Công Chúa Đồng Xuân – Quyển thượng Chương 1 – 10

14 Tháng Mười Một 20246:41 SA(Xem: 181)

VĂN HÓA ONLINE - VĂN HỌC NGHỆ THUẬT - THỨ NĂM 14 NOV 2024

image003image005

Trần Thùy Mai


Công Chúa Đồng Xuân


(Tiểu thuyết lịch sử)


Quyển thượng


Lời tác giả


Thời kỳ tự chủ của triều Nguyễn mở ra và đóng lại với hai vụ án rúng động:  vụ đầu triều với cái án của Hoàng tôn Mỹ Đường và mẹ ruột là Vương phi họ Tống; vụ thứ hai xảy ra vào buổi kết thúc, chính là vụ án của Công chúa Đồng Xuân.


Cả hai án đều là tội  tình dục, và đều dính líu với những mưu đồ chính trị. Cả hai đều được xét xử rất vội dưới lưỡi kiếm quyền lực, không qua quy trình pháp lý đương thời. Tháng năm qua, hình hài xương cốt đã thành tro bụi, nhưng sự thật ở đâu sẽ mãi mãi là ẩn số.


Đáng lưu ý ở chỗ: Vụ án Đồng Xuân, trong mối liên hệ với ba vị phụ chính đầu triều lúc bấy giờ - Hồng Hưu, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết - là gút thắt cuối cùng của cuộc tương tranh giữa hai phái chủ chiến và chủ hòa, đã tác động sâu sắc đến chính trường triều Nguyễn trong suốt hai mươi bảy năm, từ 1858 đến 1885. Không phải chỉ tương tranh, phải nói rằng đấy là cả một cuộc tương tàn, phá hủy trầm trọng sức đề kháng của dân tộc trước cuộc tấn công xâm lăng của thực dân Pháp.


Vụ án Đồng Xuân cũng chính là đêm trước của biến cố Thất thủ kinh đô, một trong những chấn thương lớn để lại ám ảnh sâu sắc trong đời sống văn hóa Việt. Hằng năm ở Cố đô Huế, cứ vào ngày hai mươi ba tháng năm âm lịch, dân chúng vẫn còn bày những mâm cỗ cúng dọc hai bên đường, tưởng nhớ những người đã chết trong cái ngày lịch sử ấy. Cùng với hồi niệm quá khứ, ta không thể lảng tránh một câu hỏi: Tại sao trong suốt một phần tư thế kỷ, khi đối mặt với ngoại xâm, sĩ phu và dân chúng Việt không thể đoàn kết, mà lại thù hằn nhau, giết chóc nhau, tự làm suy yếu chính mình? Ai là người làm mất nước: vua Tự Đức, triều đình Nguyễn, hay chính là những điều bất cập tiềm tàng trong dân tộc tính Việt? Những bất cập ấy, đến nay có còn không?


Xin  quay lại với cuộc đời công chúa Đồng Xuân. Trong xã hội phương Đông, không có gì hủy hoại sự nghiệp của một người nhanh chóng hơn một vụ tai tiếng về tình dục. Bởi vậy cũng như với vụ Mỹ Đường (đã được nói tới trong tiểu thuyết Từ Dụ Thái hậu), những tội nhân trong án Đồng Xuân rất có thể chỉ là nạn nhân, là những “con dê tế thần” trong một cơn bão quá tàn khốc của lịch sử.


Họ oan hay không oan? Họ đáng tội phải chịu nhục, chịu chết, hay họ chỉ là những người thất thế oan khiên? Thực sự nếu cho họ một phiên tòa “phúc thẩm” vào đời nay, tất phải thừa nhận đã có những yếu tố cưỡng ép và khuất tất trong việc xét xử. Trong hoàn cảnh ấy, nàng công chúa tội nghiệp cũng rất xứng đáng được hưởng một quy chế chính đáng của nền tư pháp: quyền được suy đoán vô tội.


Cựu Kim Sơn, ngày 8 tháng 3 năm 2022


Trần Thùy Mai


Chương 1

Tráng sĩ trong vườn lựu


Ngày mồng sáu tháng bảy năm Kỷ Mùi, vào tầm xế chiều, một trận mưa lớn ào ào trút xuống kinh thành Huế.


Trên thềm cung Gia Thọ, Thái hậu Từ Dụ đứng nhìn trời, miệng lâm râm tạ ơn Trời Đất.


Ba tháng nay trời làm cơn hạn hán kéo dài, ai cũng cầm chắc vụ mùa sẽ mất trắng. Nhà vua mấy lần sai Khâm Thiên Giám lập đàn cầu đảo.


Bây giờ trời đã mưa! Mắt rưng rưng, Thái hậu bảo cung nữ:


- Hôm qua trời nắng chang chang, Hoàng thượng đích thân đầu trần khấn vái. Trời cao trông xuống chắc đã cảm lòng thành. Vậy là dân có gạo ăn, lính có lương đi đánh giặc rồi!


Thái giám thấy mưa bắn cả vào người Thái hậu, vội lấy lọng ra che. Có tiếng reo vui từ rất gần: bên các cung lân cận, cung nữ đang lấy chum vại ra hứng nước, tiếng nói cười vang vang trong tiếng mưa xối xả. Thái hậu chợt dừng chân: trước nhà thủy tạ, một cái bóng bé nhỏ đang nhảy tung tăng, hai tay dang ra như muốn hứng cả cơn mưa vào lòng.


“Ai vậy?”


“Tâu Thái hậu, Mệ Út đó!”


Theo thói quen ở kinh thành, các công chúa, hoàng tử đều được dân gian gọi là Mệ. Mệ Út, tức là công chúa nhỏ nhất trong cung.


Thái hậu cau mày:


- Gia Phúc hả? Hà Hoa, con gọi nó vào đây.


Mấy phút sau, công chúa út Gia Phúc được hai cung nữ nắm chặt tay kéo vào. Một cô bé đầu trần, mái tóc ướt nhẹp rối bung xõa xuống hai vai. Thái hậu lướt nhìn lên thân mình công chúa: nước mưa dán chặt vào tấm áo cổ kiềng bằng lụa tơ tằm, làm lộ rõ đôi vú dậy thì, nhỏ nhắn và ngon xinh như hai nắm xôi trắng.


Thái hậu khẽ tặc lưỡi lắc đầu, quay nhìn cung nữ. Biết ý, Hà Hoa vội tháo chiếc khăn quàng khoác lên mình công chúa. Thái hậu nghiêm trang:


- Gia Phúc, ta đã nhiều lần dạy con: con gái phải ý tứ, đi đứng phải khoan thai, nói năng phải nhẹ nhàng. Sắp gả chồng rồi đó, sao mà cứ lung lăng buông tuồng như con nít ?


Mặc cho cung nữ giữ chặt tấm khăn quanh mình, cô bé cứ ngọ ngoạy liên tục như một con thú nhỏ bị người ta tóm cổ. Thừa lúc người cung nữ lơi tay, Gia Phúc chạy ào tới, ôm lấy Thái hậu:


- Mẫu hậu ôi! Đừng gả chồng, con thích ở mãi trong cung với mẫu hậu thôi!


 Nói rồi Gia Phúc áp má vào bàn tay Thái hậu, hít hà những ngón tay thơm mùi trầm. Thái hậu không khỏi mềm lòng, nhưng cũng lập nghiêm:


- Không gả chồng, để mà làm giặc trong cung hay sao? Thôi, hãy đi thay áo xống cho chỉnh tề ngay ngắn. Chờ khi mưa tạnh, cho con theo mẫu hậu đi sang thăm phủ Tùng Thiện.


Nghe nói được xuất cung, Gia Phúc mừng quá, suýt nhảy thót lên. Hà Hoa vội bấm vào tay, cô bé mới nhớ ra nghi thức, vội bước lùi ba bước, cúi đầu liến thoắng:


- Con là Gia Phúc xin tạ ơn mẫu hậu!


Gia Phúc le te đi rồi, Thái hậu nhìn xa xăm ra ngoài mưa, trên mặt thoáng một nét u hoài...


∞∞∞


- Vú Nhự, vú biết không, tắm mưa mát lắm, thích lắm!


Gia Phúc thỏ thẻ trong khi vú Nhự dùng khăn bông lau mặt mũi, rồi thay áo cho nàng.


- Ôi, con nít nhà quê mới tắm rông như vậy, chứ trong hoàng cung ai lại thế!


Vú Nhự vừa nói vừa đẩy Gia Phúc ngồi lên đôn sứ trước tấm gương soi.


Gia Phúc chăm chăm nhìn mình trong gương.


- Sao mặt ta lại bầu bầu, không có hình trái soan như mẫu hậu, hở vú?


Vú Nhự mải lo chải mái tóc ướt, không trả lời.


- Lại nữa, sao lông mày của ta lại đậm xấu thế này!


- Lông mày công chúa dày và xanh tốt như rừng mùa xuân, vậy là chứng tỏ khí huyết dồi dào, trong người mạnh khỏe, tốt tướng lắm đó ạ! - Thị nữ Cúc Tần vừa đem đôi hài mới thêu đến, chen vào đỡ lời cho vú Nhự.


- Mi chỉ nịnh ta thôi. Ta thích lông mày cong cong hình trăng non giống như của mẫu hậu! Sao mẫu hậu sinh ra ta, mà lông mày lại không giống ta?


Vú Nhự bật cười:


- Cho dù là mẹ con, nhưng trời sinh mỗi người mỗi tướng, mỗi người mỗi số chứ! Công chúa thích mày thanh thì để Cúc Tần tỉa bớt đi một chút.


Cúc Tần lấy hai hạt thóc cầm tay, kẹp nhổ từng sợi lông mày của Gia Phúc. Ả thị nữ này mặt mày đen xấu, thân hình cục mịch nhưng có đôi bàn tay cực kỳ khéo léo, bởi vậy mới được chọn vào hầu công chúa. Trong chốc lát, nét mày thanh gọn và sắc sảo hẳn lên.


Gia Phúc vẫn ỏng eo:


- Sao Cúc Tần không kẻ mi cho ta. Ta thích kẻ mi cho đen, giống như bà Lương phi, bà Thụy tần!


- Mắt công chúa hai mí to rõ lắm rồi, không cần vẽ! Mà công chúa còn nhỏ, sang năm mới đến tuổi cài trâm vấn khăn. Được bới tóc vấn khăn rồi mới được thoa son, kẻ mi. Thái hậu đã có dặn, vú không dám trái ý! Giờ thì công chúa chỉ được dùng một chút thơm thơm này thôi… - Vú Nhự vừa nói, vừa nhón lấy một viên sáp hoắc hương trong lọ sứ, xoa nhẹ vào hai bàn tay Gia Phúc.


Thay lui đổi tới đến mấy lượt, Gia Phúc mới tạm ưng cái áo bằng sa màu hồng dệt hoa nhỏ li ti. Vú Nhự cẩn thận đặt chiếc khăn vuông nhỏ vào trong ống tay áo rộng, rồi giắt lên tóc cô bé một bông hoa lụa xinh xinh cũng màu đỏ hồng.


Không muốn phiền gia quyến nhà Tùng Thiện phải đón rước rình rang, nên Thái hậu chỉ cho người báo tin có nửa canh giờ trước khi khởi kiệu. Đến nơi, bà cũng ra hiệu cho phu kiệu đi thẳng vào Tiêu Viên, khu vực dành riêng cho phụ nữ. Tùng Thiện công lúc ấy đi vắng, phu nhân là Nguyên cơ họ Trương đón tiếp Thái hậu trong sảnh đường Lạc Thiện. Trong ngoài sảnh đều treo đèn ú vàng. Nguyên Cơ thưa:


- Tâu Thái hậu, hôm nay Hoàng thượng cầu mưa được mưa, trong triều ngoài nội ai cũng reo mừng. Vì vậy chúng con cho treo hỉ đăng, giống như trong ngày Tết.


Thái hậu hài lòng, gật đầu:


- Tốt lắm! Ta nhớ ngày kia là ngày giỗ Thục tần, hôm nay mang chút hương hoa đến viếng người cũ đây. – Thục tần Nguyễn Thị Bảo là mẹ của Tùng Thiện công, khi còn ở trong cung từng là bạn tâm giao của Thái hậu.


Cung nữ theo hầu tiến lên, hai tay dâng mâm lễ. Nguyên cơ đỡ lấy, đưa Thái hậu đến trước bàn thờ. Trong lúc Thái hậu còn trầm ngâm trước khói nhang thơm, thì Gia Phúc đã rón rén lẻn ra vườn. Công nữ Thể Cúc - con gái đầu lòng của Tùng Thiện công - đang cười chúm chím, đứng chờ dưới bóng cây ngọc lan. Hai thiếu nữ vốn rất thân thiết, mỗi lần có dịp gặp nhau là ríu rít tâm sự.


Dắt tay nhau, hai nàng thơ thẩn đi vào vườn. Khu Tiêu Viên rất nên thơ với các loài cây bình dị: những cây vả, những cây dâu da nối tiếp nhau, lá xanh, trái non đọng nước mưa lấp lánh, khác hẳn hoa cảnh cầu kỳ trong hoàng cung. Đối với Gia Phúc, khu vườn phủ Tùng Thiện thật đẹp, bí ẩn, kỳ lạ.


- Thể Cúc, đây là thứ cây gì, hay ghê…


- Dạ, ở trên rặng chè tàu ấy phải không, dây tơ hồng đó!


- Gọi là tơ hồng mà màu không hồng, lại vàng óng thế này. Sao kỳ vậy?


- Vì mỗi sợi dây nó vít chặt hai lá chè lại với nhau đó. Trong tích xưa, ông Tơ bà Nguyệt trên trời lấy dây tơ hồng buộc chân con trai con gái. Buộc ai với ai thì lớn lên họ sẽ lấy nhau.


- Thật có chuyện như vậy sao?


- Dạ, Cúc nghe phụ thân nói vậy!


Mải chuyện trò tỉ tê, hai cô gái nhỏ đi xa dần hiên nhà Lạc Thiện, đến sát một bức tường loang lổ rêu. Thể Cúc kéo tay công chúa, ý bảo quay lui.


Gia Phúc săm soi:


- Ta thấy ở đây vẫn có cánh cửa! Mình đi qua được mà!


- Cửa ấy đã khóa rồi, mà không khóa chúng mình cũng không được sang. Bên kia bức tường là Ký Thưởng viên, chỗ của đàn ông!


- Vậy hả? - Gia Phúc càng tò mò, nàng áp tai vào cánh cửa, nghe ngóng.


Có tiếng ai đó ngâm thơ vọng sang, giọng trầm trầm hùng tráng:


“Phong tiêu tiêu hề, Dịch thuỷ hàn


Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục phản…”


Xen lẫn trong tiếng ngâm là tiếng thép mài trên đá. Gia Phúc kéo Thể Cúc lại gần, thì thầm:


- Thể Cúc, em nghe có hiểu gì không?


Thể Cúc thật ra còn lớn hơn Gia Phúc hai tuổi, nhưng vì cha Cúc là em Tiên đế Thiệu Trị, nên Cúc vẫn phải xưng em với Gia Phúc.


Thể Cúc thật thà:


- Em không hiểu, chỉ thấy hay lắm thôi!


- Không hiểu mà dám bảo là hay? - Gia Phúc lấy làm tự đắc - Ở trong cung, chị đã nghe Tiệp dư Phu Tử dạy bài này rồi. Để chị giảng cho, đây là bài thơ của tráng sĩ Kinh Kha trên đường đi diệt bạo chúa Tần Thủy Hoàng đó!


- À, chuyện Kinh Kha thì em có nghe phụ thân dạy. Nhưng còn bài thơ ý từng câu nói sao, chị giảng tiếp đi!


- Còn ý từng câu thơ thì… thì… chị cũng không nhớ! - Gia Phúc lúng túng - Mà ai ngâm thơ bên đó?


Thể Cúc rụt rè:


- Bên kia tường là vườn lựu, trong đó có Thư Trai, là chỗ ở lại của khách. Cái giọng ngâm này là giọng của nho sĩ họ Đoàn, tên Trưng, thường ở lại dạy học cho mấy em nhỏ của Cúc đó!


Gia Phúc cười tinh quái:


- Nghe giọng mà đã nhận ra người, giỏi thật. Thú nhận đi, chắc đã nhiều lần ra đây nghe lỏm rồi phải không?


Thể Cúc đỏ mặt chống chế:


- Đâu biết mặt mũi người ta ra sao, chỉ vì thích cái giọng nên thỉnh thoảng em ngồi đây nghe lén một chút thôi mà…


- Ừ há, ngâm thơ thì hay mà hổng biết người ngợm ra sao, để coi…


Gia Phúc nhòm kỹ khắp bức tường, chợt phát hiện một lỗ hổng bị dây leo bám kín. Nàng vạch chỗ hở nhìn sang, xì xào: “Thể Cúc, Thể Cúc, tới đây!”


Hai cô gái châu đầu nhìn sang: một cảnh tượng rất bình thường nhưng đối với hai người con gái cấm cung thì thật là đặc biệt: Người thanh niên họ Đoàn đầu đội khăn chữ nhất, vẻ mặt rắn rỏi, ngồi trên bậc thềm vừa ngâm thơ vừa nhìn trời. Ngoài sân, dưới gốc lựu, một chàng trai khác mặc võ phục màu nâu đang mài gươm, tiếng gươm xiết lên đá nhịp nhàng theo tiếng thơ hùng tráng.


Cảm thấy thú vị, nên Gia Phúc nhường cái khe nứt cho Thể Cúc, còn mình trèo lên gốc cây sù sì, bò hẳn lên đầu tường xem cho rõ. 


Tráng sĩ áo nâu mài xong, vung gươm múa, ánh thép loang loáng, tiếng thép xiết vào không khí vùn vụt. Đoàn Trưng thấy vậy cũng dừng ngâm thơ, bước ra sân, tay không dạo một bài quyền.


Tráng sĩ kia dừng gươm đứng nhìn, lát sau cất tiếng:


- Đoàn huynh văn võ song toàn, đời này hiếm ai được như vậy! Nguyễn Chí này được kết bạn, thật là may mắn!


Gia Phúc nhận ra người này nói giọng miền Nam, giống như mẫu hậu và nhiều thị nữ trong cung.


Đoàn Trưng cười:


- Đường gươm của Nguyễn Chí thì thua ai? Cái tài ấy, mà không chịu thi cử để ra làm quan, chỉ thích phiêu bạt giang hồ, lo việc thiên hạ. Chừng ấy cũng đủ cho Đoàn mỗ phải kính phục gọi bằng anh lớn.


- Ha ha, lâu nay ai cũng nói Chí khùng, nay chỉ có Đoàn huynh là ngợi khen. Anh em mình tuy mới quen, nhưng đáng gọi là tri kỷ. Thật ra có chút võ nghệ, chẳng qua là để giữ mình thôi! Thời này gươm giáo không đủ để lui giặc. Phải chi mấy đường gươm này mà lui được giặc Tây dương, thì Chí không phải nhọc công lặn lội ra đến tận kinh đô!


Đoàn Trưng gật đầu:


- Nguyễn huynh công khó đường xa, ra đến đây muốn dâng kế sách lên Hoàng thượng. Việc này ắt phải nhờ Tùng Thiện công tiến dẫn. Đức ông Tùng Thiện tuy là hoàng thúc, nhưng rất gần gũi với dân, nhất định thế nào cũng giúp. Chỉ hiềm mấy hôm nay có việc rắc rối xảy ra trong Quảng, Đức ông phải vào trong Tôn Nhân phủ chờ lệnh, ba hôm chưa thấy về nhà. Chưa tiến dẫn được Nguyễn huynh, Trưng thật áy náy quá.


- Không sao! Chí vẫn chờ được! Chí cũng biết, tàu Pháp quần đi quần lại ngoài biển, uy hiếp cửa Hàn. Cũng chính vì vậy mà Chí càng nóng lòng muốn dâng kế sách để giúp mưu cho Hoàng thượng!


Đoàn Trưng đứng dậy, lộ rõ vẻ băn khoăn. Bước đi lui tới một lúc trên sân, rồi chàng dừng lại, cảm khái:


- Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Tuy đệ chưa đọc tờ biểu, nhưng rất ủng hộ tấm lòng nghĩa khí của huynh. Chỉ buồn là… Nay trong Nam giặc Tây nó đã bức hãm thành Gia Định, vào tới Bến Thành ở lì không chịu lui. Ngoài Trung này thì chúng chiếm biển, hễ gặp thuyền bè của ngư dân ta là chúng bắn tan nát. Vậy mà triều đình cứ im ỉm coi như việc riêng, không bố cáo cho dân biết. Xem vậy, thì biết là họ có muốn lắng nghe kẻ sĩ trong thiên hạ hay không! Có khi lời thật mất lòng, lại bị bọn quan lại nó tóm cổ tống giam vào Nhà Đồ Ngoại!


- Bởi vậy mới cần phải làm sao trực tiếp dâng lên Hoàng thượng! Giờ không phải như xưa, Nam Bắc giao thương, tin tức ra vào. Triều đình không bố cáo, kẻ sĩ vẫn biết. Biết mà không lên tiếng sao được?


- Huynh thấy đó, Quảng Nam cách không xa, ngặt nỗi mấy lớp đèo ngăn cách. Bởi vậy, chiến trường ngay sát bên, mà ở đây, người ta còn nhởn nhơ lắm. Đất kinh thành toàn là ông hoàng bà chúa, trong dinh phủ vẫn mặc sức vui chơi hưởng thụ, nào có biết gì đâu? Quý tộc triều Nguyễn vô quyền vô lực, không thể nào mà so với triều Lý, triều Trần được!


Gia Phúc dỏng tai nghe, chỉ hiểu loáng thoáng. Đến lúc nghe Đoàn Trưng chỉ trích “ông hoàng bà chúa”, thì bất giác tức tối, quên cả thận trọng. Nàng dẫm chân, đạp phải đám rêu trên cành cây, trượt nhào về phía trước, rơi tọt qua bức tường ngăn. Cũng còn may, người tên là Nguyễn Chí vừa thoáng nghe động, lập tức tung mình vọt lên, đỡ lấy thiếu nữ.


Gia Phúc hốt hoảng chẳng thấy trời đất gì. Đến lúc mở mắt, thấy chàng trai đang đỡ gọn mình trong lòng, nàng xấu hổ quá vùng ra, kêu lên:


- Ái cha, sao nhà ngươi dám động vào ta?


Nguyễn Chí cười nhạt:


- Ô hay? Cô té từ đầu tường cao hơn hai bộ, tôi vừa cứu cô, không cảm ơn thì chớ lại còn lớn lối.


- Ta té kệ ta, không khiến ngươi động vào.


Đoàn Trưng kéo áo bạn:


- Thôi, kệ cô ta. Xem thử cô làm cách nào quay lại bên kia, có phải nhờ anh em mình công kênh lên không. Mà này, cô làm cái gì mà núp lén ở đầu tường, cứ như là đạo tặc vậy.


Gia Phúc trừng mắt, chống hai tay lên hông:


- Ừ ta núp để nghe đấy! Các người dám làm gì không? Ai cho phép các người đàn đúm để nói xấu triều đình. Ta đã nghe hết những lời vô lễ phạm thượng của các người rồi, đừng có chối.


- Ai cần chối? - Đoàn Trưng đáp trả. Nguyễn Chí xua tay ngăn lại:


- Đoàn huynh, đừng vì việc nhỏ xíu mà xảy ra chuyện lớn.


Vừa lúc đó, một cô gái áo tím nhô mình lên đầu tường. Gia Phúc quay lui, kêu:


- Thể Cúc! Mau gọi người tới bênh chị!


Nghe mấy tiếng “Thể Cúc”, Đoàn Trưng ngẩng lên. Đã lâu chàng nghe nói Tùng Thiện công có một ái nữ tên là Thể Cúc, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy.


Thể Cúc cũng nhìn Trưng thật nhanh, nàng mỉm cười e lệ rồi vội thụp xuống, biến mất sau bức tường rêu. Đám nữ tỳ cũng vừa chạy tới, họ đặt thang vượt tường sang, xúm xít quanh Gia Phúc:


- Xin mau mau quay lại Tiêu Viên. Thái hậu nhìn quanh không thấy công chúa, nãy giờ đang truyền gọi!


“Chết chết!” Gia Phúc hoảng hốt kêu lên, quên mất chuyện đôi co với Nguyễn Chí và Đoàn Trưng. Tất cả hấp tấp cuốn nhau đi, chỉ còn lại hai chàng trai trong vườn lựu.


Họ ngỡ ngàng nhìn nhau:


- Công chúa? Cái cô nàng đanh đá ấy là công chúa?


- Nguyễn huynh, có nghe thấy gì không? Thái hậu đang ở đây. Thật là dịp may hiếm có!


Chương 2

Chiến, Hòa, Thủ?


Mấy hôm sau Tùng Thiện công Miên Thẩm mới về phủ. Nghe nói có người đón kiệu Thái hậu, Công cau mày:


- Việc xảy ra trong phủ, mình cũng chịu phần trách nhiệm. Biểu dâng lên vua, lẽ ra phải chờ ta xem qua mới phải.


Trương Nguyên cơ giãi bày:


- Thiếp cũng không ngờ. Kẻ kia nghe đâu là người quen của Đoàn Trưng, mấy hôm trước xin trú lại trong thư trai chờ ra mắt Đức ông. Không rõ vì sao lại biết Thái hậu giá lâm? Thiếp vừa đưa kiệu ngự ra đến cổng Tiêu Viên thì hắn đã quỳ dâng ngay trước lối ra. Thật tình thiếp trở tay không kịp!


- Bậy quá. Bây giờ hắn ở đâu?


- Đoàn Trưng đưa hắn đến, bảo là muốn nhờ Đức ông dâng biểu lên Hoàng thượng. Nay đã dâng được, mà Đức ông thì chưa biết khi nào về phủ, nên cả hai cáo từ đi rồi!


