡ, tíu tít chuyện trò có khi quên cả chàng rễ.
Vợ chồng tôi phải đi từng bàn tiệc chào mừng quan khách, bà con, bạn bè. Mỗi nơi, cô dâu chú rễ phải uống với khách một ly rượu nhỏ. Vợ tôi chỉ thấm môi nên tôi phải uống hết. Nhiều ly nhỏ thành ly cối. Tôi không biết uống rượu nên say mềm. Bố vợ tôi cũng say. Oâng say vì vui nên nói hơi nhiều. Khi khách khứa đã về cả rồi, ông đến bên cạnh, vỗ vai tôi lè nhè.

"Cụ mi rứa là tốt phước. Không có ai chung tình như con út Mai của moa. Cụ mi biết không? Hắn hành vợ chồng moa đi tìm cụ mi chết xác luôn. Bốn năm đi bốn nơi. Nam Cali tìm cụ mi, Bắc Cali tìm cụ mi, xuống Texas tìm cụ mi, qua đây tìm cụ mi. Chỗ mô cũng tham gia cộng đồng, cũng hội họp. Hắn nói moa có hứa với cụ mi rồi thì phải tìm cụ mi cho hắn. Nhưng moa có nhớ hứa hẹn chi mô. Mà vợ chồng moa không biết cụ mi là ai, mặt mũi ra răng. Tấm hình, mấy chục năm, có ai trẻ mãi không già! Rứa mới chết chớ. Rứa là gặp đứa mô tuổi bằng cụ mi cũng rước về nhà cho con nhỏ ngó mặt. Hú vía, hắn còn đòi đi Canada và Úc tìm cụ mi nữa đó. Mà moa nói có ai đi HO qua đó mô… Đáng lẽ tôi còn dài dòng, nhưng tạm chấm hết ở đây vì tôi nghe vợ tôi nôn oẹ, ói mữa gì trong phòng tắm. "Trăng mật cho cố, bây giờ ói mật xanh mật vàng. Rõ khổ!"./

Hoàng Dũng Tuấn

Virginia

06 Tháng Giêng 2019(Xem: 6436)
23 Tháng Mười Hai 2018(Xem: 7188)
27 Tháng Mười Một 2018(Xem: 7179)
21 Tháng Mười 2018(Xem: 7775)
02 Tháng Tám 2018(Xem: 7292)
15 Tháng Bảy 2018(Xem: 7329)