Nghe nhắc đến tên Đoàn Trưng, Tùng Thiện công khẽ gật đầu:


- Nếu Đoàn Trưng tiến cử, thì chắc cũng là người có học hạnh, có tâm huyết, có thể tin được.


- Đức ông không quở, vậy thiếp yên bụng rồi. Để thiếp hối kẻ hầu dọn cháo, Đức ông dùng một chút cho đỡ mệt.


Tùng Thiện công dùng qua quýt mấy muỗng cháo hạt sen, rồi vào giường ngả lưng. Nguyên cơ tự tay ém màn, hỏi han:


- Đức ông đã nói kẻ kia chắc cũng tin được, vậy sao còn ưu tư gì nữa?


Tùng Thiện công cầm tay vợ:


- Nước nhà lúc này đang có việc. Giặc Phú Lang Sa hiếp lấn, trong triều các quan mỗi người mỗi ý, tình hình chưa biết ngả ngũ về đâu? Hoàng thượng đang lo nghĩ lắm.


- Lệ triều Nguyễn ta từ xưa, hoàng thân quốc thích không được làm quan chức, không được tham gia chính sự. Sao đến lúc có việc lại gọi đến Đức ông?


- Đúng là Thánh tổ Minh Mạng xưa đã quy định như vậy. Nhưng hễ có việc lớn Hoàng thượng vẫn cho ta dự nghe. Hiện nay các quan kẻ thì chủ chiến, người thì chủ hòa, mà chiến hòa hai lẽ đều có nhiều trở ngại!


- Vậy ý Hoàng thượng thì sao, ngài muốn hòa hay chiến?


- Phu nhân thử nghĩ xem, nếu có kẻ gian ác đến đập phá cái phủ này, thì với địa vị là chủ nhà, phu nhân muốn hòa hay muốn chiến?


 - Dạ, rõ ràng là thiếp muốn chiến, nhất định sẽ sai gia nhân cầm gậy gộc ra đập cho chúng một trận.


- Đó! Phu nhân muốn chiến, nhưng phải sai gia nhân, phải có gậy gộc. Hoàng thượng làm chủ, tất nhiên nóng lòng giang sơn hơn ai hết! Chỉ có điều, nếu chiến thì ai cầm quân ra đánh, đánh như thế nào, vũ khí ra sao… Đó mới là chuyện phải tính!


    Trương Nguyên cơ thở dài, gật đầu. Tuy chỉ ở trong khuê môn, bà cũng biết năm ngoái tàu Tây tấn công Gia Định trong Nam, rồi lại ra Trung bắn phá cửa Hàn. Hai quan võ là Nguyễn Triều và Nguyễn An hết sức cố đánh, cuối cùng tử trận cả hai. Từ trước đến nay, việc binh đao vẫn có, nhưng chưa bao giờ đánh một trận mất luôn hai tướng như vậy.


      Tháng ba năm nay, tàu Tây lại tới, lần này chúng không bắn từ xa nữa mà đổ bộ hẳn lên bờ. Tướng Nguyễn Tri Phương dàn quân kín bãi biển, đánh rất hăng, Tây phải lui lên tàu lớn hết. Tuy vậy, chúng vẫn thả neo ở lì, nhất định không đi. Chỉ huy của quân Tây dương là De Genouilly còn gửi thư cho triều đình Huế, nói rõ là thư nghị hòa.


Lúc này đây, trong khi hai vợ chồng Tùng Thiện công trò chuyện, thì trong cung, Hoàng đế Tự Đức vẫn còn thức trước án rồng. Bức thư của tướng Pháp vẫn mở ra trước mặt. Tiếng là cầu hòa, nhưng lại đòi hỏi rất nhiều điều kiện. Xem ra đây chẳng phải hòa thư, mà chính là chiến thư.


Cuộc bàn luận của triều thần lúc chiều nay vẫn còn ngổn ngang trong tâm trí nhà vua.


- Chúng bảo không yêu cầu gì ngoài ba việc: Thứ nhất, ta phải mở hết cửa biển cho chúng vào buôn bán; Thứ hai, phải cho đạo Gia Tô truyền bá tự do; Thứ ba, phải cho chúng đồn trú và đặt Tòa Khâm sứ ở Sài Gòn Gia Định. Ba điều này, đều là không chấp nhận được. Tâu Hoàng thượng, cái hòa này rất là ngang trái, nhất định không nên một chút nào! - Nha quan là Lê Hiếu Hữu dõng dạc tâu.


Thượng thư Bộ Hộ là Nguyễn Bá Nghi lên tiếng:


- Tuy trận vừa rồi mình đẩy lui được giặc, nhưng chết mất hơn ba ngàn lính. Giặc đến ai ai chẳng muốn đánh, nhưng đánh cái giặc này cũng không dễ, đó là sự thật. Giờ chúng nói nghị hòa, cũng là một việc ta cần cân nhắc cho kỹ!


Nguyễn Bá Nghi vừa nói chưa dứt, các quan Tô Linh, Phạm Hữu Nghi, Trần Văn Vinh bừng bừng nộ khí, đua nhau xin tâu. “Mới ra quân đã sợ giặc, muốn hòa, còn đâu là khí thế?” “Hơn nữa, đất Gia Định Sài Gòn chúng chiếm chưa trả, ta đang đòi, nay chúng lại muốn ở lì là sao? Lại muốn tự do truyền bá đạo Gia Tô, là mục đích đưa bọn cố đạo Tây luồn lỏi do thám khắp nước ta. Trăm điều giảo hiểm sẽ từ cái chữ HÒA ấy mà ra!”


Đến cuối giờ Thân, vua cho đình thần giải tán hết, chỉ giữ lại hai người: Nguyễn Tri Phương và Phan Thanh Giản.


Phan Thanh Giản là người đầu tiên đậu tiến sĩ trong Nam, vua vẫn tin vào sự hiểu biết của ông.


- Tâu Hoàng thượng! Thần đọc Hương Cảng nhật báo, biết người Phú Lang Sa đang có việc rắc rối đánh nhau bên đó. Tàu, súng, lính tráng đang tập trung cho cuộc chiến với người Tàu. Nhưng nước Tàu bây giờ suy lắm rồi, đàng nào cũng phải chịu khuất, nên theo ý hạ thần, việc dây dưa này cũng không lâu. Xong việc bên Tàu, ắt sẽ dồn binh quay lại đánh ta! Tướng Phú Lang Sa ở cửa Hàn nghị hòa, không phải là chán đánh muốn nghỉ binh, vì muốn nghỉ binh thì chỉ việc nhổ neo kéo đi, có gì mà phải thư từ. Chẳng qua là họ muốn đạt mục đích tối đa mà tổn thất tối thiểu đó thôi!


- Thật sao? Vậy ý khanh thế nào?


- Theo thần, giặc nó đã tính sao cho tổn thất ít nhất, thì ta cũng nên tính sao cho bớt hao phí về người, về của. Nên dựa theo đó làm kế an toàn, cố kéo dài thời gian nghỉ binh càng lâu càng tốt. Chờ cho sức lực vượng lên, rồi mới tùy cơ ứng phó! 


Vua phật lòng, hỏi lại:


- Nếu quả thật chúng nó bận đánh Tàu, tất nhiên sức lực phân tán, sao ta không nhân dịp này đánh rát luôn năm sáu trận? Chúng thấy không dễ ăn, có khi phải chịu nhả mồi! Nguyễn Tri Phương, khanh nghĩ sao?


Nguyễn Tri Phương vốn là danh tướng, từng đánh thắng quân Xiêm La, bình định Chân Lạp, giữ yên biên thùy phía Tây đất nước. Tiên đế Thiệu Trị rất yêu quý, cho ông lấy hiệu cờ là An Tây Trí Dũng Tướng. Thời gian này ông đang trực tiếp chỉ huy phòng thủ ở Quảng Nam, mới vừa về Kinh được mấy hôm.


- Tâu Hoàng thượng! Hiện thần đã cho lập đồn Thạc Gián rất kiên cố trước cửa sông Hàn. Lại đắp lũy dọc bờ biển suốt từ An Sơn đến Nại Hiên, rải chông, đặt phục binh rất cẩn mật. Quân tướng đều thề quyết chiến. Bây giờ cái cần nhất là quân số. Hiện tại dưới tay thần chỉ còn ba ngàn hai trăm quân, nếu chia ra để phòng thủ thì không còn lính ra trận nữa. Vì vậy ý thần là không chiến, không hòa, mà phải THỦ cho thật vững chắc!


Vẻ vững vàng của vị võ tướng làm nhà vua thấy yên lòng. Nhưng nhà vua còn muốn dấn thêm một bước:


- Bờ biển ta dài lại trống trải. Thủ thì phải chia binh, binh chia thì sức yếu, chi bằng hợp cả lại mà tấn công. Nếu vây đánh mà đuổi được địch đi thì cần gì phải thủ nữa?


- Tâu Hoàng thượng, ham tấn công mà bỏ trống phòng thủ, cái đó là mạo hiểm, phạm vào điều cấm kỵ trong phép dùng binh. Thần thấy rất là không nên! Thủ thì mình dựa vào thành lũy trên đất liền mà đánh, mình có lợi thế. Chiến thì phải đưa thuyền ra biển, vốn là thế kém của mình so với giặc, không thể nói chắc là đánh thắng được.


- Vậy thì phải mộ thêm quân! Củng cố lại chiến thuyền! Xem xét cho kỹ, ta với địch, hơn kém cái gì, kém chỗ nào thì tìm cách tăng cường cho ngang sức…


- Tâu Hoàng thượng, luận về hơn kém, thì cái gì mình cũng hơn địch. Về người, mình đông hơn, về ý chí, dân mình rất yêu nước, chịu cực chịu khổ không tiếc thân mạng. Về binh lương, mình đánh trên đất nước mình, tiếp vận dễ dàng. Chỉ có một điều, mà khi đối mặt với quân địch, thần mới nhận ra là quan trọng đến chừng nào…


- Điều gì? - Vua cau mày hỏi.


- Tâu Hoàng thượng, đó là phương tiện và vũ khí. Tàu, và súng!


- Tàu và súng? - Vua cau mày - Hai chiếc thuyền kiểu Tây dương đúc thời Minh Mạng, công năng ra sao? Còn súng, khanh thấy mười hai cỗ súng Thần Uy Phục Viễn Đại Tướng Quân mà tiên đế cho đúc năm Đinh Mùi, nếu so với súng đại bác của Tây thì xấp xỉ được mấy phần? - Nhà vua hỏi.


Nguyễn Tri Phương nhìn nhà vua, không nói. Một cái lặng im rất nhiều ý nghĩa. Nhà vua chợt hiểu ra. Lặng đi một lúc, ngài mới ra hiệu cho hai đại thần lui gót.


Về đến điện Càn Thành, vua vẫn còn nghĩ ngợi. Cung nữ dâng bữa tối. Mâm ngự thiện nhiều món trân quý nhưng ngài chỉ dùng chút cơm gạo thơm với một chén trà liên tu.


Vào đến nội tẩm, vua buông mình trên nệm gấm.


Cung nhân thay áo, cởi giày cho ngài, rồi lui ra.


- Muôn tâu, thần thiếp xin thỉnh an Hoàng thượng! - Trung phi Vũ Thị Duyên lên thềm, quỳ lạy.


Nhà vua chợt nhớ ra, hôm nay là phiên chầu hầu của Trung phi.


Lên ngôi đã mười hai năm, ngài vẫn chưa có con nối dõi. Có con nối dòng cũng là một phận sự rất lớn của ông vua, nên việc chăn gối với phi tần cũng là một việc mà ngài không được sao nhãng. Trong cung, từ lâu không còn cái lệ vua rút thẻ chọn người đẹp mỗi đêm. Từ nhất, nhị giai phi cho đến cửu giai tài nhân đều được chia lịch, luân phiên nhau hầu chăn gối để cầu may.


Trung phi Vũ Thị Duyên là người vợ đầu tiên của ngài. Tính nàng hiền hậu ngoan ngoãn, vua rất thương, nhưng tình chăn gối không mặn mà cho lắm. Hôm nay nhà vua đang căng thẳng sau cuộc tranh luận, nên vẻ thật thà lễ phép của Trung phi chỉ làm cho ngài… thấy mệt.


- Trẫm không thích đàn bà tô son điểm phấn đâu! Lần sau ái khanh vào chầu, không cần trang điểm đậm quá như vậy!


Trung phi cúi đầu:


- Thần thiếp xin tuân theo thánh ý.


Nàng hơi tủi lòng nhưng không dám nói ra. Trung phi đã ba mươi mốt tuổi, cái tuổi không dùng son phấn thì làm sao che được dấu vết của thời gian. Lặng lẽ, nàng rón rén nằm một bên giường ngự.


“Ái khanh chờ Trẫm một chút.” Vua nằm yên nhìn lên đình màn, trong trí vẫn còn vang vang những tiếng CHIẾN - THỦ - HÒA. Một lúc, sực nhớ ra khuya rồi, ngài quay sang, quàng tay lên người Trung phi.


Từ trong chăn gấm có tiếng thở đều đều. Thì ra nàng chờ lâu, đã ngủ thiếp đi.


Vua bực mình, ngồi dậy. Nghe động, Trung phi thức giấc. Nhà vua trách:


- Chầu hầu như vậy, thì chầu làm gì! Trẫm vừa quay đi một chốc, đã ngủ khò khò ngay được!


Trung phi lo lắng, phân trần:


- Tâu, không phải một chốc đâu ạ! Do Hoàng thượng mải nghĩ ngợi, chứ thật ra thiếp đã nằm chờ cả canh giờ rồi!


Trung phi vừa nói, vừa lật đật sán đến gần, đưa tay định mở thắt lưng cho vua. Nhưng ngài rụt lại, chút hứng khởi mới gượng gạo nhen nhóm đã tắt ngúm. Vua dịu giọng:


- Thôi, cho ái khanh ngủ đi!


Trung phi tần ngần cúi đầu, vẻ nuối tiếc lấp lánh trong mắt. Vào cung đã mười bảy năm, nay nàng đã ba mươi tuổi, dù sao vẫn còn có thể sinh nở. Vậy mà bao nhiêu hy vọng đặt vào đêm này đã tiêu tan.


Vốn nhạy cảm, dù lảng tránh không nhìn, nhà vua vẫn cảm thấy vẻ buồn rầu của Trung phi. Chừng như muốn thoát khỏi ánh mắt đè nặng ấy, ngài đứng dậy bước sang ngự thư phòng, ngay bên nội tẩm. Gọi thái giám khêu đèn, ngài mở những tờ biểu đang cuộn tròn xếp song song trên án.


Giặc đã đến trước hiên nhà! Chiến, hòa, thủ? Câu hỏi ấy lại vang lên.


Nhà vua cầm mấy tờ sớ, biểu, mở đọc.


Tờ thứ nhất là của Hồng Tập, con trai Phú Bình quận công Miên Áo. Miên Áo là con thứ hai của Hiền phi Ngô Thị Chính triều Minh Mạng. So ra Hồng Tập là em con chú của nhà vua. Ngài lướt qua mấy chữ đầu trang: “Tận sát Tả dân, quyết chiến Tây Tặc” - Sớ xin triều đình giết hết dân đạo, quyết đánh giặc Tây - Vua khẽ lắc đầu, gạt sang bên. “Dân đạo cũng là dân của Trẫm, cũng có kẻ gian người ngay. Nói giết người, mà hắn nói dễ dàng như lặt mớ rau?”


- Trung Lương, còn tờ biểu kia của ai?


Đấy chỉ là một tờ giấy trắng cuộn tròn, không phải loại giấy Triều Ban mà các quan thường dùng.


 Thái giám Trung Lương tâu:


- Tâu Hoàng thượng, hôm qua Thái hậu vi hành, gặp người dân đón đường dâng biểu. Đức bà cho đưa ngay đến điện Cần Chánh, nhưng thần xếp vào ngự thư phòng để Hoàng thượng ngự lãm cho tiện.


Nhà vua mở tờ giấy. Nhan đề viết to bằng lối chữ triện, hiện ra trên đầu trang: “HÒA TỪ”


Cái chữ HÒA đập vào mắt vua. Bất giác, ngài thấy đắng miệng. Lúc này ngài đang muốn CHIẾN. “Trăm điều giảo hiểm sẽ từ cái chữ Hòa ấy mà ra cả.” Lời tâu của đình thần ám ảnh ngài.


Trong góc, chiếc đồng hồ nhỏ từng giọt. Những giọt từ miệng con rồng bằng đồng rơi xuống chiếc bầu pha lê, tiếng nước rơi nhẹ vang trong im lặng. Mực nước trên các vạch khắc cứ dâng lên từ từ, đêm đã quá canh ba.


Nhà vua đặt tờ biểu xuống mặt án thư:


- Trẫm sẽ xem sau. Trung Lương! Khanh phác thảo đạo dụ, sáng mai đưa Trẫm ký rồi truyền cho Cơ mật Viện.


- Thần tuân lệnh. Tâu Hoàng thượng, xin người ban thánh ý.


Giọng nhà vua trở nên rắn rỏi:


- Dụ của Trẫm: Truyền cho sĩ dân Nam kỳ ứng mộ khởi nghĩa, giúp triều đình đánh giặc, giành lại đất Gia Định.


Trung Lương trải giấy, mài mực, đến bàn nhỏ bên cạnh, bắt đầu viết.


Chương 3

Hải đường trước thềm cung


Bên ngoài ngự thư phòng, cả hoàng cung chìm trong lặng lẽ. Chỉ riêng cung Gia Thọ còn sáng. Mỗi đêm, Thái hậu vẫn thức cho đến khi ánh đèn ở ngự thư phòng tắt.


Bỗng có bàn tay nhỏ khẽ chạm vào... Thái hậu giật mình quay lại.


- Ô hay, sao Út không ngủ?


Hai mắt Gia Phúc đỏ hoe.


- Mẫu hậu… Con… Con sợ…


- Con sợ gì, cứ nói ta nghe. - Thái hậu vỗ về.


- Con… Con bị… Có phải vì hôm qua con bị té bên phủ Tùng Thiện mà thành ra như vầy không?


Công chúa ấp úng mãi không nói ra lời, rồi ngập ngừng kéo tà áo ngắn lên. Thái hậu “A” một tiếng, nhẹ nhàng kéo Gia Phúc vào lòng. “Đừng lo, không sao đâu con.”


Gia Phúc vẫn thút thít chưa yên tâm. Nửa đêm thức giấc, chợt nàng thấy có gì rỉ từng giọt qua cửa mình, nhờn và nóng. Bụng lại quặn đau, nàng gọi Cúc Tần, nhưng nhìn quanh không thấy thị nữ đâu. Lồm cồm ngồi dậy, ghé lại gần ngọn đèn chong, Gia Phúc hoảng hốt nhận ra: chỗ kín của mình đang chảy máu.


- Con bị bệnh gì, có chết không?


- Con nín đi, để mẫu hậu giảng giải cho con hiểu. Cái chuyện này, đàn bà con gái ai cũng như ai, mỗi tháng đều phải lưu huyết một lần. Đó là việc tự nhiên, không phải đau ốm gì cả. Từ nay con sẽ nở da, mau lớn, càng ngày càng đẹp ra. Thôi nín đi con!


Vừa lúc đó vú Nhự mắt nhắm mắt mở chạy tới. Thấy máu loang trên xiêm y của Gia Phúc, vú hoảng sợ quỳ sụp xuống:


- Tâu Thái hậu, con trót ngủ quên, không ngờ xảy chuyện với công chúa…


 - Không sao! - Thái hậu ôn tồn - Vú thay áo xống cho công chúa, rồi cho uống mấy hoàn quế chi cho ấm bụng. Nhớ là quế chi tính nóng, chỉ uống trong một ngày đầu để khai thông huyết mạch thôi. - Quay lại Gia Phúc, Thái hậu dỗ dành: - Con cứ yên tâm ngủ ngon một giấc, chỉ ba hôm là hết thôi mà, đừng sợ!


Gia Phúc quệt nước mắt, lủi thủi đi theo vú Nhự, vẻ mặt chưa hết hoang mang. Thái hậu nhìn theo, nghĩ thầm: Nhanh thật, hồi tiên đế băng hà, thì Gia Phúc vẫn còn trong bụng mẹ. Mới đó mà đã mười hai năm qua rồi đó…


Nghĩ vậy Thái hậu cúi đầu thở dài, nhìn qua cửa sổ: một khóm hải đường cao quá đầu người đang đơm đầy nụ. Cây hải đường này, bà vẫn nhớ, tình cờ được trồng trước sân cung đúng vào ngày sinh Gia Phúc. Hải đường là giống cây rất lâu ra hoa, thường phải ngoại mười năm. Bây giờ cây đã đơm nụ, và Gia Phúc cũng đã dậy thì…


Tính Gia Phúc vốn đã khó chiều, mấy hôm sau đó lại càng khó chịu. Nàng cảm thấy mình dơ bẩn, bệnh tật, lúc nào cũng tủi thân, lúc nào cũng sẵn sàng muốn khóc.


- Ta bệnh như vầy, mà cũng phải đi học sao?


- Đã nghỉ hai hôm rồi! Hôm nay Tiệp dư Phu Tử không cho nghỉ nữa đâu! Để vú gọi Cúc Tần thay áo cho công chúa, mau mau kẻo trễ đến nơi rồi.


Thấy vú Nhự nghiêm mặt, Gia Phúc đành phải nghe. Vú Nhự chăm sóc Gia Phúc từ nhỏ, được Thái hậu ban cho cây roi để lấy uy. Dù chưa bao giờ vú dám cầm đánh, nhưng Gia Phúc cũng vì vậy chưa bao giờ dám cãi lời.


Nàng uể oải ngồi dậy, thò tay vào chiếc áo tứ bình Cúc Tần vừa đem tới:


- Đem vứt hết đi! Ta đã bảo không cần mấy cái khăn đó! Cái khăn ta thích đâu rồi?


Gia Phúc khăng khăng đòi cho được cái khăn lụa có thêu con bướm nhỏ bên góc. Cái khăn ấy làm bằng tơ tằm Tô Châu, loại tơ “kén đôi” rất đặc biệt, giữ mùi thơm của sáp hoắc hương rất bền. Cúc Tần tìm khắp các rương hòm, không thấy. Gia Phúc dẫm chân, nhăn mặt, cầm lấy cái gối thêu ném vào người thị nữ.


Cái gối vụt trúng mặt rồi rơi xuống. Cúc Tần chỉ cúi đầu, nhẫn nhục lượm lên.


Vú Nhự vội chạy đến can:


- Vú nhớ bữa công chúa sang bên phủ Tùng Thiện, có đem cái khăn ấy! Hay là làm rơi bên đó rồi?


- Làm gì có! - Gia Phúc dằn dỗi.


- Nhanh nhanh lên, xin công chúa hãy cầm tạm khăn này. Nếu trễ học thì em lại bị Tiệp dư Phu Tử phạt roi nữa đó. - Cúc Tần năn nỉ, rồi không đợi Gia Phúc đồng ý, cô cầm lấy cái túi gấm đựng bút giấy, khom người xuống cõng Gia Phúc lên lưng.


Gia Phúc giận cá chém thớt, nàng vừa cưỡi trên lưng thị nữ, vừa cấu véo vào cổ Tần liên tục. Cúc Tần nín im không kêu ca, cứ cắm đầu chạy một mạch đến Phương Thảo Đường.


Sư phó của các công chúa là Nguyễn Nhược Thị Bích, vốn là cung phi ở cấp ngũ giai. Nguyễn Nhược Thị nổi tiếng giỏi thơ văn từ khi nhỏ. Hoàng đế Tự Đức rất quý tài của nàng, thường cùng xướng họa thơ văn. Từ lúc có cái họa giặc Tây, nhà vua lo nghĩ bận rộn, nên Nguyễn Nhược Thị ít được gọi chầu. Thấy Tiệp dư đang nhàn, nhân trong cung còn khoảng bốn năm công chúa chưa chồng, Thái hậu giao cho dạy dỗ. Vì vậy mới có danh xưng là Tiệp dư Phu Tử. Sắp đến Tết, các công chúa đều ít nhiều chểnh mảng, nên hôm nay Tiệp dư Phu Tử tạm dừng giảng Kinh Thư.


- Hôm nay chúng ta nghe tiếp Đông Chu Liệt Quốc Chí, hôm trước đọc đến đâu rồi?


- Dạ, đến đoạn Triệu Chính nối ngôi nước Tần, xưng là Tần Thủy Hoàng ạ! - Công chúa Minh Tư nói.


Tiệp dư cầm sách lên, tìm trang đã đánh dấu, thong thả đọc:


“Lúc ấy Lao Ái giả làm hoạn quan, vào cung tư thông với Tần Thái hậu. Thái hậu nói thác với vua là có bệnh, rời cung ra ở đất Ung Thành, ở với Lao Ái như vợ chồng, sinh ra hai con nhỏ, làm một cái cung kín để nuôi. Có người cáo giác với vua Tần, vua tức giận cho giết ba họ nhà Lao Ái, lại đích thân vào cung Đại Trịnh bắt hai đứa con gian sinh, sai tả hữu bỏ vào túi vải quật chết… Thái hậu đau xót ngấm ngầm không dám ra cứu, chỉ đóng cửa khóc lóc mà thôi…”


Nguyễn Nhược Thị Bích mới đọc đến đó, chợt nghe một tiếng á, nhìn xuống thấy Gia Phúc đang bưng miệng. Tiệp dư nghiêm giọng:


- Gia Phúc, đang lúc học, phải yên tĩnh.


- Dạ, thưa Phu tử, em thương hai đứa nhỏ quá. Người lớn có tội sao lại giết trẻ con.


- Một người phạm tội khi quân, thì cả ba họ phải chịu chết, có riêng gì hai đứa nhỏ. Cái đó đã là phép nước xưa nay. Nếu Tần Thái hậu không dâm loạn, thì đâu có cái án Lao Ái, làm ba ngàn người nhà họ Lao phải chết, thêm bốn ngàn hộ phải chịu đi đày vào đất Thục.


- Dạ, em thấy bà ấy đáng thương mà, chỉ vì muốn được sống với một người chồng và hai đứa con mà bị khổ như thế.


Tiệp dư Phu Tử cau mày:


- Gia Phúc nghe sách không kỹ, lại cứ nói càn, càng nói lại càng thêm sai lạc. Sai lạc chỗ nào, công chúa nào nhận ra? Thục Trang, công chúa hãy nói thử xem?


Công chúa Thục Trang, người chăm chỉ nhất trong lớp, đứng dậy vòng tay thưa:


- Dạ, sai ở chỗ Lao Ái là gian phu, Tần Thái hậu là dâm phụ, đây là gian phu dâm phụ chứ đâu có phải vợ chồng. Thân làm Thái hậu ở địa vị tôn quý, mà làm những chuyện nhuốc nhơ không xứng. Nữ nhân đời sau học câu chuyện này, cốt là để nhìn đó mà khinh chê, để tránh phạm sai lầm như vậy.


- Đúng rồi, giỏi lắm. Gia Phúc phải lắng nghe chăm chú, lần sau không được lơ đãng như vậy nữa.


Việc Gia Phúc nói linh tinh trong giờ học được Tiệp dư Bích đem kể với Thái hậu. Hà Hoa, thị nữ của Thái hậu kể với vú Nhự, vú Nhự lại rỉ tai Gia Phúc. “Rồi mẫu hậu nói sao hả vú?” Gia Phúc lo lắng.


- Hà Hoa nói: Thái hậu bảo Tiệp dư, “Các công chúa còn nhỏ, lần sau Tiệp dư hãy thử đem những chuyện tốt của nữ nhân ra dạy. Con nít vốn sẵn có lòng thiện, cho học gương tốt của anh hùng, liệt nữ thì thuận lẽ. Cũng không nên dạy toàn chuyện bên Tàu, chuyện nước ta cũng có nhiều điều hay, nên cho chúng học.” 


Tiệp dư Nguyễn Nhược Thị Bích vâng lệnh Thái hậu, mấy hôm sau đem dạy những tấm gương liệt nữ vừa được triều đình nêu thưởng.


“Liệt nữ Nguyễn Thị, người huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 19 tuổi về nhà chồng, chưa có con thời chồng chết. Nguyễn Thị thương khóc không tiếc tấm thân, lấy dao đâm cổ. Mọi người cứu được, từ đó Nguyễn Thị ngày đêm thương khóc, ăn uống đều bỏ. Một hôm nhân vắng người, Nguyễn Thị nằm ngoảnh mặt vào tường, lấy tay móc cổ họng mà chết. Hoàng thượng ta nghe tỉnh thần dâng biểu kể sự tình, ngài khen ngợi và thưởng cho gia đình bảng vàng có mấy chữ “Tiết hạnh khả phong”.


Thấy Gia Phúc nhăn nhăn mày có vẻ thắc mắc, ánh mắt Tiệp dư lộ rõ vẻ đề phòng:


- Gia Phúc, có việc gì nữa?


- Dạ không! Em chỉ thắc mắc là… Nếu người đàn ông mà bị chết vợ thì có phải móc họng chết theo như vậy không. Và nếu đàn ông chết theo vợ như vậy thì được thưởng bảng vàng có chữ gì?


Các công chúa khác cười ồ. Tiệp dư bực mình. “Phúc Huy, công chúa thử trả lời cho Gia Phúc coi sao?”


Công chúa Phúc Huy đứng dậy, vòng tay:


- Dạ thưa Phu tử! Người đàn ông mà làm việc như vậy thì buồn cười lắm và rất đáng trách, không thể nào lại được nêu thưởng. Vì “Bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại”, có ba tội bất hiếu mà không có con là tội lớn nhất. Nếu vợ chết chưa con cái thì người chồng phải sớm lấy vợ để nối dõi tông đường, chứ sao lại móc họng tự tử để uổng phí thân thể quý báu do cha mẹ sinh ra.


Phúc Huy nói rồi hớn hở nhìn sư phó, ý chờ đợi lời khen. Nhưng Tiệp dư Phu Tử cứ ngần ngừ im lặng, vài giây sau mới cân nhắc, lựa lời:


- Phúc Huy nói rất đúng về đại ý. Còn lời lẽ thì còn có chỗ sơ suất, lần sau phải thận trọng!


Phúc Huy sực nhớ ra, bất giác đưa tay lên che miệng, tỏ vẻ biết lỗi. Hiện trong cung, Hoàng đế Tự Đức lên ngôi đã mười hai năm, vẫn chưa có mụn con nào. Bởi vậy, từ lâu nay không ai dám nhắc đến câu “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” vốn là câu cửa miệng của mọi người, nhất là của cánh đàn ông.


“Giảng cách gì rồi Gia Phúc cũng vẫn hỏi ngốc nghếch, lúc nào cũng lạc đề!” Tiệp dư than phiền với Thái hậu. “Thần biết Thái hậu thương Gia Phúc, nên hết sức rèn cặp, nhưng có lẽ lực bất tòng tâm! Khoai sắn khó mà biến thành sâm quế, dù có cho vào hộp vàng, túi gấm!”


Nghe vú Nhự tỉ tê kể lại, Gia Phúc tức giận:


- Tiệp dư thật là quá đáng. Ta lắng nghe cẩn thận, nên mới hay hỏi han, có gì sai? Ta là con mẫu hậu, đường đường ở trong cung Gia Thọ. Các chị Nhàn Đức, Minh Tư xuất thân có được như ta không, sao Tiệp dư gọi họ là sâm quế còn ta là khoai sắn?


Vú Nhự gạt đi, dỗ dành:


- Khoai sắn thì sao? Không có sâm quế không chết, chứ không có khoai sắn nhiều người đói chết đó… Mà này, trong cung đông đảo, công chúa phải khôn mới được! Đừng có lúc nào cũng vỗ ngực xưng là con mẫu hậu, cứ nói như vậy là người ta đố kỵ, rồi ghét công chúa đó!


- Hu hu, vú cũng về phe họ nữa sao? Mấy công chúa đó khi nào trước mặt ta cũng vênh vênh khoe mẹ họ xuất thân cao quý, con quan này quan nọ. Nghe nói ngày trước phụ hoàng không thương yêu ai ngoài mẫu hậu, sao mấy bà đó lại chen vào cung được, vú có biết không?


- Tiên đế trước sau chỉ yêu quý Thái hậu thôi! Nhưng đã sinh trong cung vua phủ chúa, có phải muốn sao được vậy đâu? Vẫn phải theo lệ nạp các tiểu thư con quan vào cung. Thái hậu vốn có lòng từ bi, không muốn phải nghe than oán, nên thường khuyên tiên đế sủng hạnh cho đều khắp. Bởi vậy dòng dõi hoàng gia mới sinh sôi, mà các con của phi tần sinh ra, Thái hậu cũng thương yêu đùm bọc hết.


- Hứ, ta mà là mẫu hậu, thì mấy bà đó đừng có hòng lọt vô trong cung!


Gia Phúc đang còn kèo nhèo với vú Nhự, chợt có tiếng Cúc Tần ngoài rèm:


- Bẩm công chúa, bên phủ Gia Hưng cho người sang.


Nghe mấy tiếng “phủ Gia Hưng”, Gia Phúc đang cau có bỗng tươi lên ngay, lật đật hối cho vào.


Vú Nhự lắc đầu, hứ một tiếng:


- Đấy, nếu tiên đế không nạp cung tần, không sinh thêm con, thì công chúa có thêm được ông anh Gia Hưng quý tốt như vậy không?


Chương 4

Cung nữ Ý Nhi


Thị nữ Hồ Điệp của phủ Gia Hưng bước vào, tay bưng quả hộp sơn son đựng quà bánh.


  Như đã quen lệ, Hồ Điệp đặt quả xuống, vào sau màn, cởi áo, trao cho Cúc Tần. Kèm theo xống áo là tấm thẻ bằng xương có khắc mấy chữ “Nhập Nội” - đó là thẻ thông hành để đi qua cửa Hòa Bình vào cung cấm.


Cúc Tần khoác chiếc áo có dấu hiệu của phủ Gia Hưng lên mình Gia Phúc.


Vú Nhự khổ sở:


- Công chúa! Xin công chúa thương vú với, lần này nhất định vú không che giấu nữa đâu!


Gia Phúc cười hì hì, ôm lấy vú Nhự, thủ thỉ:


- Con đi một chút về ngay thôi! Vú cứ yên tâm!


- Thái hậu mà biết thì chết vú với con Cúc Tần.


- Làm sao mà biết được! Hôm nay Thái hậu tiếp các mệnh phụ, họ kể lể đến chiều chưa xong đâu! - Gia Phúc nói chắc nịch.


Thoáng một cái nàng công chúa đã biến thành ả thị tỳ trong chiếc áo năm thân màu xanh. Ngắm mình trong gương, Gia Phúc hí hửng vì được vấn tóc trong chiếc khăn vành nhỏ. Chiếc khăn tầm thường, nhưng đã làm cho gương mặt nàng sáng lên tươi tắn.


Vú Nhự đành phải chịu, vừa chỉnh xống áo cho Gia Phúc, vừa rên rỉ:


- Mỗi lần công chúa trốn đi như vầy, vú sợ nơm nớp, e giảm thọ mất mấy năm.


- Ta đi chơi với các anh ruột ta, một chốc rồi lại về ngay, có gì sai đâu mà sợ?


- Sao lại không sai, đâu có công chúa nào dám lẻn ra ngoài…


- Hơ hơ, sao vú biết là họ không lẻn ra. Biết đâu đó, ai mà bó chân bó cẳng trong cung này mãi được.


- Năm nay còn nhỏ, lỡ có lộ chuyện cùng lắm bị trận quỳ. Chứ sang năm đã cài trâm rồi thì em gái anh trai phải có phân biệt, không như trẻ con được!


Gia Phúc không để ý vú Nhự nói gì, vội vội vàng vàng ra đi, chân tập tễnh đôi guốc, tay lăm lăm cầm thẻ Nhập Nội.


Ở bên ngoài cửa Hòa Bình, xe ngựa của phủ Gia Hưng đã chờ sẵn. Gia Phúc lên xe. Trong xe là hai ông hoàng, đều là anh khác mẹ của Gia Phúc: Gia Hưng công Hồng Hưu, hai mươi bốn tuổi, con của Lương phi Vũ Thị Viên, kẻ hầu thường gọi là Mệ Nai; Người kia là Hoàng tử Hồng Dật, con của Thụy tần Trương Thị Thận, lớn hơn Gia Phúc chỉ vài tháng tuổi, thường được gọi là Mệ Mến. Hôm nay cả hai “Mệ” đều ăn mặc theo lối phong lưu công tử ở kinh thành.


- Mình đi xuống cầu ngói Thanh Toàn, chỗ đó gần làng chằm nón, con gái đẹp lắm! - Hồng Dật đưa ý kiến. Hồng Hưu gạt đi:


-  Đẹp cũng chỉ ngắm một chút cho vui, được cái chi? Đi Nam Phổ! Ta có tên người hầu ở đó, vợ hắn đã nấu sẵn bánh canh cua. Gia Phúc chưa biết bánh canh Nam Phổ, nên cho muội ấy ăn thử một lần!


Hồng Dật cười ha ha vô tư:


- Phải, phải lắm. Nghe nói “Con gái Nam Phổ ở lỗ trèo cau” mà có thật không ta? Ăn bánh canh trong phủ không ngon, phải ăn trong vườn cau Nam Phổ, vừa ăn vừa ngửa mặt ngó lên mới đã.


Gia Phúc nhăn mũi, khì một cái:


- Mệ Mến nói bậy bạ quá đi. Muội không ăn cái bánh canh đó, ghê lắm.


Hồng Hưu dỗ dành:


- Đừng nghe Hồng Dật nói lục lác, không có ai thèm ở lỗ trèo cau cho hắn xem đâu.


Gia Phúc vẫn phụng phịu:


- Nhưng muội chỉ thích đi câu cá thôi.


- Ừ, ăn bánh canh xong ta ra hói câu cá dìa, rồi lại sai thằng hầu hấp cá dìa tươi, vậy mới đã!


Trong các em gái thì Hồng Hưu thương và chiều Gia Phúc từ khi nàng còn nhỏ xíu. Những năm còn ở trong cung, Hồng Hưu vẫn theo mẹ là Lương phi Vũ Thị Viên sang chầu cung Gia Thọ, nhân vậy thường bồng ẵm chơi đùa với Gia Phúc. Hồi đó Gia Phúc mới lên ba, nhưng đã là một cô bé xinh xắn, mũm mĩm, lúc nào cũng láu táu dễ thương.


- Sao tự nhiên đang vui muội lại buồn vậy? Mấy công chúa lớn còn ăn hiếp muội nữa không? - Hồng Hưu vừa bày cho Gia Phúc cầm cần câu, vừa hỏi han.


Gia Phúc buông câu, rầu rĩ kể chuyện bị Tiệp dư Phu Tử chê bai. “Bà ấy bảo khoai sắn có bỏ vào túi gấm cũng không thành sâm quế được. Có phải ý muốn nói muội là hèn kém không? Muội là con mẫu hậu, còn hèn kém chỗ nào?”


Hồng Hưu nhìn vẻ mặt em gái buồn bã, thấy trong lòng thương vô hạn.


- Tiệp dư Bích nói vậy là ý ám chỉ xuất thân của muội… Nhưng muội không nên buồn. Bất luận muội xuất thân thế nào, mẫu hậu vẫn thương muội, huynh vẫn quý muội nhất.


- Huynh nói gì, muội chẳng hiểu gì cả!


- Chưa ai nói cho muội biết sao?


- Biết gì? Huynh nói đi!


Hồng Hưu ngần ngừ. Gia Phúc đã lớn, vẫn không biết gì hết, những điều mà ai cũng biết rồi?


- Thôi được, để huynh nói…


Năm Bính Ngọ, Hoàng đế Thiệu Trị lo xa về việc tàu Tây thường dòm ngó ngoài biển, nên cho đúc thêm mười hai khẩu đại bác thần công. Qua năm Mùi, súng đúc xong, kích cỡ và sức công phá đều hơn hẳn các súng đúc thời Minh Mạng. Được ban hiệu là Thần Uy Phục Viễn Đại Tướng Quân, mười hai khẩu thần công ấy là niềm tự hào của quân đội, là sự an lòng của dân chúng. Vì vậy, lễ Thu Hưởng sau đó vui hơn hẳn mọi năm.


Không ngờ, vừa qua tiết thu phân thì Hoàng đế lâm bệnh, chứng bệnh ung tuy chưa trầm trọng nhưng đã sớm được ngự y chẩn đoán là không thuốc nào chữa được. Ngài vẫn cố gượng lo việc triều chính. Cứ khoảng chín mười hôm, cơn đau lại phát theo chu kỳ, mỗi kỳ đau suốt cả ngày rất khó chịu.


Không thuốc chữa nhưng không lẽ ngồi yên chờ chết? Quý phi đưa lễ vật cúng vái khắp các miếu đền, nơi nào linh thiêng đều không bỏ sót. Tôn Nhân phủ thì cho người đi tìm những phương sĩ, đạo sĩ trong dân gian, nghe ai có chút phương thuật gì hiệu nghiệm đều triệu về, cố níu chút hy vọng mong manh.


Lúc ấy có người phương sĩ nổi tiếng từ ngoài Lạng Sơn được vời vào cung, hiến kế rằng có cách chữa bệnh theo lối “xung hỉ”, tìm một trinh nữ hợp tuổi hợp mệnh với nhà vua, đưa vào hầu hạ, thì vận rủi có thể hóa giải, dương khí lại vượng lên được. Lúc ấy trong cung có người con gái mệnh và tuổi đều đúng theo yêu cầu của phương sĩ, nên được chọn. Cô gái họ Hồ, lúc ấy đang là thị nữ của Lương phi Vũ Thị Viên, khi vào cung được ban tên đẹp là Ý Nhi.


Hồng Hưu và mọi người chỉ biết đến đó. Còn những gì xảy ra trong đêm Ý Nhi vào hầu, có lẽ chỉ có những cánh cửa lim lạnh lùng của tẩm cung Càn Thành làm chứng...


Vua Thiệu Trị nằm trên giường, nhìn thấy cảnh người ta đưa trinh nữ vào nội tẩm. Nàng khoác một chiếc áo lụa mỏng màu nguyệt bạch, đầu tóc xõa dài, hai nữ quan nắm hai tay dẫn vào, hai thái giám bưng đèn đi hộ vệ sau lưng. Nhà vua nghĩ thầm: có vẻ như người ta đưa một con vật đi hiến sinh, hơn là đưa một trinh nữ đến bên giường cưới.


Cái cảm giác đó làm ngài bùi ngùi, buồn cho số phận mình, và thương cho số phận cô gái trẻ. Ngài tự biết chẳng có phương thuật nào cứu được mình, chẳng qua vì các tôn thất nài ép, và cũng vì bản năng cầu sống tự nhiên của con người, nên mới xuôi theo. Bây giờ, cái hình ảnh người thiếu nữ đang run rẩy tiến đến trước giường ngự làm ngài chợt thấy lòng chua chát vô cùng.


Chờ cho người hầu ra hết, ngài phán:


 - Nhà ngươi còn trẻ, sau này còn cả cuộc đời trước mặt. Trẫm sắp chết rồi. Trẫm không nỡ lấy đời con gái của ngươi. Vậy ngươi đến bên cái trường kỷ kia mà nghỉ, đến sáng sẽ cho về.


Ý Nhi nghe phán, chỉ chắp tay yên lặng. Rồi không ngờ, nàng bỗng ngửng đầu lên:


- Tâu Hoàng thượng, thần thiếp đã được ghi tên vào sổ sủng hạnh, thì cả đời không bao giờ được trả về nhà nữa đâu! Dù đêm nay Hoàng thượng không đụng đến thiếp, thì cũng không ai biết, ai tin. Nay mai Hoàng thượng băng hà, thiếp sẽ phải lên ở trên lăng tẩm, cả cuộc đời trước mặt chỉ còn thấy cây cỏ với thú rừng mà thôi! Vậy xin Hoàng thượng ra ân cho thần thiếp một đứa con, nếu may mắn sinh hoàng tử hay công chúa, thiếp mới thoát cảnh phải hộ lăng cho đến già đời nhắm mắt!


Vua Thiệu Trị chưa hết ngạc nhiên thì Ý Nhi đã tiến sát bên giường ngự, hai tay vụt mạnh tấm áo la nhu. Mảnh áo nhẹ nhàng rơi xuống tấm thảm hoa, rồi chiếc quần lụa, sau cùng là mảnh quần lót bé xíu bằng nhiễu kim sa -  thứ đồ lót xa hoa mà Ý Nhi mới lần đầu được mặc vào người.


Chưa bao giờ thấy cung tần nào táo bạo như vậy, nên nhà vua kinh ngạc nằm yên, mở mắt đăm đăm nhìn. Đôi vú thanh tân màu nâu hồng, láng mịn. Bờ hông căng nở thuôn thuôn dưới vòng eo trinh nữ… Ý Nhi hối hả túm lấy áo nhu bào của vua, giật phăng hàng khuy. Ngài cảm thấy hơi ấm từ cơ thể mềm mại dán sát, áp khít vào thân thể mình.


Trần truồng, Ý Nhi nằm sấp phủ lên người nhà vua. Lúng túng một vài phút, rồi nàng cũng đạt được mục đích. Vua nhắm mắt, bất giác bíu lấy nàng, thở dồn dập:


- Ai… khiến ngươi…?


Ý Nhi co giật mãnh liệt, vừa giật vừa quắp chặt lấy người đàn ông dưới bụng mình. Nàng ú ớ như đang mê sảng:


- Thiếp phải có đứa con… Thiếp không muốn làm gái hộ lăng…


  Dịch hoan lạc từ trong cơ thể nhà vua tuôn ra, cùng lúc với nước mắt trào.


∞∞∞∞∞


Chiều hôm ấy từ Nam Phổ về, ngồi trên xe, Gia Phúc chỉ cúi đầu lặng lẽ.


 Hồng Dật thì vẫn say sưa nói chuyện với Hồng Hưu. “Nói về ngựa, thì ngựa Cao Bằng là nhất. Mà ngựa Cao Bằng cũng có nhiều hạng, phải người sành mới biết con nào hay tuyệt. Năm xưa, tên quản gia của Kiến An vương đi ra Bắc mua ngựa cho chủ, cũng chỉ vì giành mua cho được một con bạch mã mà thành xô xát đến mang tội đó!”


Hồng Hưu nghe em trai nói, chỉ ừ hử qua chuyện, mắt nhìn ra phía trước, hỏi tên đánh xe:


- Ngáo, phía trước có đám đông người phải không? Sao ta thấy bụi mù đường, lại có cờ xí rộn rịp lắm thì phải.


- Dạ, con thấy có đoàn quân đang trẩy qua! Kiểu này xe ta không đi ngược đường được! Phải dừng đợi ở đây thôi!


Hồng Dật thò đầu ra nhìn:


- Xe của thân công, phải được ưu tiên qua trước chớ.


   - Dạ, nhưng hôm nay các Mệ không mặc áo hoàng tử, xe lại đã gỡ gia huy, chen lên không tiện. Để con tới trước hỏi xem chuyện gì…


     Ngáo đi, một lúc quay lại, lo lắng:


     - Quân triều đình trẩy cấp tốc vào đèo Hải Vân, dẫn đầu mỗi đội đều có hỏa bài. Kiểu này dù xe của vương gia cũng không đi trước được! Con nghe dân bên đường nói giặc Tây đã nổ súng bắn phá pháo đài Định Hải, chẹn mất đường vào Quảng rồi!


 - Trời đất! Sao nghe bảo Tây tặc đã đưa thư nghị hòa? - Hồng Dật kêu lên.


  Hồng Hưu thở ra một hơi, nhìn sang Gia Phúc:


 - Vậy là phải chờ quan quân qua hết, mới có thể đi tiếp được!


  Gia Phúc đang ngồi lầm lì, nghe vậy thì bật lên, lo lắng:


  - Chết chưa! Muội phải về, trễ quá lỡ mẫu hậu cho gọi thì nguy. Hôm nay có mấy phu nhân vào yết kiến, chắc giờ này cũng sắp lui ra rồi…


  - Cái này mới thật là chết đây, ai mà ngờ việc xảy ra như vầy… - Hồng Dật tắc lưỡi.


Hồng Hưu không nói, lẳng lặng nhảy xuống xe:


- Ngáo, tháo ngựa ra!


- Chi vậy thưa Đức ông? - Ngáo bỡ ngỡ - Tháo ngựa làm sao xe đi tiếp?


- Ta bảo tháo là tháo.


Con ngựa được tách ra khỏi xe. Hồng Hưu nhảy lên mình ngựa.


- Ngựa không yên, làm sao cưỡi?


Hồng Hưu không nói, sai Ngáo buộc ngắn dây cương lại, lấy đệm nhỏ trong xe lót chỗ ngồi. “Gia Phúc!”


Hồng Hưu cầm tay Gia Phúc, Ngáo đỡ một bên, nháy mắt công chúa đã ngồi ngay ngắn phía trước Hồng Hưu.


Hồng Hưu ra roi, con ngựa lao lên phía trước. Gia Phúc ré lên một tiếng kinh sợ. Hồng Hưu quặp hai chân vào mình ngựa, một tay cầm cương, một tay giữ chặt em gái.


- Muội đừng sợ, ta phải chạy ngựa theo đường nhỏ trong xóm, không thì đến mai cũng chưa tới hoàng cung. Muội yên tâm, dù muội có gặp việc gì khó khăn đến đâu, huynh cũng chu toàn cho muội hết.


Sau lưng, Hồng Dật kêu í ới:


- Vậy là hai người bỏ tôi lại một mình hả?


Tên Ngáo đứng đực mặt ra một lúc, rồi quay lại:


- Còn có con đây! Để con đi vào xóm kiếm mua con trâu thay vô. Chờ quân trẩy hết, con sẽ đưa Mệ túc tắc trở về.


Lúc ấy trong điện Trinh Minh, Thái hậu đang tiếp các mệnh phụ và phi tần triều trước nhân dịp cuối năm.


Từ lúc con trai, con gái trưởng thành ra mở phủ, các bà phi cũng được ra ở với con cháu. Mỗi năm các bà chỉ vào cung yết kiến hai lần, một lần vào tiết Thánh Thọ tức là sinh nhật Thái hậu, lần thứ hai là sau tiết Đông Chí, trước Tết.


Theo lệ, vào chầu không được đem lễ vật, nhưng Lương phi biết Thái hậu rất thích bánh đúc mật, nên xin phép được đem dâng một quả hộp nhỏ. Bánh đúc mật làm bằng bột nếp tinh khiết trộn với lá bồng bồng giã nhuyễn. Thứ lá này, cuối đông mới xanh tươi, nên thấy bánh đúc mật là thấy mùa xuân đang về. Về đến cung Gia Thọ, Hà Hoa mở quả hộp. Thái hậu khen:


- Màu bánh xanh trong như ngọc bích, chỉ nhìn thôi cũng đủ ngon.


- Dạ, vì phủ Gia Hưng ở Phú Cát, mà nội trong đất Phú Xuân thì chỗ làng Phú Cát là bồng bồng mọc tốt nhất.


- Con mau xuống gọi Gia Phúc, hắn mê thứ này lắm đây!


- Tâu Thái hậu, lúc nãy con đi ngang biệt thất, thấy công chúa đang ngồi đọc sách trước hiên ạ.


Thái hậu đã có dặn mỗi lần thấy Gia Phúc cầm sách thì không ai được vào quấy rầy. Nghe vậy bà vui vẻ gật đầu, bảo Hà Hoa:


- Vậy thôi, con lấy dĩa xẻ bớt một nửa, bưng xuống cho công chúa. Hắn chịu đọc sách là ta mừng lắm rồi.


Hà Hoa vâng dạ. Cúc Tần đón ở cửa biệt thất, giơ hai tay như muốn đỡ ngay dĩa bánh. Nhưng Hà Hoa sốt sắng bưng dĩa đi thẳng vào trong:


- Em cứ để chị. Thái hậu có dặn, hỏi xem công chúa đọc sách gì, tâu lại cho Thái hậu biết.


Nói rồi Hà Hoa xăm xăm đi thẳng vào trong hiên, hắng giọng đánh tiếng. Không thấy động tĩnh gì, Hoa đành thưa:


- Bẩm công chúa, Hà Hoa đây!


Gia Phúc vẫn quay lưng ngồi im. Cúc Tần vội chạy tới, một tay gần như giằng lấy dĩa bánh, tay kia kéo phăng Hà Hoa ra:


- Công chúa có dặn không cho ai vào. Hôm kia công chúa đọc sách chưa thông, bị Tiệp dư Phu Tử quở trách dữ lắm. Bởi vậy đang bực bội, đừng có đến gần mà ăn đòn.


Hà Hoa đành bước ra, quay về tẩm cung. Trong lòng Hoa không vui, nghĩ bụng: “Quái lạ, công chúa tính kiêu kỳ đã đành, nhưng kiêu kỳ với ai chứ đã bao giờ lên mặt với ta đâu. Còn Cúc Tần sao dám xẵng với ta như thế, dù gì ta cũng là thân tín của Thái hậu, vậy mà hắn dám giở giọng hăm dọa. Hừ, làm sao ta bị đòn được mà dọa, đúng là láo!”


Thấy Hà Hoa bỏ đi, Cúc Tần mừng quýnh, vội chạy đến bên “công chúa”: thị nữ Hồ Điệp đang mặc chiếc áo hồng của Gia Phúc, tay cầm sách, mặt xanh như tàu lá.


Cô thì thào:


- Chị ơi, em sợ muốn rớt cả tim. Sao lần này công chúa đi lâu vậy, Mệ Nai có hứa chắc chắn về tới nơi trước khi các phu nhân cáo lui.


 Vú Nhự cũng sốt ruột nên đã ra đón nơi cổng Hòa Bình. Cúc Tần đè một tay lên ngực: “May quá, lúc nãy chị không liều mạng kéo Hà Hoa lui thì tất cả đổ bể hết. Thôi, đã trót thì trét, em ráng chịu thêm chút nữa, chị ra ngoài canh cửa cho chắc.”


Hà Hoa về tới tẩm cung, trong lòng vẫn băn khoăn nghi hoặc. Thái hậu hỏi:


- Gia Phúc thấy ban cho bánh mới có mừng không? Hắn đang đọc sách gì?


- Tâu Thái hậu, con đã định hỏi, nhưng công chúa không thèm bắt lời, nên con không dám hỏi thêm!


- Thật sao? Gia Phúc thấy bánh đúc mật mà không tít mắt, kể cũng lạ!


- Tâu Thái hậu, có việc này hơi kỳ, con xin hỏi…


- Sao, có chuyện gì?


- Dạ, con thấy thường thường Thái hậu đọc sách trước hiên thì lưng xây vào bên trong, mặt hướng ra ngoài ánh sáng. Sao công chúa ngồi đọc sách mà lưng xây về ánh sáng, mặt lại quay vào vách? Trời đã chiều, ngồi úp bóng như vậy sao mà đọc được? Có vẻ như người không biết chữ giả vờ đọc sách! Nhưng công chúa học bao nhiêu năm nay, đâu có phải là không biết chữ?


Thái hậu nhíu mày:


- Vậy sao? - Bà nghĩ thầm: “Hừ, Gia Phúc từ nhỏ vốn tính hiếu động, nay đã dậy thì nên bắt đầu mắc cái bệnh mơ mộng rồi đây. Chắc cầm sách mà thần hồn để tận đâu đâu, cho nên không cần thấy chữ! Được rồi, để ta xuống xem sao.”


Trong biệt thất, Hồ Điệp đã sắp hết sức chịu đựng, mồ hôi vã ra như tắm. Công chúa vẫn chưa về.


- Em lạy chị Cúc Tần, chị cho em thay áo công chúa ra, em sợ quá chết mất thôi.


Cúc Tần vỗ lưng Hồ Điệp, ra sức an ủi:


- Gắng lên tí nữa em, có chị canh cửa cẩn thận. Không ai vào được đâu, em đừng lo.


Nói rồi Cúc Tần chạy ra, định tiếp tục đứng án trước lối đi.


Bỗng Thái hậu hiện ra ngay trước mặt. Cúc Tần hết hồn, bất giác khuỵu xuống. Thái hậu gật đầu:


- Miễn lễ cho con, đứng dậy đi.


Vừa nói bà vừa bước qua cửa. Cúc Tần lịm đi, không dám ngăn.


Chợt có tiếng vang lên:


- Thái hậu giá lâm!


Cúc Tần ngửng lên, cố tỉnh lại. Cô nhận ra tiếng của vú Nhự.


Thái hậu đã vào biệt thất, đi vòng ra hiên bên tả. “Gia Phúc đâu?”


Gia Phúc mới về, chỉ mới kịp thay áo. Nàng chạy ra vòng tay, lễ phép:


- Tâu mẫu hậu, con đây!


Thái hậu bước tới bên án, cầm lấy cuốn Tái sinh duyên đang vứt lăn lóc ở trên bàn.


Ở phía dưới khăn phủ án, Hồ Điệp núp kỹ, nín hơi.


- Con đọc sách, thấy truyện có hay không?


- Dạ, sách… Sách nào ạ? - Gia Phúc bỡ ngỡ. Sực nhìn, nàng vội biến báo: - Dạ, hay, hay lắm!


Thái hậu nghi ngờ, hỏi vặn:


- Truyện này nói về việc gì, có những nhân vật nào, con thử nói qua vài câu cho ta xem!


Gia Phúc bí quá, chỉ còn biết đứng im như trời trồng.


Thái hậu buồn rầu:


- Vậy là con vẫn làm biếng không chịu học. Cầm sách suốt buổi chiều mà không có một chữ nào trong não. Uổng cả công ta gầy dựng cho con.


Nói rồi Thái hậu trả sách lại cho Gia Phúc, quay đi. Bà cũng thấy hơi lạ: mọi lần bị quở, Gia Phúc thường chạy lại ôm Thái hậu, năn nỉ, xin hứa, xin chừa… Nhưng lần này công chúa chỉ đứng im cúi đầu, vẻ mặt cứ lì ra.


Vú Nhự và Cúc Tần hối hả kéo Hồ Điệp ra, trả lại thẻ Nhập Nội, giục mau mau thay áo rời cung.


Mặc kệ tất cả, Gia Phúc chẳng để ý gì đến ai, cứ ngồi cúi đầu im lặng. “Uổng cả công ta gầy dựng cho con”, câu mà Thái hậu vẫn thường dùng để rầy la, nay bỗng dưng lại làm tổn thương ghê gớm. Nàng ôm mặt, thấy đau tủi trong lòng.


“Mẫu hậu nói vậy vì mẫu hậu không phải mẹ của con… Mẹ của con đã chết rồi!”


Chương 5

Buổi luyện kiếm ở làng Chuồn


- Đệ vẫn chưa rõ ý hai chữ HÒA TỪ, hôm nay cố lưu Nguyễn huynh lại đây là muốn biết thêm về việc ấy. Em Châu, em đem rượu ra đây, để quý vị tráng sĩ thêm khí thế bàn luận việc đời. - Đoàn Trưng nói.


Một tiếng “Dạ” giòn dã đáp lại. Nguyễn Chí quay lui, thấy một cô gái đang ngoe nguẩy đi vào gian bếp lợp tranh: Đoàn Thị Châu, em út của Đoàn Trưng. Chỉ một lát, mâm rượu bày ra trên chiếc bàn tre, giữa vườn cau nhà họ Đoàn.


Đoàn Tư Trực - em trai Đoàn Trưng - đứng dậy:


- Mời Nguyễn huynh! Rượu làng Chuồn nổi tiếng là ngon, xin cạn chén này để tỏ tình huynh đệ giang hồ!


 “Xin mời chư vị!” “Mời các bác!” Ai nấy hào hứng nâng chén uống cạn. Nguyễn Chí để ý thấy trong bọn có một thanh niên chừng mười sáu tuổi, mặt vuông vắn, thân hình vạm vỡ, mình mặc áo vải giản dị như mọi người nhưng ngang lưng thắt một chiếc đai bằng dạ Mông Tự quý hiếm. Đoàn Trưng hiểu ý:


- Đây là công tử Nguyễn Lâm, con trai của Quân vụ Đại thần họ Nguyễn quê làng Đường Long!


Nguyễn Chí à lên một tiếng. Thì ra là con của danh tướng Nguyễn Tri Phương. Nguyễn Lâm thấy Chí tỏ vẻ ngưỡng mộ thì vui vẻ đáp lại bằng một nụ cười cởi mở. Chàng nói, giọng oang oang:


- Nghe ông Trưng nhà ta nói Nguyễn huynh có mấy miếng võ Xiêm rất đặc biệt, hôm nay đệ phải đến ngay, mong được mở rộng tầm mắt! Còn võ Tàu, võ Bình Định, thì lâu nay trong gia môn đã được luyện tập nhiều rồi, không có gì lạ nữa.


- Vâng, công tử cứ yên tâm. Chí tôi có theo thầy sang Xiêm mấy năm, ngoài chuyện quyền cước còn tìm hiểu được vài thứ... Chút nữa sẽ xin trình bày với công tử và các anh em đây.


Nguyễn Lâm cười rổn rảng:


- Anh em họ Đoàn đây với Lâm là chỗ nghĩa khí thâm giao, vẫn thường xưng hô huynh đệ cho thân mật. Xin Nguyễn huynh cũng vậy, chớ nên khách sáo. Đừng gọi công tử, công tôn làm gì cho xa cách ra.


Đoàn Trưng vỗ vai Chí:


- Thôi, chào hỏi đủ rồi. Bây giờ đệ muốn trở lại chữ Hòa của Nguyễn huynh. Tại sao khí thế ta đang hăng hái, lại nói đến hòa?


Nguyễn Chí đáp:


- Chủ trương hòa nghị là do một nhân sĩ trong Nam xướng xuất. Người này là cố tri của sư phụ Chí. Trước khi ra đi, Chí cũng đã có cái thắc mắc ấy, nên hỏi sư phụ rất kỹ. Chí biết, khắp nước sĩ dân ai nấy đều một lòng xin đánh, mình đưa cái chữ Hòa ra là đi ngược với lòng người, sẽ rất khó thuyết phục! Nói không khéo, có khi còn ăn đòn là khác.


- Chứ sao? Người Đại Nam ta, hễ có giặc là quyết chiến, từ đời Lý, đời Trần đã vậy. Không có bàn tới, bàn lui gì cả! - Nguyễn Lâm nói.


Đoàn Tư Trực gật đầu tán thành. Nguyễn Chí thong thả:


- Đệ biết. Đệ cũng chỉ muốn đánh giặc. Nhưng binh pháp Tôn Tử có câu “Biết người, biết ta, trăm trận trăm thắng.” Hiện nay ta nói đánh giặc mà chưa biết gì về giặc. Ta cũng không biết thế giới ngoài kia ra sao, gồm có những ai, kẻ kia dòm ngó sơn hà của ta vì lý do gì. Bởi thế, lúc này khi thế thủ đang vững, thì hòa là một bước lùi để nhìn cho rõ, chính là cách để giữ chắc cái thế thủ ấy!


Nói đoạn Nguyễn Chí mở cuộn giấy, trải tấm địa đồ ra. Lần đầu tiên thấy một tấm bản đồ, Nguyễn Lâm và anh em Đoàn Trưng xúm lại nhìn. Đoàn Châu đang lấp ló trong hiên cũng chạy ra, nghểnh cổ liếc xem.


- Đây là châu Á Tế Á, còn đây là nước Đại Nam mình. - Nguyễn Chí chỉ vào tấm địa đồ - Còn đây là các nước Âu châu. Trong ba thế kỷ vừa qua, Âu châu đã trở nên hùng mạnh, hiện kỹ thuật của họ đã vượt xa chúng ta. Tàu thuyền, súng đạn của họ, các nước Á Tế Á của mình không theo kịp! Riêng hai nước Phú Lang Sa và Anh Cát Lợi này đã trở thành hai đế quốc lớn nhất, họ dùng tàu, súng đi xâm chiếm rất nhiều nơi!


Đoàn Châu thắc mắc:


- Sao em nghe nói bọn Tây dương là man di dạ xoa, không có văn minh, văn hóa như người Tàu, người Việt?


Đoàn Tư Trực cắt ngang:


- Hỏi ngu lắm, man di khi nào chẳng hay dòm ngó những nước văn minh hơn chúng nó. Ngày xưa Hung Nô đánh nhà Hán, Hán phải gả công chúa cầu hòa. Rợ Kim đánh nhà Tống, bắt vua Tống đưa về sa mạc! Chính vì các dân tộc văn minh thường hiếu hòa, sợ phải đương đầu với cái dã man tàn ác, nên mới thất bại. Cái lẽ đơn giản là thế!


Nguyễn Lâm gật gật đầu. Nguyễn Chí nín lặng vài giây rồi tiếp:


- Bây giờ chưa nên vội tranh cãi về chuyện giặc Phú Lang Sa nó có phải là man di hay không! Chỉ xin tiếp tục nói về việc tại sao chúng đánh ta. Nước Phú ở xa, cách ta hàng vạn dặm, hà cớ gì không đánh những nước lân cận mà lại sang đây gây hấn? Bởi vì nước Phú không tính chiếm đất của ta để bành trướng lãnh thổ, như kiểu người Tàu đối với ta trước đây. Nước Phú, nước Anh chỉ đặt nặng việc giao thương buôn bán.  Hai đế quốc này lại cạnh tranh với nhau, mà khi nhìn qua châu Á Tế Á thì cả hai đều nhắm tới cái vùng đông dân béo bở nhất là nước Trung Hoa…


- Hừ, thì ra như vậy! Chúng buôn bán với Tàu là việc của chúng, can gì đến nước ta? - Đoàn Trưng tức giận.


- Đấy chính là chỗ then chốt mà Chí muốn nói. Nay nước Anh đã chiếm Hương Cảng làm chỗ để đáp tàu, tỏa hàng hóa đi khắp lãnh thổ Trung Hoa. Theo sự hiểu biết của sư phụ Chí, thì nước Phú nhăm nhe vào ta, chính là muốn mượn lấy một phần đất làm bàn đạp, đối trọng với Hương Cảng của Anh Cát Lợi! Phần đất ấy chính là Sài Gòn.


- Sao em nghe nói vì đạo Gia Tô nên mới có giặc Tây. Nghe nói tàu Tây đến đánh ta là cốt để cứu cố đạo, dân đạo? - Đoàn Châu hỏi.


- Việc cứu dân đạo chỉ là một cái cớ. Nhưng đó là cái cớ quan trọng, bởi nếu không có cái cớ ấy, thì làm sao các bà mẹ Phú Lang Sa ngoan đạo chịu để con vác súng lên tàu qua đây! Cuộc xâm lăng nào cũng vậy, cần phải có đủ hai thứ: động cơ và chiêu bài. Chiêu bài là cái nghĩa lý cao đẹp để làm bùa bả cho người lính khỏi tiếc xương máu. Còn động cơ của bọn cầm quyền thì lúc nào cũng chỉ là cái lợi mà thôi! - Nguyễn Chí quay sang Đoàn Châu, giảng giải.


 - Dễ vậy sao? Đất nước của cha ông ta để lại, nó muốn mượn làm kho chứa hàng hay sao? Đừng có hòng! - Nguyễn Lâm nói - Chúng đã có dã tâm như vậy, thì còn hòa cái gì nữa mà hòa. Này Nguyễn huynh, này các anh em, ta là con nhà võ, cái gì rắc rối là không muốn nghe đâu. Chỉ biết đạo lý từ xưa: Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh!


Đoàn Châu thấy cuộc đối thoại bỗng trở nên gay cấn, vội quay vào, lát sau bước ra, tay bưng một dĩa bánh chưng mới hấp và một chén củ kiệu muối chua. Mấy chàng trai đang bàn cãi sôi nổi liền dừng lại, vui vẻ hỉnh mũi một cách khoan khoái trước mùi dưa kiệu thơm lừng khó cưỡng.


Giọng Nguyễn Lâm đang đanh thép chuyển sang nhẹ nhàng, du dương:


- Cảm tạ em Châu! Của ngon vật lạ, ta cũng từng được ăn cả rồi, mà chưa thấy có gì đáng ghiền cho bằng dưa kiệu của em. Một củ kiệu này, ăn vào sống được nghìn tuổi đó!


Đoàn Châu hóm hỉnh:


- Dạ, chi chớ dưa kiệu em đã muối sẵn cả ghè, công tử cứ thỉnh thoảng về mà thưởng thức cho tăng tuổi thọ.


Lâm đỡ chén rượu trên tay Châu:


- Tay tiên rót chén rượu đào, đổ đi thì tiếc uống vào thì say… Này các huynh đệ, hẹn nhau về đây luyện võ, mà lại chén tít cung thang thế này thì luyện võ làm sao đây!


Đoàn Trưng cả cười:


- Võ nghệ vẫn còn đó! Hùng tâm tráng chí vẫn còn đây! Tối nay trăng sáng, ta treo võng ngủ trong vườn cho mát. Suốt ngày mai sẽ tập võ, ai có miếng gì mới lạ nhớ tung ra cho hết.


Bốn cái võng được Đoàn Châu buộc nhanh quanh gốc mít. Nguyễn Chí đặt lưng nằm thử, trong khi Châu kéo riết sợi dây buộc quanh thân cây. Cô nói khẽ:


- Tính công tử Nguyễn Lâm bộc trực, xin anh đừng để bụng! Lúc nãy cái chuyện “Hòa Từ” anh vẫn nói chưa xong, lúc nào tiện nhờ anh giảng giải cho em nghe với!


Chí gật đầu:


- Cô nương là nữ nhi mà cũng để tâm chuyện nước nhà, thật là hiếm có!


Đoàn Châu nhoẻn cười:


- Tại em biết mình dốt, nên cái gì cũng hỏi, không ngại. Lúc nãy, anh nói hòa là lùi một bước để chắc thế thủ, là nghĩa làm sao, em chưa hiểu!


- Cô nương đã hỏi, tôi xin nói. Nay trình độ kỹ thuật, vũ khí của ta lạc hậu hơn nước Phú đến cả trăm năm. Các nước lân bang, kể cả nước Tàu, không ai đủ mạnh để liên minh, tiếp viện. Tình hình như thế, dù có hy sinh nhân mạng tiền của đến cùng cũng chỉ thắng được những trận lẻ tẻ, không thể xoay chuyển tình thế. Nên mình cần tìm cách hoãn binh để có thời giờ canh tân! Học theo gương nước Xiêm La ngay gần mình đó! Hiện nay trong các nước Á Tế Á chỉ có Xiêm La là tiến bộ vượt bực mà thôi. Đó là tấm gương mình nên theo!


Đoàn Trưng, Đoàn Tư Trực, Nguyễn Lâm tuy không hỏi nhưng đều lắng tai nghe. Nhất là Nguyễn Lâm, thấy Đoàn Châu đứng gần võng của Chí, mải mê hỏi chuyện, Lâm vừa lắc lư võng vừa thỉnh thoảng liếc sang như có ý trông chừng. Đoàn Châu giục:


- Bên Xiêm họ tiến bộ ra sao, anh nói tiếp đi…


- Vâng, vua Xiêm La Mongkut lên ngôi cách đây tám năm. Từ khi vua Mongkut lên ngôi, nước Xiêm thay đổi nhiều lắm. Nhà vua mở trường công nghệ cho dân vào học. Lại mở hết các cửa biển cho tàu Tây dương vào buôn bán. Vua mời người Anh Cát Lợi đến dạy tiếng nói cho cả quý tộc và quan lại, bắt các phi tần, công chúa cũng phải học.


Tư Trực đang yên lặng lắng nghe, đến đây bỗng lên tiếng: “Phi tần, công chúa cũng học tiếng Anh?” Không kềm được, chàng ta bật lên tiếng cười chế giễu.


Chí lờ đi, nói tiếp:


- Nhà vua theo đạo Phật, nhưng cho phép các giáo sĩ Tây dương tự do truyền giáo. Có lần Mongkut nói đùa với một cố đạo Tây: “Ông có thể cải đạo hết tất cả dân Xiêm, nhưng chắc chắn không cải đạo được Trẫm.” Do khoan dung tôn giáo như vậy, nên các nước Tây dương không có cớ gì để gây hấn được với Xiêm.


- Nguyễn huynh! - Nguyễn Lâm không nín được nữa, cất giọng bực tức: - Cái gì chứ tự do truyền đạo là đừng nhắc đến ở xứ Đại Nam này! Ở Đại Nam ta chỉ cần một đạo Nho là đủ dạy cho dân biết tam cương ngũ thường, quân thần phụ tử. Tả đạo không cho cúng vái ông bà tổ tiên, sao mà chấp nhận được?


Nguyễn Chí nín thinh. Đoàn Trưng vội chen vào, giải hòa:


- Việc cấm đạo ở nước ta, cũng khoan nhặt tùy lúc. Trưng nghe Tùng Thiện công kể, thời Minh Mạng cấm rất gắt, cố đạo bị giết hết, dân đạo thì đày lên mạn ngược. Qua thời Tiên đế Thiệu Trị, ngài đã tha cho cố đạo Tây về nước, lại cho dân đi đày trở về quê quán. Nhưng tàu Tây lấy oán trả ân, vừa rước cố đạo đi xong liền trở súng bắn phá bờ biển của ta. Vì vậy vua giận, mới cấm lại như cũ…


- Đó, coi vậy thì khoan dung tôn giáo có ích gì đâu? - Nguyễn Lâm càng lúc càng gay gắt.


Đoàn Trưng biết ý, khẽ phất tay, ra hiệu cho Đoàn Châu tránh mặt. Châu cẩn thận buộc thắt một lần nữa sợi dây võng, rồi quay đi. Chợt cô thấy có vật gì rơi trên mặt đất.


Nhặt lên, cô đưa cho Chí:


- Ô, hình như anh bị rơi cái gì đây thì phải…


Nguyễn Chí giật mình, cầm lấy nhét ngay vào tay áo.


Dưới ánh trăng mới mọc, Châu thấy đó là một chiếc khăn lụa, rất dịu và thơm, rõ là đồ dùng phụ nữ. Nàng nghĩ thầm: “Chắc tặng vật của tiểu thư nào đấy. Vậy mà lúc nãy cứ bảo là một thân một mình, chẳng có ai thương.”


Đoàn Châu vào nhà rồi, không khí liền im ắng hẳn đi. Chỉ lát sau, tiếng ngáy đều đều vang lên, bốn chàng trai ôm mộng tung hoành giang sơn đi vào giấc ngủ.   


Chương 6

Con mắt sắc sảo của Đoàn Tư Trực


Hoàng đế Tự Đức luôn mấy hôm không đến cung Gia Thọ thăm Thái hậu. Ngài rất thương mẹ, dù có bận rộn đến đâu, cũng vẫn tuần tự ngày chẵn ngự triều, ngày lẻ chầu cung. Cái lệ ấy hơn mười năm nay không đổi.


Hôm nay mãi đến xẩm tối, nhà vua mới đến. Trước khi bước lên thềm, vua dừng một phút, khuôn mặt đang căng thẳng suy tư cố làm ra vẻ thanh thản, những nếp nhăn trên trán cố giãn ra.


- Trung Lương, ngươi thấy dung mạo Trẫm đã trở lại hòa hoãn chưa? Trẫm không muốn mẫu hậu thấy vẻ nặng nhọc!


Trung Lương vội dâng lên cái túi nhỏ đựng lõi trầm:


- Muôn tâu, xin Hoàng thượng hít sâu vài hơi, sẽ lấy lại khí sắc ung dung ngay ạ!


Vua gật đầu, ra hiệu Trung Lương đứng chờ bên cửa. Ngày trước, vào thời Thái hoàng thái hậu Từ Khánh, tiên đế Thiệu Trị mỗi lần đến vấn an đều phải quỳ từ cửa, đi vào bằng đầu gối, khấu đầu làm lễ ra mắt. Nhưng Từ Dụ Thái hậu đã bỏ cái lệ ấy. “Ta sinh ra con, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa mới đến ngày khôn lớn. Để con quỳ lết như vậy, con đau chân, mẹ thì đau ruột, làm sao chịu được.” Hôm nay, nghe tiếng chân vua đến, Thái hậu liền bước ra cửa đón. Vua vội cầm tay mẹ, dìu đến sập ngồi, còn mình thì ngồi ghế kế bên.


- Mẹ! Mấy hôm nay chưa thăm mẹ, con không yên lòng nên có cho Trung phi tới vấn an. Phi có sốt sắng vừa lòng mẹ không?


- Có, con đừng lo, Trung phi đối với mẹ rất hiếu thảo. Tính hắn thật thà không biết ngọt ngào nịnh hót, nhưng mẹ thích người mộc mạc như vậy! Mấy hôm nay việc triều chắc nặng nhọc lắm phải không con?


- Dạ không! Mẹ thấy con khỏe mạnh vui vẻ như vầy, tất cả vẫn bình thường thôi mẹ!


- Con không nói, mẹ cũng biết. Ngày xưa phụ hoàng con vẫn nói: Làm vua là một nghề nặng nhọc nhất trong thiên hạ. Mẹ cứ nghĩ đến câu nói đó, trong lòng cứ bùi ngùi, thương phụ hoàng con, rồi lại nghĩ thương con…


Hoàng đế cười tươi tỉnh:


- Mẹ đừng lo! Mẹ nhớ không, ngày trước phụ hoàng có lần hỏi: “Ta đặt tên con là Nhậm, ý là sao con có hiểu không?” Khi đó con mới lên sáu tuổi nhưng mẹ đã dạy cho biết thông nghĩa chữ, con liền thưa với phụ hoàng: “Dạ, nghĩa là gánh vác ạ!”


Thái hậu nghe con nhắc, trên mắt bỗng lấp lánh hạnh phúc: “ Ừ, mẹ còn nhớ, nghe con nói vậy, phụ hoàng con trêu: “Gánh vác là gánh cái gì, gánh củi hả?” Hai mẹ con nhìn nhau, cười vui. Những hình ảnh năm xưa hiện về, một gia đình vương giả nhưng rất giản dị và êm ấm, dành rất nhiều giờ phút ấm áp bên nhau…


- Mẹ, con phải nhờ mẹ một việc! - Nhà vua trở lại với hiện tại.


- Việc gì, mẹ luôn sẵn sàng giúp con.


- Mấy hôm trước con đã đến thăm Tuy Thạnh quận công Trương Đăng Quế…


Nghe nhắc đến Trương Đăng Quế, Thái hậu khẽ nghiêng đầu, một vẻ buồn dịu dàng thoảng qua trên nét mặt tôn nghiêm.


- Lâu nay Trương vẫn coi bộ Binh, nay có bệnh nặng e phải nghỉ lâu. Việc binh cách đang gấp, nên quận công tiến cử Nguyễn Tri Phương. Con định phong Tri Phương làm Thống đốc quân vụ, kiêm quản thủy bộ miền Nam. Công việc ấy xa xôi, khó nhọc, nên con muốn sao cho tình nghĩa vua tôi thêm sâu nặng. Nghe Phương có con trai đến tuổi lấy vợ, xin mẫu hậu chọn công chúa để gia ân gả cho.


Thái hậu ngẫm nghĩ:


- Được rồi, trong cung còn bốn năm công chúa chưa gả. Trong số đó, nghe nói Phúc Huy, con gái Thuận tần họ Hoàng là nết na thông minh, mặt mũi cũng dễ thương sáng sủa. Để mẹ bàn lại với Trung phi rồi sẽ lo cho nhà Nguyễn Tri một cô dâu xứng đáng.


- Việc này xin mẹ cứ quyết, Trung phi là phận dâu con, mẹ không phải hỏi.


- Như vậy sao nên. Trung phi là nguyên phối của con, các công chúa xem như chị dâu trưởng. Hắn làm dâu mẹ đã ngoại mười năm, hiếu thảo chịu khó, mẹ nghĩ con cũng nên phong hắn lên chức Hoàng quý phi, để mẹ giao việc cai quản nội cung. Rồi thì mẹ sẽ được thong thả hưởng nhàn, ngắm hoa đọc sách.


Vua không vội đáp, tự tay rót thêm trà vào chén sứ cho Thái hậu, rồi mới từ tốn trả lời:


- Dạ, vậy cũng phải, nhưng con còn ngần ngừ ở chỗ chưa sinh được hoàng nam nối dõi. Nay mai trong phi tần ai sinh được con trai, tất là phải dựng lên ngôi chính cung. Lúc ấy phải nhắc lên đặt xuống, không khỏi phiền phức. Xin mẹ gắng cai quản hoàng cung giúp con thêm ít lâu.


Thái hậu mỉm cười. “Nay mai trong phi tần ai sinh được con trai”, câu nói của vua khơi động niềm mong mỏi trong lòng Thái hậu. Bà đưa tay nắm chặt tay vua, hai mẹ con cùng chia sẻ niềm hy vọng.


∞∞∞∞


Cuối tháng Chạp, triều đình huy động mười ngàn binh lính, đánh lui được địch, mở thông đường từ Phú Xuân vào Quảng. Giá gạo lại xuống, cả kinh thành đều mừng. Lúc ấy từ vua chí dân mới yên tâm là có Tết.


Nguyễn Chí từ hôm dâng biểu vẫn ở lại với Đoàn Trưng, chờ xem trong cung có phản hồi gì không? Hơn một tháng trời vẫn không có âm hao gì, Chí đành từ giã anh em họ Đoàn, quay vào Nam.


Hai mươi ba tháng Chạp, dân làng Chuồn rộn rịp lo lễ cúng ông Táo. Đoàn Châu cùng với Đoàn mẫu lúi húi cắm bông giấy Thanh Tiên vào bàn thờ Táo quân trong bếp. Đoàn Tư Trực đang đốn tre làm cây nêu, thấy Đoàn Trưng đem khăn áo ra phơi nắng mới, liền bỏ rựa lại gần:


- Em có chuyện này muốn nói riêng với anh cả. Lâu nay em rất nghi!


- Nghi việc gì?


- Nghe nói nhà Nguyễn Chí ở ngay Gia Định, cha mẹ đều đã mất. Gia Định bây giờ Tây đang đóng đồn, thành đã bị phá, hắn còn về làm chi?


- Dù chi cũng là quê quán. Cha mẹ có mất cũng còn thân thích chứ? Có gì lạ đâu?


- Lúc này, lòng người đang hăng hái đánh giặc, tự nhiên thầy trò hắn chủ xướng hòa nghị, làm mất cái dũng khí của sĩ dân. Nội một chuyện đó đáng giết, nếu anh cả không xem là khách quý thì em và Nguyễn Lâm đã tẩn cho một trận, công đâu mà ngồi bàn hai chữ Chiến, Hòa với hắn.


Đoàn Trưng cười:


- Cứ hễ suy nghĩ khác nhau là phải diệt trừ nhau sao? Theo anh thì hắn cũng là người có tâm. Tất nhiên lúc này mà nói đến cái chữ Hòa thì rất giống miệng lưỡi của bọn hèn nhát sợ giặc. Nhưng thử nghĩ mà coi, người hèn nhát thì một sợi lông chân cũng không muốn mất, có đâu lại lặn lội từ trong Nam ra kinh thành làm cái chuyện đội đá vá trời?


- Biết đâu đó? Hôm nay nghe anh nói hắn đi ngựa trạm về Nam, thì em càng tin chắc lắm!


- Sao? Đi ngựa trạm thì sao?


- Ngựa cho thuê là thứ ngựa tầm thường, đổi hết chặng này qua chặng khác, ít lắm cũng mười hai ngày mới đến Gia Định. Hôm nay đã hăm ba tháng Chạp, hắn nói về quê ăn Tết, đi như vậy đến nơi thì đã mồng bốn, mồng năm? Cho nên em đoan chắc từ đây ra đi hắn chỉ phải cỡi ngựa thêm một trạm thôi!


Đoàn Trưng nhíu mày:


- Vậy nghĩa là…


- Anh biết đó, lâu nay mười hai chiếc tàu Tây còn đậu ngoài cửa Hàn. Dân đạo vẫn lén lút đi từ ngoài Nghệ An, Hà Tĩnh vô Quảng, đợi đêm dùng thuyền nhỏ chèo ra với giặc. Tàu Tây vẫn luân phiên chở chúng vào tỵ nạn Gia Định! Nguyễn Chí nhất định là vào Quảng rồi đi tàu Tây, nên hắn không cần ngựa tốt là vì vậy!


Đoàn Trưng vẫn chưa tin:


- Con mắt nhìn người của anh không lẽ lại mù mờ vậy sao!


- Em đâu dám nói anh cả không biết nhìn người. Nhưng đề phòng thì vẫn hơn! Rõ ràng, hắn chính là dân đạo!


- Bằng chứng?


- Anh không để ý đấy thôi! Trước bữa ăn, hắn tuy không làm dấu thập nhưng lúc nào cũng ngồi im lặng một phút rồi mới cầm đũa. Em thấy rõ là hắn thầm đọc kinh mà không muốn ai biết!


- Thật có vậy?


- Anh ngồi cạnh hắn nên không nhận ra, chứ em ngồi đối diện thì thấy rõ lắm!


Có tiếng Đoàn mẫu gọi, Tư Trực vội chạy đi. Gần đó, Đoàn Châu vừa ra ngồi bên lu nước, đãi đậu xanh để nấu xôi cúng. Đợi Tư Trực bước hẳn vào nhà, cô khẽ giọng nói với Trưng:


- Ôi, cái anh Trực! Thấy ai nói gì ngược ý mình thì đều cho là gian tà hết. Chẳng qua trong bụng đã sợ ma thì tàu lá chuối phất phơ cũng cả quyết là hình ma thôi.


- Em chắc chắn như vậy sao?


- Dạ, chắc chắn! Bữa qua ngày vía, anh với anh Trực đi vắng, nhà không có ai đàn ông nên mạ nhờ bác ấy thắp hương bàn thờ. Em thấy bác ấy thắp hương khấn vái đàng hoàng mà. Nếu là dân đạo không có ai dám vậy đâu!


Đoàn Trưng làm thinh. Chàng nghĩ, việc thắp hương là việc trưng ra bên ngoài. Việc đọc kinh là việc che giấu bên trong. Giữa bên ngoài và bên trong, cái nào đáng tin hơn? Dù sao, con mắt Tư Trực đúng là sắc sảo.


Giữa lúc đó có tiếng vó ngựa dừng trước cửa. Đoàn Trưng nhìn ra, thấy Nguyễn Lâm đang xuống ngựa, hối hả bước vào.


- Đoàn huynh! Lâm đang bực mình lắm đây. Phụ thân vừa ra lệnh, đệ phải lấy công chúa!


Nguyễn Lâm vừa nói vừa ngồi phịch xuống ghế, mặt dàu dàu. Đoàn Trưng hơi bất ngờ, mấy giây sau mới bật cười:


- Đến anh chàng khố vải là Thạch Sanh còn mơ lấy công chúa, sao hiền đệ lại nhăn nhó như đạp phải gai?


- Đạp phải gai còn đỡ khổ hơn đó hiền huynh ôi! Đạp cái gai còn nhổ ra được. Lấy công chúa thì đeo gông cả đời, phải hầu bà cho tới chết mới thoát.


Tư Trực vừa trở ra, nghe vậy góp lời:


- Nếu huynh không ưng làm em rể vua, sao không nhường cho huynh trưởng, nhà vẫn còn anh cả Nguyễn Ngọc mà.


- Lâm cũng đã một hai xin nhường rồi, nhưng mẫu thân nhất định không chịu! Cứ khăng khăng đổ cái họa này xuống đầu Lâm!


Đại tướng Nguyễn Tri Phương có hai con trai, Nguyễn Ngọc là con đầu, Nguyễn Lâm là con thứ hai. Mấy hôm nay, thấy Lâm vùng vằng, Nguyễn Tri Phương phu nhân cứ thăn thỉ dỗ dành:


- Cha con dầu dãi sa trường, xông pha tên đạn mới được cái ơn lớn này. Con đừng coi thường mà phụ công cha, phụ ơn vua.


- Thì mạ cứ nói anh Cả lãnh hết đi, tha cho con!


- Anh Cả con đã hứa hôn với nhà họ Trịnh là bạn cũ của cha con. Ơn vua là lớn nhất, nhưng tín nghĩa với bạn hữu cũng phải trọng. Hơn nữa…


Hơn nữa… Phu nhân không nói hết nhưng Nguyễn Lâm cũng hiểu: Nếu lấy công chúa thì khi cha mẹ qua đời, nàng dâu công chúa, do thân phận cao hơn, chỉ phải để tang có sáu tháng thôi và không phải đứng đáp bái, tức là không phải ra “lạy trả” khi khách viếng đến lạy trước quan tài. Vợ Nguyễn Ngọc sau này sẽ là dâu trưởng, phu nhân cũng mong muốn được dâu trưởng chịu tang ba năm ba tháng cho mình đúng theo quy định trả hiếu trong dân gian. Vì vậy lấy công chúa tuy là việc nở mày nở mặt cho cả gia môn, nhưng cũng nên rơi vào con thứ mới tiện.


Đoàn Tư Trực gật gù, thông cảm cái uất ức của Nguyễn Lâm:


- Dân gian mình có câu: Trai không ăn mày vợ, gái phải ăn mày chồng. Nhà vợ thanh thế to hơn nhà mình một chút là đã thấy mệt. Huống chi… Hơn nữa lấy công chúa thì cả đời không được lấy vợ lẽ nàng hầu. Trừ khi công chúa không có con trai, mới được phép lấy thêm một người thiếp. Mà người thiếp này lại phải do công chúa chọn, nên các bà ấy toàn chọn mấy ả xấu như ma…


Đoàn Trưng cười:


- Kể thì cũng thiệt thòi cho đời trai! Tuy vậy vinh quang, danh vọng tự nó vẫn là một thứ bùa mê, khiến biết bao nhiêu con nhà quan thèm dỏ dãi mà không được cái may mắn như Nguyễn Lâm đó! Nhưng mà để coi, hoàng gia tính gả công chúa nào cho hiền đệ? Coi chừng đó, Trưng nghe nói các bà chúa Trinh Huy, Đoan Lương, Trang Nhã đều đã ngót nghét hai mươi rồi, hiền đệ coi chừng cưới về còn phải gọi bằng chị!


Lâu nay Đoàn Trưng thường tham dự các buổi ngâm vịnh ở công phủ Tùng Thiện, nên thường nghe người ta xầm xì, nhắc nhở về các nàng công chúa chưa chồng, vốn đang là mối quan tâm của nhiều phong lưu công tử chốn kinh thành.


- Tôn Nhân phủ chỉ báo tin là gả công chúa chứ không nói gả công chúa nào! Nhưng thím Hai nhờ người hỏi dò, thì biết là trong cung định chọn cái mụ Phúc Huy nào đó! - Nguyễn Lâm nói.


Thím Hai của Lâm tức là phu nhân Nguyễn Duy, một mệnh phụ nhanh nhẹn, quen biết nhiều bà quan ở kinh thành, không phải người hiền lành chất phác nghe gì biết nấy như Nguyễn Tri Phương phu nhân. Nghe nói đến cái tên Phúc Huy, Đoàn Trưng gật đầu:


- Chúc mừng hiền đệ! Trưng thường nghe Thái trưởng công chúa Mai Am, em gái Tùng Thiện công nhắc đến bà chúa Phúc Huy. Công chúa này mới có mười bốn tuổi, nghe nói xinh xắn, ngoan hiền nhất trong cung. Vậy là Hoàng gia ưu ái cho nhà họ Nguyễn lắm đó!


Nguyễn Lâm vẫn ngồi thừ ra, mặt mũi xuôi xị. Giờ lâu, Lâm bước ra sân lấy cớ rửa bụi đường trên mặt, đến gần lu nước, chỗ Đoàn Châu đang ngồi. Đoàn Trưng, Đoàn Tư Trực biết ý, tránh vào trong nhà.


- Châu… - Lâm mở lời, ngập ngừng.


- Dạ, công tử hỏi chi? - Đoàn Châu không ngừng tay vặt lông con gà đãi khách, ngửng lên nhoẻn miệng cười - Nghe nói công tử sắp sánh duyên công chúa, Châu mừng lắm!


- Mừng gì mà mừng, Châu nói vậy là nhẫn tâm với tôi lắm đó! Lòng tôi đang tan nát đây.


- Sao khổ vậy, có tan nát thì lấy mủ mít dán lại, vườn nhà em sẵn mấy chục cây mít đây.


- Châu cứ hay giỡn chơi, tội nghiệp tôi. Châu cũng biết thừa ra rồi, tôi thương Châu lắm, chỉ mơ ước ở với Châu. Dù có công chúa hay tiên trên trời tôi cũng không cần.


“Thật không?” Đoàn Châu nguýt dài, thực lòng không khỏi cảm động. Đang vui vẻ, bỗng nàng buồn hẳn đi:


- Đội ơn công tử. Công tử có lòng vậy là quý lắm rồi. Nhưng thôi, công tử đừng nói nữa.


Một chút sương ẩm ướt thoáng qua trên mắt nàng. Nguyễn Lâm thấy vậy, trong lòng lâng lâng dạt dào. Chàng nằn nì:


- Châu ơi. Chỉ cần Châu hứa một lời thôi, tôi sẽ vứt cái chuyện cưới vợ này vô sọt rác. Dẹp ngay, không tiếc!


- Nói nghe dễ chưa! Ai dám từ chối ơn vua?


- Có chi mà không dễ. Miễn quyết tâm là được! Tôi cứ lăn ra giả bộ mắc bệnh nan y, bị ho lao, bị cùi… thì công chúa nào cũng xách hài chạy không kịp. Cuộc đời tôi chỉ cần lấy được Châu là đủ! Nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất, há cần dựa vào ai?


Đoàn Châu thở dài:


- Tạ lòng công tử. Nhưng không được đâu công tử ơi! Châu là con nhà dân dã, làm sao đủ môn đăng hộ đối mà nói chuyện làm dâu nhà quan lớn. Cha mẹ công tử đời nào chấp nhận, mà có gắng gượng chấp nhận thì rồi cũng chẳng êm đẹp lâu dài được!


Nghe Châu nói, Nguyễn Lâm sáng mắt, đánh bạo cầm lấy tay Châu, bàn tay đang dính đầy lông gà:


- Tưởng Châu lo lắng điều gì! Chứ chỉ có như vậy thì dễ lắm! Tôi đã tính rồi. Tôi sẽ nói cha mẹ đi cưới vợ chính thất cho tôi, cứ chọn nơi môn đăng hộ đối theo ý các cụ. Sau đó tôi lấy Châu làm vợ thứ. Vợ thứ thì cha mẹ không can thiệp nữa, quyền quyết định là ở tôi. Vậy là tôi sẽ được sống với Châu cả đời, có khó gì đâu?


Đoàn Châu mới hơi hơi cảm động, chợt cảm thấy như một gáo nước lạnh tạt vào mặt. Nàng bậm môi, giật tay lại. Nguyễn Lâm càng hỏi dồn:


- Châu thấy tôi tính vậy có hay không? Hay không?


Đoàn Châu hỉnh mũi lên, cười phì một cái vào mặt Lâm, gằn giọng:


- Xin lỗi công tử. Nhà tôi không có cái mả làm lẽ, biết chưa?


Vì cái cười phì đầy vẻ khinh mạn ấy mà Nguyễn Lâm lủi thủi quay về phủ, nằm vùi bỏ cả cơm cháo.


Hai hôm sau, chàng trai lóp ngóp bò dậy, râu xanh mọc tua tủa đầy cằm. Ngậm ngùi, rầu rĩ, chàng thưa với Nguyễn Tri phu nhân:


- Áo mặc sao qua khỏi đầu, phận làm con xin vâng lời cha mẹ!


Đến cuối tháng, Khâm Thiên giám nhận được lệnh xem tuổi cho công chúa Phúc Huy và phò mã tương lai để định hôn trước khi Đại tướng Nguyễn Tri Phương nhận tướng ấn lên đường vào Nam.


Chương 7

Lá số của Công chúa Phúc Huy


Trời đã xế chiều, Thiện phi Nguyễn Thị Cẩm vẫn còn thơ thẩn bên trong cửa Chương Đức, ý như ngóng chờ ai. Gió chiều bắt đầu gờn gợn, thị nữ Tố Quỳ cẩn thận khoác lên vai chủ chiếc khăn nhiễu màu xanh phỉ thúy.


- Bẩm lệnh bà, chắc phải về cung thôi! Còn phải lo sửa soạn điểm trang, đêm nay là phiên bà được lên chầu Hoàng thượng.


- Ừ, ráng thêm vài khắc, sao con Thu Cúc nó đi lâu vậy chẳng biết!


- Lệnh bà cứ về cung, Thu Cúc nhập nội rồi thì cũng về cung thôi, lúc đó hãy hay.


- Em không hiểu nên mới nói thế. - Thiện phi nhìn quanh, hạ giọng vừa đủ nghe - Về cung tai vách mạch rừng, rất không nên! Việc này chỉ có hai em biết thôi, nhớ giữ kín cho ta.


- Dạ, em với Thu Cúc đều xuất thân từ cửa nhà họ Nguyễn Đình. Sống chết cũng theo lệnh bà, xin cứ tin ở chúng em!


Tố Quỳ và Thu Cúc trước kia là thị nữ nhà Tổng đốc Nguyễn Đình Tân. Khi tiểu thư là Nguyễn Thị Cẩm tiến cung, hai cô theo vào hầu hạ. Tuy tuổi kém, lại vào cung sau Trung phi Vũ Thị Duyên, nhưng Thị Cẩm xinh đẹp, khéo nói nên được vua yêu thích, dần dần thăng lên rất nhanh trong hàng cửu giai. Mùa xuân năm nay nàng vừa được tấn phong Nhất giai Thiện phi. Vậy là so với Trung phi, hiện nay nàng chỉ thua kém có hai chữ “nguyên phối” (vợ đầu tiên), mà hai chữ ấy cũng là để nói cho trân trọng, chứ chẳng phải chức tước gì.


Thu Cúc và Tố Quỳ cũng nhờ chủ, dù chỉ là thị nữ nhưng đã được xem là hai nhân vật uy tín trong cung, ai cũng có ý nể vì. Hôm nay Thu Cúc được sai đi làm một việc quan trọng! Kìa, cô nàng đã về rồi. Thiện phi mừng rỡ, hỏi nhỏ:


- Sao, Vũ phu nhân có mặn mà với em không?


- Dạ, còn nói gì nữa. Phu nhân niềm nở hết sức, lưu lại tiếp đãi, em đã xin lui nhưng bà ấy sốt sắng quá. Em sợ e cố từ lại mất lòng, rồi lại hỏng cả việc của lệnh bà.


Thiện phi sốt ruột:


- Thôi, việc ra sao nói nhanh, ta còn phải vội về cung kẻo trễ phiên chầu.


Thu Cúc hí hửng, đến sát bên Thiện phi, rù rì:


- Phu nhân ban đầu không chịu, nhưng em dúi vào tay bà ấy… Cứ đẩy qua đẩy về mãi. Em phải nói với bà ấy là trong cung đã có lệnh bà bao che cho, dẫu ai xì xầm cũng không ngại! Giờ thì êm rồi, phu nhân đã hứa chắc chắn sẽ nói với quan lớn.


Quan lớn họ Vũ là chức sắc trong Khâm Thiên giám, người có nhiệm vụ xem tuổi cho công chúa Phúc Huy. Cuối tháng ba năm ấy, hoàng cung nhận được tờ trình, mới biết việc không suôn sẻ như lòng mong muốn. Ở cửa Hàn, tàu Tây đã rút vào Nam, cả mười hai chiếc tàu chiến đang dồn cả vào trước cửa biển Sài Gòn. Nguyễn Tri Phương lập tức vào Nam nhận nhiệm vụ Tổng thống quân vụ đại thần. Việc cưới vợ của con trai phải hoãn lại, ít nhất là đến cuối năm.


Nhân một lần Thiện phi chầu hầu, vô tình vua nhắc đến việc ấy:


- Nguyễn Tri Phương ra đi chiến trường mà chưa nhận ơn vua, lòng Trẫm thật áy náy lắm. Đâu ai ngờ lá số của Phúc Huy lại phạm vào khắc phu hại tử. Chẳng qua cũng là cái rủi của nhà Nguyễn Tri.


Thiện phi vừa xoa bóp vai vua, vừa thỏ thẻ:


- Lâu nay thần thiếp chỉ nghe phong phanh, cũng thắc mắc mãi không biết vì đâu Phúc Huy không lấy được chồng! Bây giờ nghe Hoàng thượng dạy thiếp mới rõ chuyện! Ôi, té ra Phúc Huy với công tử nhà Nguyễn Tri mà lấy nhau thì sẽ một mất một còn, sinh ly tử biệt… Hoàng thượng bãi bỏ hôn sự là phải. Nhà Nguyễn Tri một lòng giúp nước, nay lại giáng họa cho họ sao nên.


- Ái khanh nói đúng lắm! Nhưng Trẫm chỉ tạm hoãn thôi, chứ không bãi bỏ. Quân vô hí ngôn, lời nói của vua là trọng. Ái khanh thấy đó, thường nhật những gì khanh nài xin mà không thể được, trẫm đều nói ngay là không được. Còn cái gì Trẫm đã chuẩn ưng, thì không bao giờ đổi ý.


- Dạ, Hoàng thượng phân minh sáng suốt, thiếp có phước lớn mới được tắm gội ơn vua. - Nàng liếc mắt, đong đưa - Đêm đã khuya, xin Hoàng thượng đi nghỉ…


Nói rồi Thiện phi trút bỏ áo lụa, nằm xuống. Mái tóc dài xõa ra, một mùi hương hoa hồi nhẹ nhàng lan tỏa, ngất ngây như men rượu.


Nàng vừa cười khúc khích vừa lăn tròn vào lòng vua. Vua vừa vuốt ve tấm thân ấm áp, vừa nếm nàng như nếm một trái chín. “Nàng mềm mại quá. Mềm và ngọt… Mồ hôi của nàng cũng ngọt như mật.”


Thiện phi nằm ngửa, uốn người như đón cơn mưa. Lúc chiều, nàng vừa tắm, ngâm mình thật lâu với chất bột từ quế, hồi, mật ong và một thứ thảo dược rất đặc biệt. Một phương sĩ đã bán thứ bột này cho mẹ nàng với giá đắt hơn vàng.


Hối hả, nàng rướn lên, lắc mạnh, càng lắc mạnh đến đâu, mùi hoa hồi và vị mật càng tiết ra, như bông hoa tỏa hương mạnh mẽ khi trời sắp mưa.


Cơn mưa của nhà vua rất ngắn ngủi. Thiện phi hụt hẫng, nhưng nàng lim dim mắt, làm ra vẻ mãn nguyện. Nàng kẹp chặt hai đùi, cố giữ cho những giọt tinh khí đừng chảy ra ngoài cơ thể.


Dang tay cho vua gối, nàng thủ thỉ:


- Thiếp mới sai người xin được quẻ xăm tốt lắm ở điện Hòa Nam. Nếu ứng điềm thì nội trong tháng này thế nào cũng có long thai.


Đang thở mạnh, nên nhà vua chỉ lặng im cầm lấy tay ái phi, siết chặt. Nàng đã nói như vậy rất nhiều lần rồi. Dù sao, cái viễn ảnh nàng vẽ ra vẫn làm cho vua thấy hân hoan trong lòng. Ngài nghĩ thầm: “Nếu Trời cho Trẫm có con nối dõi, thì cũng mong đó là đứa con do Thiện phi sinh ra. Nàng xinh đẹp thông minh, ắt sinh được con quý sau này…”


∞∞∞∞


Vú Nhự đưa Gia Phúc vào nội tẩm cung Gia Thọ. Gia Phúc được xem như con đẻ của Thái hậu, thường ngày nàng muốn đến đây lúc nào cũng được. Nhưng hôm nay có lệnh Thái hậu truyền cả bảo mẫu phải theo lên.


Từ Dụ Thái hậu ngồi trên sập chạm phụng, mỉm cười:


 - Cho con ngồi, mẫu hậu có chuyện muốn nói với con.


Hà Hoa đặt ghế đôn bên cạnh sập. Vú Nhự chắp tay đứng một bên. Từ hôm biết mình thực ra là con của cung nữ họ Hồ, tự nhiên Gia Phúc thấy giận hờn, không hề lên gặp Thái hậu. Nay bị tuyên triệu, nàng thấy tim đập thình thịch. Có chuyện gì? Hay là những trò lếu láo của mình đã bị ai mách lẻo với mẫu hậu rồi?


Thái hậu ngắm Gia Phúc thật kỹ. Chưa đầy nửa năm, Gia Phúc đã thay đổi thật nhanh. Tóc xanh mướt, lông mày xanh mướt. Thái hậu đưa một ngón tay chạm khẽ vào làn môi đỏ mọng, bảo vú Nhự:


- Môi dưới công chúa hơi dày, sau này khi thoa son nhớ thoa môi dưới nhạt thôi, để cho khuôn mặt thanh thoát hơn.


- Dạ, thần sẽ dặn dò với người chuyên trang điểm. - Vú Nhự cúi đầu.


- Bắt đầu từ mai, vú cho công chúa vấn khăn vành nhỏ. Hà Hoa, đem ra đây…


Hà Hoa quay vào, lát sau đặt một cái hộp gỗ mun lên sập, mở ra. Trong hộp là một bộ gồm ba cái trâm cài tóc bằng bạc nhìn rất tao nhã.


- Gia Phúc, nay con mười ba tuổi, là đã đến tuổi cài trâm. Mẫu hậu ban cho con vật này! Con có biết vì sao bộ trâm đầu tiên của người con gái lại gồm có ba cái không?


- Dạ, con không biết!


- Để mẫu hậu giảng giải cho con rõ. Số ba, là ứng với đạo Tam tòng của người phụ nữ. Đó là tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Lúc ở nhà, phải theo cha; Ra lấy chồng, phải theo chồng; Đến khi chồng mất, phải theo con trai. Đạo Tam tòng dẫn dắt cuộc đời một người đàn bà từ lúc sinh ra cho đến lúc nhắm mắt. Sau này con có thể có thêm nhiều đồ trang sức quý báu, nhưng ba cái trâm đầu đời này con hãy giữ để dùng thường ngày, lúc nào nhìn thấy chúng hãy nhớ lời mẫu hậu căn dặn!


- Dạ, con xin tạ ơn! - Gia Phúc chắp tay nói lạnh nhạt.


Thái hậu hơi ngạc nhiên. Ngày thường, dù chỉ ban cho một cái bánh, Gia Phúc cũng hí hước reo vui. “Hắn mới lớn, nên thay tính đổi nết, cái tuổi này nhiều chuyện lắm đây!” Thái hậu nhủ thầm.


- Con nghe mẫu hậu nói đây. Nay con đã mười ba tuổi, không còn thơ bé nữa. Khi mẫu hậu bằng tuổi con, đã phải một mình vào cung, ban đầu cũng dại khờ dần dần mới hiểu biết thêm lên. Ông bà ta dạy “Nữ thập tam, nam thập lục”, con gái mười ba, con trai mười sáu, tuổi đó là tuổi dựng vợ gả chồng. Vì vậy, Hoàng thượng và mẫu hậu đang lo cho con sớm yên nơi, ấm chỗ!


Gia Phúc nghe Thái hậu nói đến đó, lập tức trợn tròn mắt, sững sờ quay nhìn vú Nhự như cầu cứu. Vú Nhự thì vui mừng ra mặt, chắp tay xá liên tục như muốn tỏ ý tạ ơn dùm tiểu chủ.


- Mẫu hậu… - Gia Phúc mếu máo: - Thường con vẫn xin mẫu hậu đừng gả con đi. Mẫu hậu không thương con, nên mới bắt con đi làm dâu dân gian. Con nghe vú Nhự kể, làm dâu khổ lắm!


Thái hậu từ tốn, nghiêm trang:


- Làm dâu trong dân gian thường là khổ, làm dâu ở cung đình càng rất gian nan. Nhưng công chúa làm dâu thì không ai khổ cả! Miễn là biết giữ đạo vợ, sống sao cho cần kiệm, ngay thẳng, khiêm nhường, thì cha mẹ chồng sẽ thương con như mẫu hậu thương con vậy!


Gia Phúc không để tai nghe gì hết, những từ “cần kiệm, khiêm nhường” là gì nàng đâu có quan tâm. Chỉ nghe đập vào tai mấy tiếng “mẫu hậu thương con”. Nàng bất giác tủi thân, bao nhiêu ấm ức lâu nay bùng lên, tức tưởi bật ra lời:


- Mẫu hậu nói thương con, sao mẫu hậu không chịu sinh ra con, lại để cho người khác sinh.


Thái hậu bất ngờ quá, sững người một giây, rồi hướng cái nhìn về phía vú Nhự. Vú cũng sững sờ không kém, sợ hãi sụp xuống lạy:


- Tâu Đức bà, con chưa hề nói, không hiểu vì sao công chúa lại biết...


Thái hậu nhất thời chưa biết phải làm sao, bà giấu nỗi xúc động, rời sập bước thong thả đến bên cửa sổ. Trước mặt bà, cây hải đường nay đã nở hoa đỏ thắm, rực rỡ trong tiết xuân.


Gia Phúc thấy Thái hậu xúc động, tâm trạng đang dỗi hờn bỗng trở nên lo lắng. Vú Nhự, Hà Hoa đều không dám lên tiếng, chỉ bấm khẽ Gia Phúc. Nàng ngập ngừng đến sau lưng Thái hậu, rụt rè chạm vào tay áo bà:


- Mẫu hậu...?


Thái  hậu quay lui, nước mắt rưng rưng.


- Gia Phúc, con mất mẹ từ lúc mới sinh, ta thì đã mất hai con gái, cái chết nào cũng rất là oan uổng. Cho nên mẹ con ta đến với nhau là do Trời thương bù đắp. Sở dĩ lâu nay mẫu hậu chưa nói, là muốn chờ cho con qua khỏi tuổi mới lớn ngông nghênh. Lớn rồi nhưng con còn khờ dại lắm! Để con về làm dâu nhà ai ta cũng chẳng yên tâm!


Gia Phúc nghẹn ngào, tấm tức:


 - Mẫu hậu nói Trời thương bù đắp mới cho con ở với mẫu hậu, sao nay lại xua đuổi con? Con không muốn về nhà ai hết! - Gia Phúc năn nỉ.


Thấy Gia Phúc thừa cơ kỳ kèo, Thái hậu vội lau mắt, lấy lại vẻ tôn nghiêm, trở về chỗ ngồi trên sập:


- Khi con còn nhỏ, thương con là chăm nom dạy dỗ, nay con đã lớn, thương con là tính sao cho con yên bề gia thất. “Có âm dương, có vợ chồng, Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê.” Việc hôn nhân này đã được Hoàng thượng định đoạt rồi! Từ ngày mai con sẽ được hứa hôn với con trai của Đại tướng Nguyễn Tri Phương.


Gia Phúc biết không còn thay đổi gì được, nàng ôm mặt khóc hu hu thành tiếng. Đại tướng Nguyễn Tri Phương là ai, nàng đâu có biết, liệu ông ấy dữ hay hiền, có bắt nạt mình không, có chê bai phiền phức như Tiệp dư Phu Tử không. 


Thấy Gia Phúc khóc mùi, vú Nhự vội tiến lên, lấy khăn lau nước mắt cho chủ. Thái hậu dỗ ngọt:


- Phò mã năm nay mười bảy tuổi, văn võ song toàn, khôi ngô tuấn tú. Không phải dễ mà có lang quân như vậy đâu!


Gia Phúc được vú Nhự chăm sóc vỗ về, vừa hơi nguôi nguôi. Nghe Thái hậu nói phò mã khôi ngô tuấn tú, nàng cũng thấy an ủi trong lòng đôi chút. “Nếu phò mã mà khôi ngô như anh Hồng Hưu, thì cũng không đến nỗi?”, Gia Phúc nghĩ thầm.


Thái hậu thấy Gia Phúc đã xiêu xiêu, liền nói tiếp:


- Con lấy chồng rồi, cố gắng làm dâu cho hiếu thuận, rồi tròn một năm Hoàng thượng sẽ cho con ra mở phủ riêng, từ đó sẽ được phong chính thức là công chúa. Ta sẽ chọn cho con một tên đất thật đẹp để làm mỹ hiệu cho con!


- Dạ, mỹ hiệu là cái gì, con chưa hiểu… - Gia Phúc vẫn còn thút thít.


- Con nghe đây, thời cổ khi các con vua được phong tước, thường kèm ban cho một vùng đất để làm thái ấp. Tên đất cũng đồng thời là tước phong. Ngày nay tuy không ban đất, nhưng vẫn được phong tước kèm với tên đất để làm mỹ hiệu. Ta đang chọn tên cho con đây!


- Dạ, mẫu hậu nhớ chọn cho con tên thật đẹp, đừng chọn cái tên như An Lỗ, Trấn Man, thì chết con. -  Gia Phúc lo lắng, nhớ tới vài cái tên nàng vẫn nghe xướng lên trong các dịp lễ Thánh Thọ, nghe thật hung dữ.


- Bậy, ai dùng tên như vậy cho nữ nhân! - Thái hậu bật cười, bà nhẹ người biết là đã bắt đầu êm chuyện. - Ta thấy con thường ngày thích chiếc áo may bằng sa hoa nhỏ, phải không? Thứ sa ấy dệt từ phường Đồng Xuân. Ngày tiên đế mới lên ngôi, ta theo ngài tuần du ra Bắc, có đi qua nơi ấy. Khi ấy gặp lúc hoa đào, hoa cúc khắp nơi đưa về, đẹp như một rừng hoa. Ta lấy tên ấy làm mỹ hiệu cho con. Sau này không gọi con bằng tên cúng cơm Gia Phúc nữa, mà sẽ gọi là Đồng Xuân công chúa. Con thích không?


- Dạ… Con thích! - Gia Phúc gật đầu, đôi mắt như cười dù vẫn còn hoe đỏ. Được có phủ riêng, được ban tên đẹp, và có phò mã tuấn tú nữa…


- Thôi, cho con lui. Bảo mẫu ở lại.


Gia Phúc ra rồi, Thái hậu nói với vú Nhự:


- Gia Phúc tính tình ngang bướng hoang dã, ta vẫn lo lắng trong lòng. Nay bất đắc dĩ phải gả nó về chỗ tướng môn, e nó cư xử vụng dại, thì mang tiếng cho hoàng gia. Vì vậy sau này vú phải theo Gia Phúc về nhà Nguyễn Tri, mọi việc cư xử vú phải đỡ đần khuyên nhủ. Có gì phiền phức, phải về cung tâu ngay cho ta biết.


Chương 8

Lệnh cấm Đạo


Đoàn Tư Trực tuy sắc sảo tinh nhanh, nhưng cũng chỉ đoán đúng một phần về  hành trình của Nguyễn Chí.


Chí không dừng ở cửa Hàn, không ra tàu Tây, và cũng không về Gia Định.


Từ giã Đoàn Trưng lúc gà mới gáy tại làng An Cựu, Chí giục ngựa phi nước đại theo hướng Nam. Qua đèo Phước Tượng, đèo Phú Gia rồi đến đèo lớn Hải Vân, chàng vào đến trạm ngựa Liên Chiểu lúc giữa đêm khuya khoắt.


Trạm ngựa chỉ là một dãy lán tranh dài với vài căn nhà trơ vơ giữa đồng. Trong lán, ánh đèn dầu lạc tù mù cho thấy chõng tre kê san sát. Khách giang hồ nằm ngủ la liệt bên nhau, cuộn mình trong những tấm chăn gai cũ kỹ.


Cách một khoảng sân lầy lội là dãy chuồng ngựa. Người chủ lán nhận ra khách quen, lên tiếng:


- Cậu Hai! Có buồng riêng để dành cho cậu sau lán. Vẫn giá cũ, đặc biệt cho cậu, chớ sau khi thông đường Nam Bắc thì cái chi cũng lên giá hết rồi.


Chí gật đầu, giao ngựa rồi đi thẳng vào một căn nhà nhỏ, gồm ba buồng, các buồng ngăn cách nhau bằng phên tre.


“Màu mè một chút cho vui đi cậu!” Tên hầu ở trạm nhìn Chí, cười hềnh hệch. Sau lưng hắn hiện ra hai ả đàn bà gầy guộc, gương mặt vêu vao nhưng tô son điểm phấn thật lòe loẹt – Hai ả điếm nghèo vẫn lởn vởn kiếm sống bằng cách giải sầu cho khách tha phương.


- Thôi không cần. Chú đặt sẵn ngựa khỏe, mai ta phải đi sớm. - Chí bảo.


Tên hầu cúi sát vào mặt Chí, thì thầm:


- Có muốn ra tàu Tây không? Có thuyền chèo đưa đi, hoàn toàn bí mật. Công năm lạng, trả tiền trước.


Chí lắc đầu, đóng sập cửa liếp. Chàng cẩn thận đặt hầu bao xuống chõng, gối đầu lên rồi mới ngủ.


Tờ mờ sáng chàng thức dậy, đổi ngựa mới rồi lại đi. Xế chiều mới đến địa phận Quảng Ngãi. Trả ngựa ở trạm kế tiếp, Chí khoác tay nải đi bộ thêm hơn một canh giờ, chập tối mới đến nơi.


Một căn nhà khuất nẻo trong cây xanh rậm rạp. Cửa đóng kín nhưng bên trong vẫn có ánh đèn.


Chí đưa tay gõ chín tiếng, cứ ba tiếng lại nghỉ một nhịp.


Cửa mở, một người bõ già bước ra:


- Trời ơi, cậu Hai! Cậu đã về!


Chí bước vào thật nhanh, cánh cửa đóng lại.


- Đức cha Stéphano Cuénot Thể và linh mục Đặng Đức Tuấn có còn ở đây?


- Đức cha Thể đã trở về Gò Thị, còn cha Tuấn vẫn ở gần đây. Tối nào ngài cũng đến chờ cậu đó.


- Tối nào cũng đến? Vậy nay Cha ở đâu?


- Cậu cứ vào gặp ngài đi đã, sẽ nói sau. - Bõ già lạc giọng vì vui mừng.


Một người đàn ông trạc ngoài năm mươi tuổi đang đứng chờ bên trong. Thấy Chí, ông dang hai tay, ôm lấy chàng trai:


- Lạy ơn Chúa, ta mong con từng ngày. Mừng con về bình yên, để ta xem… - Ông dang ra một bước, ngắm Chí từ đầu đến chân: - Đúng như ta vẫn tin, đường xa sương gió nhưng Chúa vẫn quan phòng cho con, con vẫn được an mạnh. Có điều, hai cánh tay con vì sao lại ra nông nỗi này?


- Thưa Cha kính yêu, Cha cứ yên tâm, con đi đường được bình an và gặp nhiều người tốt giúp đỡ. Con biết Cha vẫn luôn cầu nguyện cho con. Còn mấy cái vết sây sát này, không phải là bị ai bắt và tra tấn đâu ạ, chính là con cào gãi mà ra đó! Ôi, cái buồng trọ ở trạm ngựa nhiều rệp quá, đêm qua tụi nó làm đại tiệc trên mình con, mà con thì mệt quá nên ngủ say như chết…


Linh mục cười, kéo Chí ngồi xuống sập. Chí kể hết những việc ở kinh thành. “Con hết sức kiên tâm chờ đợi, nhưng đã quá lâu, không chờ thêm được nữa…”


Linh mục Tuấn gật đầu. “Ta cũng đã đoán trước là không dễ dàng. Nhưng dù sao con đã đưa bản điều trần đến tay vua, vậy là chúng ta vẫn hy vọng.”


- Thưa Cha, con đi qua xóm đạo thấy vắng tanh không một bóng người. Sao vậy Cha?


Cha Tuấn điềm đạm:


- Tàu Tây đến hiếp, lấy danh nghĩa đòi truyền bá đạo Chúa. Vì vậy triều đình nghi ngờ dân đạo, vừa mới xuống dụ “phân sáp”.


- Phân sáp nghĩa là sao ạ?


- Phân là chia ra, sáp là nhập lại. Ba tháng nay theo lệnh quan trên, xóm đạo bị chia ra, mỗi nhà đi một nơi, vậy là “phân”. Và ra đi lại phải nhập vào ở ghé trong một làng toàn người ngoại, vậy là “sáp”. Ruộng vườn đất đai bỏ lại hết…


Bõ già bước vào, mang cho Chí bát nước:


- Cả nhà bõ, hai đứa con năm đứa cháu đều phải dỡ nhà, theo lệnh quan vào ở trong Mộ Đức. Qua đất người ta làm dân ngụ cư, ruộng không có, phải đi cày mướn. Mà chủ ruộng họ nghe nói mình dân đạo, họ cũng ngại thuê! Phải chịu công giá rẻ mạt thì mới có người cho cày…


Chí cảm thấy se thắt trong lòng, nghĩ đến mấy đứa cháu nhỏ của bõ già.


Tiếng bõ già khàn đục:


- Kiểu này chưa biết khi nào mới hết khó khăn. Có mấy nhà bàn nhau trốn vô Sài Gòn, không biết có nên không?


- Ấy, theo cháu là không nên! Đất Sài Gòn sình lầy, không phải chỗ nông dân mình cày cấy được. Hiện giờ từ cửa biển cho đến Bến Thành lại đang bị Tây chiếm đóng. Quân triều đình sắp tới sẽ vào xây đồn lớn ở Chí Hòa, Phú Thọ. Giao tranh giữa hai bên nhất định sẽ xảy ra, lúc ấy mình đã lỡ ở vùng Tây đóng, dù muốn dù không cũng phải theo giặc, việc ấy không thể được!


- Nhưng ở đây thì phập phồng, thấp thỏm. Rồi con nít lớn lên tương lai ra sao… Sống ở quê hương mà như đang bị đày… Mình là dân, không theo ai hết, chỉ biết tìm cái sống mà tới thôi!


- Ối ối, bõ ơi, tìm cái sống đâu không thấy, e có khi thấy chết ngay trước mắt. Cháu nghe nói bọn giang hồ đêm khuya chèo thuyền đưa người ra tàu Tây, có đứa gian giảo chở người ta ra giữa biển rồi giết người cướp của. Lại có đứa lấy tiền xong chèo thẳng đến đồn An Hải, nạp cho quân triều đình để lấy thưởng…


Bõ già đến bên cửa sổ, hé cửa nhìn ra ngoài vườn tối, nghe ngóng một lát rồi mới quay vào, hạ giọng nói nhỏ:


- Đức Cha Thể đang cố gắng giúp cho bà con xóm đạo. Chia từng tốp, mỗi tốp ba bốn gia đình cùng đi theo đường Thượng Đạo ở trong núi, có đem theo thuốc men, có địa đồ, nương tựa bảo vệ lẫn nhau, nhiều nhà đã đi thoát rồi!


Linh mục Tuấn nãy giờ lục tìm gì đấy ở trong tủ, vừa quay lại với một tập giấy trên tay. Nghe bõ già nói, ông vỗ vai bõ, nhẹ nhàng:


- Con phải nghĩ cho kỹ. Đức Cha Cuetnot Thể là người Pháp. Đức Cha chỉ quan tâm cứu giúp các con chiên của Ngài làm sao giữ được Chúa trong lòng. Nhưng ta và con là người Việt, nếu lỡ một bước thì sau này sẽ khó quay đầu lắm đó!


Bõ già thở dài:


- Ăn không yên, ở không yên, đi không nên. Vậy thì chỉ còn có một cách…


- Cách gì? - Chí hỏi.


- Còn một cách duy nhất thôi… Quá khóa!


- Quá khóa là sao?


- Là tới cửa quan, quan sai lính đặt Thánh giá trên mặt đất, bắt mình phải dẫm lên, thề bỏ đạo, phản Chúa, mới cho quay về làng…


Nói đến đó, nước mắt bõ già chảy ràn ra. Bõ vội kéo chéo áo lên lau, bập bệu thanh minh:


- Mới nhắc hai chữ “quá khóa” mà con đã thấy muốn chết cho rồi. Sao làm vậy cho được. Không bao giờ!


Linh mục Tuấn cầm tay bõ già, ân cần:


- Ta biết nỗi khổ của con, cũng như của hết thảy dân Chúa ở đây. Vì vậy ta mới cố sức cùng với cậu Chí đây tìm cách tháo gỡ. Con hãy kiên nhẫn, có khi Chúa bắt ta chịu sự thương khó, chính là để thử thách Đức Tin!


Bõ già cúi đầu, cầm bàn tay linh mục đưa lên môi, bày tỏ lòng sùng kính vô hạn.


Linh mục quay lại nói với Chí:


- Tất cả sự đày đọa này chỉ là do triều đình không hiểu thời cuộc. Vì vậy, bằng mọi cách chúng ta cần nói rõ cho Hoàng thượng biết. Chỉ có sự hiểu biết mới giải quyết được tận gốc những nỗi đau khổ này!


Linh mục ngồi xuống, mở trang giấy: “Hoành mao hiến bình Tây sách” – Kẻ ẩn sĩ xin hiến kế làm yên giặc Tây. “Ta còn phải sửa chữa vài chỗ, vài hôm nữa sẽ lại giao cho con đưa đi.”


Mắt linh mục sáng ngời dưới ánh đèn leo lét. Nguyễn Chí thấy se lòng. Cuộn giấy này chất chứa bao nhiêu tâm huyết, nhưng đến kinh thành, nó chẳng là gì cả, sẽ chẳng ai quan tâm, không chừng sẽ phải nằm lưu cữu hàng năm trời trong văn khố của hoàng cung. Dù vậy, cái sức nóng mãnh liệt từ con người truyền lửa này vẫn làm lan tỏa một niềm tin không thể nào tàn lụi.


- Thưa Cha, con sẽ mang đi. Mỗi lời của Cha là một sứ mệnh đối với con.


Linh mục mỉm cười:


- Không phải ta giao nhiệm vụ cho con, mà là Chúa, và Tổ quốc.


- Con sẵn sàng, thưa Cha. - Nguyễn Chí đứng dậy, vòng tay: - Thưa Cha, đến khi nào người mới cho con được rửa tội và chính thức làm con chiên của Chúa?


Linh mục nhìn Chí:


- Ta hiểu tâm nguyện của con. Nhưng hiện nay ta muốn con tạm chưa vào Đạo. Con phải ở ngoài, không chịu cấm đoán ràng buộc từ mọi phía, mới có thể giúp cho việc lớn. Chúng ta làm những việc này, cũng chính là để phụng sự dân Chúa.


Chí chưa kịp đáp lời thì bõ già đã quay vào, hối hả:


- Thưa Cha, trăng đã ngả bóng, xin ngài về chỗ trú ẩn kẻo trời sáng mất. Cơm đã dọn rồi, cậu Hai  ăn xong cứ nghỉ ngơi, bõ hộ vệ ngài đi rồi sẽ quay lại. - Bõ già lắc đầu, thở dài: - Hiện thời quan quân vẫn đang lùng dữ lắm, bắt được giám mục Tây thì cột đá vào cổ ném xuống biển, bắt linh mục ta thì nhốt tù. Ban ngày ban mặt các ngài không ở đây được!


∞∞∞∞∞


Chí ăn xong thì mắt đã sụp xuống, chàng đánh một giấc say như chết, mặt trời lên cao mới tỉnh dậy.


Mở cửa, chàng bước ra vườn. Một vườn trồng toàn nhãn rộng đến ba sào, dưới các gốc cây lá lốt mọc xanh san sát. Cách khoảng mươi gốc nhãn lại có một bộng ong, tiếng ong rù rì vang lên khắp vườn.


Bõ già đang lấy mật, thấy Chí đến gần, bảo:


- Nếu có ai tới, cậu cứ nói là khách buôn trong Nam ra, tìm mua mật tốt.


Chí gật đầu. Chàng thấy bộ áo quần vừa mặc hôm qua đã được bõ già giặt sạch, đang nằm trên dây phơi. Chợt nhớ ra điều gì, chàng kêu lên một tiếng “Á!” rồi chạy đến bên chiếc áo, rũ rũ lục tìm.


- Cậu tìm cái khăn phải không? Bõ sợ gió bay mất, nên phơi riêng cho cậu trong nhà ngang kia kìa.


Chí nhăn nhó:


- Trời ơi, bõ giặt luôn rồi à?


Bõ già cười:


- Thơm quá phải không, nhưng bõ lỡ nhúng nước rồi, nên giặt sạch cho cậu luôn.


Chí vào nhà ngang tìm. Quả nhiên, mùi thơm nồng nàn không còn nữa. Chàng đứng thừ ra, tiếc ngẩn ngơ.


Bõ già cầm túi mật bước vào:


- Cậu ở kinh thành lâu nay, chắc gặp tiểu thư nào rồi phải không? Khăn thơm vậy chắc người phải đẹp! Nhưng cậu đã tính xin rửa tội, thì liệu tiểu thư ấy có chịu cậu không?


- Không phải người thật đâu bõ ơi! Cái khăn này là của tiên trên trời sa xuống đánh rơi đó!


- Cậu còn giấu cả bõ nữa sao, nhìn mặt cậu khi cầm cái khăn là đủ hiểu rồi…


- Thì của tiên cháu mới tiếc. Của người thật thì mất đi kiếm lại được, của thần tiên thì một đời may lắm mới thoáng thấy một lần.


Bõ già lắc đầu:


- Cậu đừng có phỉnh bõ, bõ không tin thần tiên. Trên trời chỉ có Chúa, Mẹ và Đức Thánh Linh mà thôi! Cậu cứ nói lung tung vậy nên Đức cha Thể không yên tâm cho cậu rửa tội đó…


Chợt có tiếng chân người chạy hối hả trước ngõ, tiếng thanh la xa xa vọng lại. Chó sủa ầm ĩ từ thôn này qua thôn khác. “Nội ơi! Lính dõng vào Nga Mân, chận cổng nhà ông Hương rồi!” Một đứa con gái từ ngoài ngõ chạy vào, thở hổn hển. Bõ già giật bắn mình:


- Thôi chết, Cha đang trú tại nhà Hương Côn trong Nga Mân. Vậy là lộ rồi!


Nguyễn Chí biến sắc, lập tức vào nhà chụp lấy thanh gươm, chạy ngay về hướng  Mộ Đức.


Không cần hỏi Chí cũng nhận ra nhà Hương Côn, vì lính hương dõng đang canh bốn phía, tiếng thanh la, tiếng mõ rùm trời. Hương Côn và cả nhà đã bị trói, dồn vào một góc sân. Chạy vòng ra sau khu vườn rộng, Chí ép người luồn qua bụi tre, rồi nín hơi bò qua lùm bụi, đột nhập vào trong. Chàng hy vọng trong nhà có hầm kín, như một số nhà dân đạo thường đào để che giấu giáo sĩ. Nếu vậy, có thể ráng chờ đến khi lính rút hết, sẽ tìm cách đưa Cha Tuấn đi.


Nhưng nhà Hương Côn không có hầm, Linh mục Tuấn lâu nay chỉ trú ở trên gác. Lính dõng đã bắt được ông, đang điệu ra sân. Linh mục vẫn điềm tĩnh, tự mình xuống thềm, hai tay dang ra. Mặt ông ngước lên, như đang trông cậy vào ơn lành che chở trên cao.


Nhanh như cắt, Nguyễn Chí nhảy lên đu vào xà nhà, rồi lấy đà phóng xuống, hai tay cầm cổ hai lính dõng vẹt ra hai bên. Bất ngờ bị tấn công, hai tên lính ngã văng ra. Chí ôm lấy linh mục, xốc ông lên vai, xoay người chạy ra phía ngõ sau.


Linh mục bám vào lưng Chí, quát to:


- Không được, Chí, con cứ mặc ta.


Chí vẫn chạy. “Con phải cứu Cha.” “Không được, nghe lệnh ta, bỏ xuống. Ta trốn đi, cả nhà Hương Côn sẽ chết.” Linh mục nói rồi lấy hết sức mạnh vùng ra khỏi tay Chí.


Chí đành để cha Tuấn xuống, chàng ứa nước mắt không nỡ bỏ đi. Linh mục thò tay vào trong ngực áo, lấy ra xâu chuỗi Thánh giá:


- Con cầm vật làm tin này đi gấp vào Sài Gòn, tìm người cố tri của cha là Nguyễn Trường Tộ, nhờ y dẫn đến gặp Đức Giám mục quản nhiệm ở nhà thờ Chợ Quán. Ngài biết ta bị bắt sẽ cử người thay, không bỏ rơi đàn chiên ở đây. Nhanh lên, kẻo không kịp!


Lính dõng đuổi đến đã gần, linh mục xô Chí ra, thúc giục:


- Chạy đi, con chạy ngay đi. Nhớ lời Cha, con phải giữ mạng sống, sau này còn nhiều việc!


Chí đành nghe lời. Chàng đu lên một cành cây la đà ven đường, phóng mình xuống lùm bụi, chạy thoát. Lính vừa ập tới, la ó rầm rĩ, họ không thiết đuổi theo Chí vì ai cũng đua nhau giằng lấy linh mục.


Một chức sắc trong làng vừa thở hào hển vừa kêu lên phía sau:


- Ấy ấy, không được nặng tay! Quan trên đã có lệnh, giải cố đạo nguyên lành về công đường để quan còn xét hỏi.


Lính đem gông lại. Chiếc gông to nặng bằng gỗ lim, đã bóng loáng vì tẩm mồ hôi và dấu tay của không biết bao nhiêu tù phạm.


Linh mục vươn đầu cho lính tra gông vào cổ. Mắt người tù vẫn hướng lên cao.


Chương 9

Đại đồn Kỳ Hòa


Khi Nguyễn Tri Phương lên đường vào Nam, Nguyễn Lâm nằng nặc đòi đi theo cha để đánh Tây. Đại tướng Phương bảo con:


- Ta nhận trọng trách của triều đình giao phó, làm chiến tướng ở sa trường thề da ngựa bọc thây. Mi là trẻ ranh, theo đi mà làm gì cho ta thêm bận.


Không có gì làm cho Nguyễn Lâm ức hơn là hai tiếng “trẻ ranh” mà thân phụ vừa thốt ra.


- Trình cha, mười tám ban võ nghệ con luyện đã tinh tường. Cung, kiếm, gươm, đao đã thành thục hết, vậy mà nghe ai có món võ gì hay lạ con vẫn tìm tòi học thêm cho được. Xin cha cho con được ra trận đánh Tây, con quyết lập công để đáp ơn vua, đền công cha.


- Tây nó không đấu cung kiếm đao thương. Thế kỷ này ra trận, đọ sức nhau bằng súng, biết chưa?


Lâm vẫn nằn nì:


- Vậy con sẽ tập cả súng!


- Ta đã bảo không được là không được! - Đại tướng trừng mắt. Theo thói quen nhà binh, ông chỉ có ra lệnh chứ không bao giờ cần giải thích. Biết tính cha, Lâm đành ngậm miệng lủi thủi quay đi, trong lòng hậm hực: “Bảo là trẻ ranh không cho ra trận, mà lại bắt cưới vợ, vô lý quá, thậm vô lý!”


Nguyễn Tri Phương phu nhân từ khi còn trẻ đã quen với những chuyến chinh phạt xa xôi của chồng. Bà không hé môi thắc mắc gì, chỉ lặng lẽ tự mình xếp đặt đồ dùng vào mấy cái túi da quân dụng. Bà chỉ dặn lui dặn tới một việc:


- Có cái áo giáp bằng da tê ngưu Hoàng thượng ban cho, tôi đã xếp cẩn thận để ở trên cùng. Khi ra trận, quan lớn đừng quên mặc!


Nguyễn Tri Phương gật đầu, ông nói:


- Lần này tôi đi lâu, bà ở nhà cứ sắp đặt sẵn việc hôn nhân của thằng Ngọc, thằng Lâm. Khi nào việc đánh chác tạm yên, tôi sẽ về lo lễ nghênh hôn cho cả hai đứa.


- Dạ, quan lớn cứ yên tâm. Việc thằng Ngọc thì dễ, tuổi tác đã xem xong, sính lễ cũng sẵn sàng. Có điều phải tổ chức cho Lâm trước, vì Lâm tuy là em nhưng làm rể hoàng gia. Mà việc Lâm lại do bên Tôn Nhân phủ định đoạt, nên mình cứ phải lóng dóng chờ.


- Không vội bà ạ, đã trễ rồi thì trễ thêm chút nữa có sao. Ít nhất cũng tháng này năm sau, tôi và chú Duy mới được về Kinh.


Chú Duy mà tướng Phương nhắc đến đây là Nguyễn Duy, em ruột, đồng thời cũng là võ tướng dưới quyền, hiện đã vào trước trong Nam để lo mộ thêm quân sĩ. Trước khi Nguyễn Tri Phương vào, hàng vạn quân lính và dân dõng đã tập trung, ngày đêm thay phiên đào đất, nung gạch. Một đại đồn thật kiên cố sẽ được xây dọc theo kênh dài Bình Trị. 


Hoàng đế Tự Đức xem bản vẽ, thấy hình ảnh đại đồn vững chãi, cụm ở giữa vuông vức, thành nhỏ thành lớn cài vào nhau, hai mé tả hữu lại vươn dài, bề ngang ước tính đến hơn ba ngàn sáu trăm trượng. Ngài gật đầu:


- Từ trước đến nay nước ta chưa có đồn lũy nào lớn như thế! Chi phí sẽ lớn lắm đây. Lớn thì lớn, cái an nguy của đất nước là quan trọng, khanh cứ dốc sức mà thi hành. Trẫm đã có dụ cho Bộ Hộ, từ nay mọi việc chi tiêu đều cắt giảm, để ưu tiên ngân lượng cho việc quân.


Nguyễn Tri Phương đưa tay theo từng nét vẽ:


- Tâu Hoàng thượng, khi thiết kế đại đồn này, thần đã cho nghiên cứu sức công phá của viên đạn Phú Lang Sa. Mặt trước của thành dày đến sáu thước, dù đạn địch có bắn như mưa cũng không hề hấn gì. Còn đại bác của chúng thì không thể nào di chuyển đến đủ tầm bắn, vì bên ngoài đã có hệ thống hào và hầm chông dày đặc, không thể băng qua. Không vượt qua được đồn lũy này, thì chúng cũng không tài nào tiến vào đồng bằng miền Nam được!


- Hay, hay lắm!


- Quân ta thực hiện chiến lược vừa thủ vừa công, trước hết giữ lực lượng thật vững chắc, chờ khi giặc bất ý sẽ đánh tỉa dần dần. Giặc ở Sài Gòn lâu ngày không hợp thủy thổ ắt sinh đau ốm, lúc ấy ta sẽ lựa thời cơ đẩy chúng ra khỏi đất Gia Định.


- Đúng! Cũng như năm ngoái ta đã đánh lui chúng ở Đà Nẵng vậy! - Niềm hy vọng mãnh liệt hiện rõ trên gương mặt nhà vua, ngài nhìn lần nữa xuống họa đồ, tấm tắc: - Đồn lũy này trông tổng thể cứ như một chàng dũng sĩ to khỏe đang ngó thẳng vào trại giặc, hai cánh tay dang ra che chắn bảo vệ cả miền Nam rộng lớn sau lưng. Khanh hãy nhớ, đồng bằng sông Cửu Long là cái thúng gạo to của cả nước mình! No đói, thắng thua là do ở đó, nay trẫm giao cả cho khanh!


Trước khi Tri Phương lui ra, vua còn cầm tay thiết tha dặn dò, rồi tự mình rót ngự tửu ban cho. Tri Phương xúc động:


- Hoàng thượng chí tình, thần đâu dám sao nhãng ơn vua.


Đại đồn Kỳ Hòa xây trong bảy tháng ròng rã mới tạm xong. Lại một lần nữa Tết đến. Nguyễn Tri Phương cho những ai quê ở Nam về thăm gia đình. Hơn hai vạn lính quê xa ở lại giữ chiến lũy. Bản thân ông và em trai cũng ở lại. Từ các vùng lân cận, người dân tấp nập gánh rượu, thịt, bánh chưng, bánh tét đến xin ủng hộ cho chiến sĩ ăn Tết xa nhà. Hàng ngàn dân từ các miệt đồng bằng cũng theo các đầu mục Trương Định, Nguyễn Tấn Kiều, Võ Duy Dương hăm hở kéo nhau đến xin tòng quân.


Đứng trên đài chỉ huy nhìn về cửa sông Sài Gòn, Nguyễn Tri Phương có thể nhìn thấy doanh trại của quân Pháp ở xa xa. Nó mọc lên san sát, đen xám, nham nhở như một vệt chàm lớn trên thân thể. Dưới chân ông là đại đồn với hai chiến lũy vươn dài. Ông nhớ tới lời vua: Đồn lũy này như chàng dũng sĩ dang hai cánh tay che chắn cả quê hương rộng lớn ở sau lưng. Ông cảm thấy mình đang hóa thân vào chàng dũng sĩ ấy. Đưa cao thanh kiếm Thượng Phương vua ban, ông hô lớn:


- Hỡi tướng sĩ! Trên dưới một lòng, chúng ta thề quyết tâm đánh Tây, cứu nước! Xin thề!


Tiếng reo phụ họa từ các hàng quân lớp lớp phía dưới vang lên, dội vào nhau, trùng điệp:


- Xin thề! Xin thề! Xin thề!...


∞∞∞∞


Tin tức về Đại đồn Kỳ Hòa làm nhà vua phấn khởi, nhất là khi nghe tin những chiến thắng đầu tiên được báo về. Quân Pháp từ Sài Gòn lên đánh đồn mấy lần, đều bị đánh bật lui. Tháng chín, tháng mười một, Đại tá D’Ariès nhiều đợt đem lính tấn công, đều bị thương vong nặng nề.


Trước Tết, địch lại tập kích một trận lớn. Trận này quân Đại Nam thắng to. 132 lính Pháp rơi xuống bẫy chông, trúng đạn gang trên thành bắn xuống, chết phơi xác. Quân Nam dùng câu móc kéo lên, treo xác thành dãy dài để thị uy. Từ đó đến mấy tháng liền, không thấy quân Pháp rục rịch gì nữa.


Tin tốt được báo về Kinh. Thượng thư bộ Binh là Trần Tiễn Thành tâu lên vua, nhấn mạnh về trận đánh gần chùa Khải Tường, quân Nam phục kích chặt đầu được tên quan hai Barbé, đem bêu trước ải.


- Hừm, tên giặc khốn kiếp, đã dám chiếm đóng chùa thiêng Khải Tường. Chùa ấy do Thánh tổ Minh Mạng cho xây dựng để đánh dấu nơi người sinh ra. Nay chúng đoạt lấy, ăn ở bừa bãi trong đó, bảo sao không bị ơn trên trừng phạt.


- Tâu đúng như vậy! Chỉ tiếc rằng, ta không kịp ngăn chặn, để chúng chiếm dụng mất tấm bia của Đức Quốc Công. Chúng thần thật muôn vàn chịu tội với thánh thượng.


Tấm bia mà Trần Tiễn Thành nói đến là một tấm bia lớn bằng đá Thanh rất quý, càng quý hơn vì bài khắc trên đó là do chính Hoàng đế Tự Đức viết tặng. Từ trước đến giờ, nhà vua chỉ viết hai bài văn để khắc trên bia: một là bài Thánh Đức Thần Công để khắc trên bia ở lăng phụ hoàng Thiệu Trị, và hai là bài này, dành cho ông ngoại là Phạm Đăng Hưng, lăng mộ ở Gò Công.


Tấm bia ấy được chở bằng quan thuyền từ Thanh Hóa vào tới cửa sông Sài Gòn không may bị chìm, quân ta không sao vớt được. Tàu Tây liền dùng cần trục vớt lấy, rồi giữ luôn. Họ Phạm ở Gò Công cùng với quan tỉnh Mỹ Tho đòi mãi không được. Nay Barbé tử trận, Tây bèn dùng luôn tấm bia. Những chữ Hán được chạm khắc công phu, Tây không hiểu gì cả nên mặc nhiên xem đó là những nét vẽ rất tinh tế và hài hòa, đã trở thành một cái nền rất đẹp khi họ khắc đè lên cái tên Barbé cùng với một hình thập giá.


Nghe nhắc đến việc đó, Hoàng đế Tự Đức giận tím cả mặt. Im lặng giây lâu, ngài bảo Tiễn Thành:


- Việc ấy khanh không nên nói rộng ra ngoài, đừng để Thái hậu biết được. Để cho mẫu hậu phải đau xót, thì tội của trẫm lớn lắm!


Tiễn Thành cúi đầu:


- Xin Hoàng thượng thư thả trong lòng. Chúng thần quyết tâm đánh giặc, lần lần giang sơn thu lại, vật hoàn cố chủ, sẽ đem bia quý trả lại cho hoàng gia. Thần và Nguyễn Tri Phương đã có dự tính, qua tháng ba trời miền Nam bắt đầu nóng nực, quân địch chịu không nổi tất sinh bệnh tật. Lúc bấy giờ lợi thế của ta là số đông áp đảo, lại quen thuộc phong thổ, chính là thời cơ mở cuộc đại tấn công!


Đúng như lời Trần Tiễn Thành, quân Pháp ở Sài Gòn càng ngày càng gặp khó. Bệnh kiết lỵ và sốt rét đang hoành hành. Quân của Nguyễn Tri Phương vẫn thỉnh thoảng đến tập kích, có trận thọc sâu vào giữa lòng căn cứ.


Nhưng trong lúc Đô đốc Le Page dài cổ chờ mong lệnh rút quân từ Paris, thì vận mệnh nước Đại Nam đã đi sang hướng khác.


Đó là lúc bên trời Tây, Bộ trưởng bộ Thuộc địa Chasseloup Laubat đã đạt được đồng thuận trong chính phủ: “Cần phải củng cố uy quyền của ta ở Sài Gòn. Sài Gòn chính là bàn đạp kinh tế để chúng ta thâm nhập thị trường Trung Hoa, cũng quan trọng với chúng ta như Hồng Kông với người Anh Cát Lợi.” Tiếp theo đó, Hoàng đế Napoleon đệ tam ra chỉ thị: “Đội quân chiếm đóng Sài Gòn phải được tăng cường, để bảo đảm giữ cho nước Pháp cứ điểm quan trọng này.”


Tháng giêng năm Tân Dậu, dân chúng ở cửa sông Sài Gòn chứng kiến một cảnh tượng chưa từng thấy:


Một hạm đội đông nghịt giăng kín trước biển đông. Tàu lớn, tàu nhỏ lởm chởm xuất hiện, cờ tam tài ba màu xanh, trắng, đỏ bay phần phật che kín trời. Quân thám báo đưa tin về Kỳ Hòa: đếm được tất cả 68 tàu chiến lớn nhỏ đã bỏ neo trước cảng. Lính Tây lớp lớp đổ bộ lên bờ, mang theo 18 khẩu đại bác và rất nhiều súng cối. Đúng như Phan Thanh Giản đã tiên đoán, người Pháp đã giải quyết xong trận chiến với Trung Hoa, nay quay lại chiến trường Việt. Chỉ huy quân đội lần này là Trung tướng Charner, với hơn tám ngàn quân lính và 600 phu đài tải mộ được từ bên Tàu.


Trong đại đồn, Nguyễn Tri Phương lập tức nai nịt lên đài chỉ huy. Một trăm năm mươi khẩu đại bác trên mặt thành sẵn sàng khạc đạn về phía địch. Các tướng Phạm Thế Hiển, Tôn Thất Cáp, Nguyễn Duy đôn đốc sắp xếp 30 ngàn quân sĩ dưới quyền vào đúng vị trí tác chiến.


Trận đánh quy mô nhất từ trước đến nay sắp nổ ra.


∞∞∞∞


Cũng trong phút ấy, tại phủ nhà Nguyễn Tri ở kinh thành Phú Xuân, Nguyễn  Ngọc, trưởng nam của Nguyễn Tri Phương đang thay cha quỳ trước hương án đặt giữa chính môn. Hôm nay Hoàng thúc là Thọ Xuân công Miên Định thay mặt Hoàng đế truyền đạt sắc chỉ tứ hôn, gả công chúa Nguyễn Phúc Gia Phúc cho nhị công tử nhà họ Nguyễn. Cũng với sắc chỉ này, Nguyễn Lâm đã được chính thức ân phong làm Phò mã đô úy, xếp vào trật Chánh tứ phẩm và được ban cho áo bào gấm để mặc trong lễ nghênh hôn.


Trong thâm cung, cái tin ấy cũng đến tai Thiện phi. Nàng cười hí hửng, nói với hai thị tỳ thân tín:


- Có thế chứ, vậy là ván đã đóng thuyền. Bây giờ ta mới lo đến việc của ta!


Phe phẩy chiếc quạt ngà trên tay, nàng bảo thị nữ Tố Quỳ:


- Mau đi đến viện Đoan Trang, mời Thuận tần đến chơi với ta vài ván “bài Tới” cho vui.


Thiện phi nhấn mạnh hai tiếng “cho vui” một cách tinh quái, bởi nàng đoán biết giờ này Thuận tần đang buồn thối ruột. Đúng như vậy, Thuận tần Hoàng Thị Dĩnh là mẹ của công chúa Phúc Huy. Mấy hôm nay, cái tin Gia Phúc được chọn gả về nhà Nguyễn Tri làm bà Tần buồn đến không nhếch mép nổi. Còn lòng dạ nào mà chơi với bời? Thực bụng bà chỉ muốn ở nhà nằm vùi, nhưng dù sao cũng phải nể lời sủng phi của đương kim Hoàng đế. Bà đành gượng dậy, vấn khăn mặc áo ra đi.


Kể về chức tước thì bà Tần chỉ vào hàng tứ giai, đứng thứ tư trong chín bậc, trong khi Thiện phi tuy còn trẻ nhưng đã là nhất giai phi. Vì vậy bước vào cửa, bà liền chắp tay làm lễ. Thiện phi vội vàng đứng lên vái trả, bởi bà Tần tuy tước thấp hơn nhưng là phi tần của tiên đế, nên theo phép nàng cũng phải tỏ lòng cung kính.


Tuy nói là mời đánh bài, nhưng thấy Thuận tần uể oải buồn, Thiện phi cũng không ép. Nàng mời bà Tần ra vườn thăm hoa phù dung mới nở, rồi lân la tâm sự. Dần dần Thuận tần hé mở nỗi lòng:


- Trong cung ai cũng nói, so với Gia Phúc thì Phúc Huy mười phần đều hơn, được cả người lẫn nết. Mấy tháng trước dì nghe phong phanh con mình được gả về nhà Nguyễn Tri, trong lòng đã thấy mừng. Ai ngờ duyên số của hắn hẩm hiu, cho nên cái phước lớn không được hưởng.


Thiện phi làm ra vẻ ngạc nhiên:


- Phúc Huy cử chỉ nhu mì, dung mạo phúc hậu, Tiệp dư Phu Tử vẫn khen mãi. Còn Gia Phúc thì sao sánh được, ngỗ nghịch ham chơi, bừa bãi lếu láo, nhà Nguyễn Tri rước cái thứ ấy về thì cũng là rước họa mà thôi!


- Đúng, đúng, ai cũng nói vậy đó! Nhưng mà, Thái hậu nuôi Gia Phúc, hắn nằm chễm chệ trong cung Gia Thọ, thì làm sao con mình địch cho nổi. Nghe nói từ sau khi Trương Đăng Quế cáo quan, thì Nguyễn Tri Phương là thế lực nhất trong triều. Cái gia thế tốt như vậy, cho nên không tới tay mình cũng phải.


Thiện phi bĩu môi:


- Tiếng là hắn ăn ở trong cung Gia Thọ, chớ thật ra thân phận mẹ hắn là nô tỳ, có đâu được cao quý như con gái của Thuận tần! Còn gia thế nhà Nguyễn Tri tuy lớn, nhưng quan võ thời chiến quanh năm đi đánh giặc, biết có bền không? Không nơi này thì nơi khác, Thuận tần cần chi mà buồn, con vua đâu có lo ế!


Cái bĩu môi rất khinh thị của Thiện phi có nguồn gốc sâu xa, ấy là vì Tổng đốc Nguyễn Đình Tân, thân phụ của nàng vốn có mối hiềm với Đại tướng Phương đã sáu bảy năm nay.


Thuận tần ở trong cung, không biết chuyện ấy. Bà rầu rĩ nín lặng một hồi, rồi mới ngập ngừng thổ lộ:


- Chẳng giấu gì Thiện phi, dì buồn nhất là Khâm Thiên giám xem tuổi, nói là Phúc Huy có số sát phu, không lợi cho nhà chồng. Vậy thì còn gả được cho ai nữa - Thuận tần trào nước mắt - Nghĩ tới đó mà thương con, ruột cứ đau như cắt…


Thiện phi trợn tròn mắt, “Vậy á” “Ai ngờ…” một lúc lâu, rồi mới vỗ về an ủi người mẹ tội nghiệp:


- Bệnh gì cũng có thuốc chữa, sao dì không nghĩ còn nước còn tát, mà lại cứ buồn suông tủi hão. Mẹ con ở nhà có biết một ông thầy chiêm tinh hay lắm, để con đưa tin ra, nhờ thầy coi có cách nào hóa giải không!


- Nếu được vậy thì còn chút hy vọng, nhờ Thiện phi và phu nhân giúp đỡ. Dì tối ngày ở trong cung, cha mẹ thì xa chẳng biết hỏi ai…


Lá số Phúc Huy liền được Thu Cúc cầm đi. Sau mấy hôm, cũng Thu Cúc truyền lại lời thầy:


- Số của người nữ này khắc phu, ai lấy phải cũng chết tươi! Nhưng nếu gặp người chồng sinh vào các năm Bính, Đinh, Nhâm thì không sao cả. Vì thầy nói, nam nhân sinh vào các năm Bính, Đinh, Nhâm có mệnh to số lớn, dẫu  vợ có số sát phu cũng không sát nổi!


Thuận tần nghe nói mừng khấp khởi, nhưng vẫn còn lo:


- Không biết làm sao cho Tôn Nhân phủ biết việc ấy, để họ lo xếp đặt hôn nhân cho hắn. Mà biết tìm ai có tuổi Bính, Đinh, Nhâm…


Thiện phi thở dài não nuột:


- Thật là khó trăm đường! À, mà… Con mới nhớ ra, con có đứa em trai út, hắn sinh năm Nhâm Tý…


Thuận tần cảm động:


- Thiện phi thật là tốt bụng thương người, không chê con dì số xấu hay sao?


Thiện phi bấm bụng cười thầm. Đường đường là con gái cành vàng lá ngọc của tiên đế mà đến cái nước này cũng không khỏi sợ người ta chê. Nàng nghĩ thầm: “Ở đời mà yếu bóng vía thì trăm cái hay cũng vứt.”


Nàng làm ra vẻ thương cảm:


- Con thương dì lắm, thấy dì khổ tâm quá thật không đành lòng. Thôi được, để con lo.


- Rồi Hoàng thượng, Thái hậu và Tôn Nhân phủ có chịu không? - Thuận tần vẫn chưa hết băn khoăn, sợ nọ sợ kia đủ thứ.


Thiện phi xua tay:


- Khó mấy con cũng tìm cách thu xếp, dì cứ để yên, con sẽ gỡ lần lần cho dì. Cần nói với Tôn Nhân phủ thì đã có mẹ con bên ngoài lo liệu. Cần nói với Thái hậu thì con sẽ nhờ Tiệp dư Phu Tử. Cần nói với Hoàng thượng thì… - nàng cười ngỏn ngoẻn – đã có con đây!


- Ôi chao! Dì đội ơn Thiện phi! Thật đúng là trong họa có phúc, con dì được làm em dâu con người nhân đức như Thiện phi, thì còn chi hơn nữa! - Thuận tần mừng rỡ nghẹn ngào.


Bà Tần cáo về rồi, Thu Cúc và Tố Quỳ từ lúc nãy vẫn nấp sau màn theo dõi, giờ mới chạy ra, chủ tớ cùng nhau bụm miệng cười:


- Vậy là cái mối thơm nhất hoàng cung đã về tay công tử nhà mình rồi đó!


Thiện phi gật đầu:


- Tụi bây thấy chưa, đời này hơn nhau chưa chắc ở cái tài cái sắc mà là cái khôn! Trước hết là giành mối, rồi đến dìm giá, sau đó là mua rẻ! Gia thế như nhà ta, muốn làm phò mã có chi là khó, nhưng phải chọn cho được cái suất tốt nhất ta mới vừa lòng. Chứ cứ lù đù ở đó mà chờ người ta ban phát, thì chỉ còn đồ thừa đồ dư mới đến phần mình mà thôi!


- Dạ! - Tố Quỳ phụ họa - Lệnh bà mưu chước còn hơn cả Gia Cát Khổng Minh! Bây giờ Thuận tần đã mang ơn bà, nói gì mà chẳng nhất nhất nghe theo. Lại còn công chúa Phúc Huy về nhà chồng, nhất định là khép nép một bề, đâu có dám hó hé lên mặt ta đây bà chúa!


Thiện phi nghe nịnh, cười đắc chí. Lúc nào cũng vậy, nàng phải giành cho được cái tốt nhất. Nhờ cái tâm niệm đó mà đến nay, nàng đã tiến lên ngang ngửa với Trung phi Vũ Thị Duyên, và rồi đây… Nàng nghĩ thầm: “Đã đuổi kịp, rồi sẽ vượt!”


Một thoáng tư lự lướt qua trên mặt nàng. Mặc dù đã uống, đã tắm, đã hít bao nhiêu thứ thảo dược, tuần trăng vừa qua, lại một lần nữa chiếc quần nhiễu trắng của nàng bị lấm đỏ. Liệu mình có sinh được cho Hoàng thượng đứa con nối dõi không…


 Có lần được phép vào cung thăm, mẹ nàng đã khuyên:


- Đức vua có cả trăm cung tần, mười mấy năm nay thay phiên hầu hạ, nếu mà sinh được ắt có người sinh rồi. Không có con, thì phận làm vợ cũng mong manh lắm. Lúc này đang được ơn trên yêu thương, sao con không xin ngài chọn trong con cháu các vương công một đứa để làm con nuôi. Vô nam dụng nữ, vô tử dụng tôn, từ xưa nay vẫn không có cách chi khác! Không nói sớm, sợ khi hoa tàn trăng khuyết, vua không thương nữa thì cái ơn ấy chắc chi đã dành cho mình?


Thiện phi thấy mẹ nghĩ đúng, nhưng nàng lần chần không dám nói. Vì như vậy chẳng khác chi nói thẳng rằng nhà vua chắc chắn sẽ vô hậu tuyệt tự, chẳng còn nước non gì mà hy vọng. Vì vậy, lại phải… nghĩ cách.


Một hôm nhân lúc gần vua, nàng thỏ thẻ nói như vô tình:


- Thần thiếp nghe nói ngoài dân gian, nhiều cặp vợ chồng chậm đường con cái, họ xin một đứa con nuôi, thế rồi từ lúc có con nuôi tự nhiên lại sinh được một lèo năm bảy đứa. Họ nói đó cũng là một phương thuật cầu con!


Nhà vua nghe, yên lặng ngẫm nghĩ. Ngài không nói gì, nên từ đó nàng không đá động đến việc ấy nữa. Dù vậy nàng vẫn chưa bao giờ từ bỏ ý định - như tính nàng xưa nay vẫn thế.


Chương 10

Hai cánh tay của chàng dũng sĩ


Rạng sáng ngày Giáp Thìn, tiếng đại bác của quân Pháp bắt đầu vang lên từ xa xa.


Trong đồn Kỳ Hòa, Nguyễn Tri Phương đã chuẩn bị sẵn sàng. Nghe tiếng hô, tướng sĩ răm rắp vào vị trí.


Từ đài chỉ huy nhìn xuống, quân sĩ dàn kín thành từng hàng ngang song song, lớp này sẵn sàng thay thế lớp kia. Dàn đều ba phía mặt thành là một trăm năm mươi cỗ thần công đại pháo, bên mỗi cỗ pháo là sáu pháo binh túc trực. Sau lưng hàng quân này lại có năm lớp pháo binh chực sẵn sau lưng. Theo kế hoạch, cứ chiến sĩ nào ngã xuống sẽ lập tức có người tiến lên thay, bảo đảm cho súng không ngừng bắn. Đoàn phu tải tiền quân hiệu lực cũng được xếp xen kẽ với lính, hễ ai trúng đạn địch sẽ có người cáng ngay ra hậu đồn trị thương, không làm vướng chân những người đang chiến đấu.


Chạy dài ở cấp thành phía dưới là một loạt lỗ châu mai dày đặc, bên mỗi lỗ châu mai là một tốp chiến sĩ cầm ống phun lửa. Loạt chiến sĩ này là để đối phó trong trường hợp địch vượt được tầm đạn của súng thần công, áp sát giao thông hào. Sau lưng đội ngũ này cũng có ba hàng binh sĩ sẵn sàng thay vào vị trí khi cần.


Từ chân thành vào đến đài chỉ huy, hàng hàng lớp lớp các cơ lính Gia Trung, Gia Thuận, Gia Hùng, Gia Nhuệ, Gia Tráng, Gia Tiệp, giáo mác ken dày tua tủa. Voi chiến, ngựa chiến túc trực, sẵn sàng yểm trợ đoàn quân đông đảo này, và sẽ được tung ra sau cùng, khi đánh cận chiến. Hai vạn binh lính cứ theo hàng ngũ mà trải ra, như những lớp sóng trong một biển người.


Riêng một vạn dân dõng từ lục tỉnh lên ứng nghĩa được giao giữ mặt sau đại đồn, ở đó có hai vòng thành nhỏ dành cho việc tải thương và tiếp tế.


Đầu mục Trương Định, người cầm đầu hơn sáu ngàn quân ứng nghĩa, bước vào hổ trướng, nói lớn:


- Bẩm Nguyên soái! Anh em dân dõng chúng tôi đến đây đều mong được xông pha tuyến đầu. Nay họ rất thẹn phải lui giữ hậu đồn! Xin Nguyên soái cho một số được lên trước để khỏi mất nhuệ khí của dân quân!


Nguyễn Tri Phương nghiêm mặt, tay đặt lên đốc kiếm:


- Hôm qua đã cắt đặt vị trí đâu vào đấy rồi. Quân lệnh nghiêm minh, không một ai được dị tâm!


Trương Định còn muốn nói tiếp, thì một bàn tay từ sau lưng lôi lại. Định quay lui thì nhận ra người đồng hương mới quen biết mấy hôm nay: Phò mã Phạm Đăng Thuật.


Phò mã Thuật là em trai Thái hậu. Hai năm trước, khi Gia Định vừa mất, Thuật ở trong số bảy mươi lăm công tử trong kinh thành dâng sớ xin tòng quân đánh giặc. Vua muốn lưu giữ dòng dõi của Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng, nên chuẩn cho bảy mươi tư người đi, riêng Đăng Thuật ngài giữ lại không cho. Năm nay nghe nói Nguyễn Tri Phương lập đại đồn chống giữ phương Nam, Đăng Thuật lại năn nỉ xin đi, vua đành phải chiều ý. Quen biết nhau ở chiến trường, phò mã hôm qua cười vui nói với Trương Định: “Mình là dân Gò Công, nên lúc nào cũng vừa Gồng vừa Co, khó sai khiến lắm đây!”


Hôm nay trước giờ ra quân, Đăng Thuật cũng vẫn vẻ mặt nhẹ nhõm tươi vui như vậy. Thuật kéo Trương Định lại, rỉ tai:


- Tướng lệnh nghiêm minh, cấm cãi! Lúc này không nổi máu Gò Công được đâu!


Định đành nghe. Chung quanh, tất cả đã im phăng phắc.


Nguyễn Tri Phương hô:


- Tất cả nghe lệnh, vào vị trí chiến đấu!


Các tướng dạ ran. Nguyễn Tri Phương bước lên vọng lâu, lá cờ đại màu đỏ thắm thêu hai chữ Đại Nam bay phần phật trong gió. Đội quân hiệu cầm dùi trống chực sẵn. Bên dưới, các tướng Nguyễn Duy, Tôn Thất Trĩ, Tôn Thất Cáp, Phạm Thế Hiển đều nhất tề lên ngựa đến ngay những vị trí chỉ huy.


Từ phía Sài Gòn, quân Pháp đang kéo nhau tràn tới, như một vết dầu khổng lồ đang loang ra nhanh chóng. Phía trước chúng là những khẩu đại bác đen ngòm được đẩy đi trên những bánh xe to lớn. Chúng chỉ có mười khẩu đại bác thôi, trong khi riêng mặt trước của ta đã bố trí đến bảy mươi cỗ súng thần công, Nguyễn Tri Phương nghĩ thầm.


Ông cảm thấy phấn chấn, hai tay phất cờ lệnh. Giàn trống thúc quân lập tức thùng thùng vang lên, pháo binh cấp tập khai hỏa. 


Bảy mươi khẩu súng lớn phóng đi những viên đạn gang to. Tiếng đạn rít như xé gió, nhiều tên giặc trúng đạn ngã rạp. Quân chúng co cụm tức khắc, tản ra ẩn sau những gò đất, gốc cây. Lom khom, lính Tây tiến dần từng khoảng cách nhỏ. Trên thành, súng quân Nam càng giòn dã, tuôn xuống những hòn gang to bằng đầu người. Nóng bỏng vì lực ma sát, mỗi hòn trút xuống một cái chết.


Hốt nhiên, quân Pháp dừng hết lại sau các gò đống, không tiến nữa.


Một tiếng oành vang dội, rồi hàng loạt đạn đại bác của Tây bắt đầu phóng tới.


“Ầm! Sạt! Ầm!....” Sau mỗi tiếng nổ là một mảng thành lở ra, văng tung tóe. Nhiều quả đạn trúng ngay ụ súng, khói bốc đen kịt, năm sáu pháo thủ đều trúng mảnh, ngã lăn ra. Đúng theo kế hoạch dự phòng, lớp pháo thủ thứ hai tiến lên, thay vào chỗ người vừa ngã xuống.


Một số súng cũng trúng đạn Tây, gãy văng ra từng đoạn. “Bảo vệ súng!” Nguyễn Tri Phương ra lệnh kéo súng xuống cấp thành thấp hơn để đỡ hứng pháo đạn của địch. Ông biết nếu một trăm năm mươi khẩu thần công này bị vô hiệu hóa, thì sức đề kháng của Kỳ Hòa chỉ còn trông vào xương thịt của một biển người mà thôi.


Dưới kia, quân Pháp đã xáp đến gần hệ hầm chông và giao thông hào, chúng đang thả những tấm ván dài làm cầu để vượt qua.


- Hỏa hổ, bắn!


Phía quân Nam, từ các lỗ châu mai, những ống phun lửa khạc ra vô số hòn lửa cháy, lửa lan xuống cỏ cây lùm bụi, bắt lửa cả vào ván gỗ. Quân giặc phải bật lui. Nhiều lính Pháp rớt xuống hầm chông, bị cọc tre nhọn xiên ngang, quần áo bắt lửa cháy phừng phừng như những con cá nướng.


Trận chiến kéo dài nhùng nhằng suốt cả ngày hôm ấy. Cả hai bên đều thương vong nặng nề, cả hai bên đều nhất định không chịu thua.


∞∞∞∞∞


Theo đúng kế hoạch hành quân, thấy quân địch bật ngược lại trước phòng tuyến hầm chông, Nguyễn Tri Phương cho hiệu trống mở cửa thành. Đoàn trung quân trang bị giáo mác tuôn ra, quyết lấy số đông áp đảo để đánh giáp lá cà với địch. Nguyễn Tri Phương đã tính, ở cự ly gần, thì súng trường của địch không thể phát huy tác dụng. Hai tướng Nguyễn Duy, Tôn Thất Cáp cưỡi voi trận, ào ào dẫn quân xốc tới. Trống hiệu thì thùng hối hả, quân reo ó vang trời, bất chấp tiếng súng.


Bỗng lại có tiếng đại bác rền lên rất gần. Một, hai, ba rồi liên tiếp nhiều quả pháo rơi vào chính giữa đại đồn, ngay trước mặt đài chỉ huy. Tướng Tôn Thất Trĩ đang ngồi trên mình ngựa ở vị trí hậu quân, sau một tiếng nổ lớn bỗng biến mất, cả người lẫn ngựa chỉ còn là những tảng thịt bầy nhầy máu văng tung tóe. 


Quân sĩ chung quanh dù đã thề quyết tử, trước cảnh tượng ấy cũng bạc mặt, nao núng. Trên đài chỉ huy, Nguyễn Tri Phương quan sát đường đạn, nhận ra quân Pháp đã di chuyển tám súng đại bác đến những gò cao chung quanh hai chiến lũy tả hữu. Địch đang áp sát tấn công vào phía hai bên, ở đoạn này thành thấp hơn và ụ pháo cũng thưa hơn mặt trước.


Quân Nam bắt buộc phải tản ra, chống giữ cả ba phía. Lúc này quân địch thừa cơ vượt qua hệ thống hầm chông phía trước, dùng súng trường vãi đạn như mưa.


“Bụp” Đạn cắm vào đầu con voi của Nguyễn Duy, voi rống to rồi ngã lăn ra, hất cả quản tượng lẫn đại tướng xuống đất. Một tốp quân địch xông tới, dùng lưỡi lê đâm nát ngực cả hai. Quân Nam rối loạn, một số rớt xuống hầm chông, một số chạy lui muốn quay vào. Quá muộn, một quả đại bác đã chặn đường, những thân hình vỡ nát ra; ruột, gan, máu bắn tung tóe, vương vãi trên cửa thành.


Trống thúc quân đã im bặt, thay vào là tiếng phèng la báo hiệu thu quân, nhưng tốp quân vừa ra chẳng còn ai mà lui nữa. Đạn đại bác vẫn bắn vào càng lúc càng rát, các hàng quân phải tản ra, tìm nơi che chắn để tránh mảnh. Trên thành, pháo binh đã đổi đến lớp thứ sáu, vẫn hết sức giữ cho các họng súng khạc đạn để cầm bước tiến của địch. Dân dõng ở phía sau đã được lệnh tiến lên, họ nhanh tay thoăn thoắt chuyển đạn gang đến cho pháo binh kịp nạp vào súng.


Đội hậu cần lo nấu cơm, nắm thành từng nắm nhỏ, chuyển lên phía trước. Nhưng phần lớn không ai nuốt được cơm. Giữa cái sống và cái chết, các nhu cầu hầu như tê liệt. Khói súng ám đen khắp nơi, dân binh liên tục tải thương ra hậu đồn. Họ khiêng cáng đi, dẫm lên mặt đất lầy nhầy máu.


Lúc này trời đã tối mịt. Súng hai bên vẫn rền trời không nghỉ.


Đêm đó trong cái đô thị nhỏ nhoi mới gầy lên ở Sài Gòn, những người Việt thức trắng, trao tráo mắt nhìn về phía Kỳ Hòa. Mỗi người mỗi tâm trạng khác hẳn nhau. Trong những người ở Sài Gòn ấy, có Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trường Tộ. Và có cả Nguyễn Chí, hơn một năm nay vẫn ở lại trong Nam.


Ai cũng biết, nếu Kỳ Hòa thắng, thì ngày mai Sài Gòn có thể sẽ bị càn quét, người Pháp sẽ rút xuống tàu, và máu dân đạo sẽ tiếp tục đổ ở đây.


Bằng trái lại, người Pháp thắng, thì Kỳ Hòa sẽ thành bình địa và lục tỉnh phía sau sớm muộn cũng thuộc về người Pháp.


Dù bên nào thắng, đối với những người này cũng đều rất đau xót!


∞∞∞∞


Rạng ngày Tỵ, bên quân Nam, tiếng súng thần công thưa dần. Số pháo thủ chết và bị thương đã không đếm xuể. Súng kéo xuống thấp thì tầm đạn cũng ngắn lại. Đạn gang đã dự trữ hàng chục vạn viên, bắn mãi cũng vơi dần. Đại bác của Tây chỉ có 18 cỗ nhưng khạc đạn tưởng như vô tận, mỗi hòn đạn sát thương bằng vài chục lần hòn đạn gang của quân Nam.


Cánh quân của Tuần phủ Đỗ Quang từ lỵ sở Gia Định kéo sang tiếp ứng cũng bị đại bác cản đường, không sao tiếp cận được. Đến giờ Thân, mặt trời chênh chếch hướng Tây, quân Pháp đã áp sát chân thành, toàn bộ súng thần công của quân Nam ở mặt trước đã im tiếng.


Lính Tây ồ ạt chạy qua cầu vượt, rồi nhanh chóng tản ra hai bên tả hữu, nép mình dưới chiến lũy. Trên thành, quân Nam đổ dầu sôi xuống, diệt được một vài tốp. Những tốp sau dùng súng trường bắn tỉa, lính Nam phải rút xuống khỏi mặt thành. Pháo hiệu được bắn lên: đó là lệnh thu quân vào một thành nhỏ ở phía sau đại đồn. Đây là đồn dành để cố thủ, có tường rất dày, cửa sau dẫn ra một con đường nhỏ chạy hút vào giữa hai bãi sình lầy.


“Rút!” Mặt Nguyễn Tri Phương đanh lại, ông nghiến răng thốt lên một tiếng. Tất cả quân tướng ba vạn người, giờ còn lại không tới ba ngàn. Sau gần hai ngày ai nấy phờ phạc và ám đen khói súng.


“Nghe đây: Quân triều đình chia từng tốp nhỏ, theo hướng Tân Bình mà đi, qua khỏi vòng truy cản của địch rồi tự tìm về tập kết tại Biên Hòa. Lính nghĩa dũng của các đầu mục thì rút về lục tỉnh, trở lại căn cứ cũ chờ điều động.” Nguyễn Tri Phương ra lệnh chót.


Cửa sau đồn mở ra, trời đã tối, đoàn quân nhanh chóng tản mác vào các lùm bụi. Đội dân dõng của Võ Duy Dương đi tập hậu. Quân Pháp thấy trời tối, địa hình xa lạ, văng vẳng trên sông có tiếng cá sấu kêu… Chúng không dám đuổi theo, chỉ dùng đại bác bắn cản đường.


Phò mã Thuật đi gần Trương Định, trời tối, đất lại lầy lội, mỗi lần đặt chân xuống là không sao nhấc lên được. Trương Định gắt:


- Cứ đi sau lưng tôi, tôi đặt chân vào đâu thì ông đặt chân vào đó, không lại lún sình mà chết bây giờ.


Lội bùn được một quãng thì gặp con kênh chắn đường, ai nấy thầm than trời.


Bỗng từ trong bóng đêm có tiếng người:


- Mời các quan tướng lên thuyền!


Mấy chục chiếc thuyền nan đang từ từ áp sát bờ. Thì ra dân quanh vùng Thị Nghè biết đồn thất thủ, rủ nhau chèo thuyền ra đón tàn binh.


Đoàn người không kịp hỏi han, vội vã lên thuyền. Vừa chòng chành rời bến thì “Ầm”, một quả đại bác rơi trúng lòng kênh, sức nổ khiến chiếc thuyền của Phò mã Thuật gãy đôi, chìm lỉm.


Một mảnh đạn lớn văng sang thuyền bên cạnh, trúng vào đùi Nguyễn Tri Phương. Máu phụt ra, ông nghiến răng lấy tay bịt chặt vết thương.


Trương Định nhìn thấy thân hình đẫm máu của phò mã Thuật chìm xuống mép nước, ông chồm tới định nhảy xuống nhưng bị nhiều bàn tay kéo lại. Những lằn đạn đang chiu chíu vút tới. Người chèo thuyền đã cúi rạp, hối hả quẫy bơi chèo lướt đi.


Đêm tối mù trên dòng kênh mênh mông. Mặt nước màu đen sánh đặc, như một vực chết.


Xa xa là đại đồn còn bốc khói trong đêm. Hai chiến lũy dài kiên cố nay chỉ còn là những đoạn thành tan hoang vỡ nát. Hai cánh tay của chàng dũng sĩ dang ra bảo vệ Nam kỳ lục tỉnh đã bị chém lìa!


Mấy hôm sau, trong tòa nhà của Bộ chỉ huy quân Pháp, tiếng nhạc vang tưng bừng, tiếng sâm banh nổ mừng chiến thắng. Tiếng ca hát rộn rã vang đến tận nhà thờ Chợ Quán ở cách đó không xa.


Nguyễn Chí và Nguyễn Trường Tộ đứng cạnh nhau bên cửa sổ, cùng nhìn về thành cũ Kỳ Hòa. Giờ đây đại đồn đã trở thành một nấm mộ khổng lồ im lặng.


Chí nghẹn giọng:


- Huynh có nghe tiếng quạ kêu không? Chúng đang…


Nguyễn Trường Tộ cúi đầu, đưa tay làm dấu thánh.


- Các ông Pétrus Ký, Paulus Của có phản ứng gì không? Có đi dự tiệc mừng với bọn Phú Lang Sa không? - Chí hỏi.


Nguyễn Trường Tộ không trả lời.


Chí cay đắng:


- Một ông đang là thầy thông ngôn, một ông đang là đốc phủ sứ. Làm sao họ khỏi cụng ly với quan Tây.


Trường Tộ kéo Nguyễn Chí ngồi xuống cạnh mình:


- Chí nghe tôi nói đây. Máu người Việt đổ ra như suối, tôi tin là người Việt không ai khỏi đau xót. Nhưng kết cục này không bất ngờ!


- Việc Kỳ Hòa thất thủ? Huynh dựa vào đâu để nói là không bất ngờ?


- Dựa vào đại thế của thiên hạ. Khi xây Kỳ Hòa, tướng Phương chỉ thấy có tương quan giữa quân số và vũ khí hai bên. Ông ấy lấy đồn lũy chắc chắn và quân số áp đảo để bù vào nhược điểm về vũ khí. Nhưng khi nhìn trên đại thế, thì sẽ thấy ta không phải chỉ thua người Pháp về vũ khí.


- Vậy thực sự ta thua họ về cái gì?


- Chúng ta thua họ gần hai trăm năm phát triển kinh tế công nghiệp.


 - Hai trăm năm? Vậy theo huynh, ta sẽ phải mất bao nhiêu năm để giải quyết cuộc chiến này?


Nguyễn Trường Tộ bặm môi. Trán chàng hằn những đường nhăn rất sâu - những đường nhăn trên vầng trán một người mới có ba mươi tuổi:


- Câu hỏi của hiền đệ chạm vào tâm khảm của ta. Bao nhiêu năm, cái đó còn phụ thuộc vào cách triều đình ta, dân ta hành động. Nếu đi con đường đúng, có thể mất mười năm, hai mươi năm. Nếu không, có thể là phải mất cả trăm năm… Hay là không bao giờ. Bởi thế, ta cho rằng việc công kích hay lên án ai, hãy còn quá sớm và không cần thiết! Việc của chúng ta giờ đây là chuẩn bị cho sự thay đổi!


Chí lặng thinh. Chàng nghĩ thầm: Ông Ký, ông Của đều đã bắt tay làm việc cho Tây. Còn Nguyễn Trường Tộ?


Như hiểu được ý nghĩ của Nguyễn Chí, Trường Tộ nói:


 -  Ông Ký, ông Của và tôi, cả ba chúng tôi đều đã được du học ở Penang. Từ Penang, chúng tôi đã thấy thế giới. Một khi đã thấy sự thật, thì không thể bưng mắt nói rằng mình không thấy. Chúng tôi chỉ có thể giúp đất nước theo cách mà chúng tôi cho là hữu hiệu!


- Giúp làm sao, khi các ông ấy đã đi với Tây. Tay đã nhúng chàm, thì có nói gì đi nữa, ai sẽ tin mình?


Nguyễn Trường Tộ cười bi đát:


- Đệ tưởng đệ không nhúng chàm sao? Trong con mắt của triều đình, thì đâu cần phải cộng tác với Tây mới có chuyện. Với họ, tất cả dân đạo đều là Tây hết, lẽ nào đệ không biết?


Nguyễn Chí không nói nữa. Chàng ủ rũ cúi đầu, nhớ đến cha tinh thần của mình đang bị giam cầm.


(xem tiếp số báo tới/Văn Hóa Online)
21 Tháng Mười 2024(Xem: 460)