Trần Thùy Mai: Công Chúa Đồng Xuân. Từ chương 21 - 30 (Hết Tập Thượng)

17 Tháng Mười Hai 20247:05 SA(Xem: 204)

VĂN HÓA ONLINE - VĂN HỌC NGHỆ THUẬT - THỨ BA 17 DEC 2024


Trần Thùy Mai: Công Chúa Đồng Xuân. Từ chương 21 - 30 (Hết Tập Thượng)


Lời tác giả

image023

Thời kỳ tự chủ của triều Nguyễn mở ra và đóng lại với hai vụ án rúng động:  vụ đầu triều với cái án của Hoàng tôn Mỹ Đường và mẹ ruột là Vương phi họ Tống; vụ thứ hai xảy ra vào buổi kết thúc, chính là vụ án của Công chúa Đồng Xuân.


Cả hai án đều là tội  tình dục, và đều dính líu với những mưu đồ chính trị. Cả hai đều được xét xử rất vội dưới lưỡi kiếm quyền lực, không qua quy trình pháp lý đương thời. Tháng năm qua, hình hài xương cốt đã thành tro bụi, nhưng sự thật ở đâu sẽ mãi mãi là ẩn số.


Đáng lưu ý ở chỗ: Vụ án Đồng Xuân, trong mối liên hệ với ba vị phụ chính đầu triều lúc bấy giờ - Hồng Hưu, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết - là gút thắt cuối cùng của cuộc tương tranh giữa hai phái chủ chiến và chủ hòa, đã tác động sâu sắc đến chính trường triều Nguyễn trong suốt hai mươi bảy năm, từ 1858 đến 1885. Không phải chỉ tương tranh, phải nói rằng đấy là cả một cuộc tương tàn, phá hủy trầm trọng sức đề kháng của dân tộc trước cuộc tấn công xâm lăng của thực dân Pháp.


Vụ án Đồng Xuân cũng chính là đêm trước của biến cố Thất thủ kinh đô, một trong những chấn thương lớn để lại ám ảnh sâu sắc trong đời sống văn hóa Việt. Hằng năm ở Cố đô Huế, cứ vào ngày hai mươi ba tháng năm âm lịch, dân chúng vẫn còn bày những mâm cỗ cúng dọc hai bên đường, tưởng nhớ những người đã chết trong cái ngày lịch sử ấy. Cùng với hồi niệm quá khứ, ta không thể lảng tránh một câu hỏi: Tại sao trong suốt một phần tư thế kỷ, khi đối mặt với ngoại xâm, sĩ phu và dân chúng Việt không thể đoàn kết, mà lại thù hằn nhau, giết chóc nhau, tự làm suy yếu chính mình? Ai là người làm mất nước: vua Tự Đức, triều đình Nguyễn, hay chính là những điều bất cập tiềm tàng trong dân tộc tính Việt? Những bất cập ấy, đến nay có còn không?


Xin  quay lại với cuộc đời công chúa Đồng Xuân. Trong xã hội phương Đông, không có gì hủy hoại sự nghiệp của một người nhanh chóng hơn một vụ tai tiếng về tình dục. Bởi vậy cũng như với vụ Mỹ Đường (đã được nói tới trong tiểu thuyết Từ Dụ Thái hậu), những tội nhân trong án Đồng Xuân rất có thể chỉ là nạn nhân, là những “con dê tế thần” trong một cơn bão quá tàn khốc của lịch sử.


Họ oan hay không oan? Họ đáng tội phải chịu nhục, chịu chết, hay họ chỉ là những người thất thế oan khiên? Thực sự nếu cho họ một phiên tòa “phúc thẩm” vào đời nay, tất phải thừa nhận đã có những yếu tố cưỡng ép và khuất tất trong việc xét xử. Trong hoàn cảnh ấy, nàng công chúa tội nghiệp cũng rất xứng đáng được hưởng một quy chế chính đáng của nền tư pháp: quyền được suy đoán vô tội.


Cựu Kim Sơn, ngày 8 tháng 3 năm 2022


Trần Thùy Mai


Chương 21


Nàng Ngọc Sinh


Đinh Đạo, trong thời gian ấy đang rơi vào tâm trạng vô cùng buồn phiền.


Hai mươi mốt tuổi, lẽ ra đấy là cái tuổi cường tráng hạnh phúc nhất của một chàng trai trẻ. Đinh Đạo thừa hưởng vẻ đẹp ngoại hình của mẹ, dáng người dong dỏng cao, mày thanh, mắt sáng, miệng cười tươi như hoa. Duy có ánh mắt lúc nào cũng đượm buồn. Cái nét buồn u uẩn ấy đã đeo đẳng trên gương mặt chàng từ năm mười tuổi, khi cha là Hồng Bảo thắt cổ chết trong ngục.


Vì can tội làm phản, thi thể của Hồng Bảo được hình ngục chôn cất ở một địa điểm bí mật. Mãi đến mười năm sau, Viện Cơ mật đánh giá là tình hình đã yên, Tôn Nhân phủ  mới cải táng vào phần đất mộ của họ ngoại. Từ một năm nay, mẹ con chàng mới được viếng thăm.


Hôm nay là ngày rằm, từ mờ sáng Đinh Đạo đã dậy, tự pha trà uống một mình ngoài hiên. Mẹ chàng chống gậy bước ra, quờ quạng nắm tay con:


- Hôm nay con có đi thăm cha con, thì cho mẹ đi với.


- Thôi, đường sá xa xôi, mẹ đi làm chi? Việc hương khói đã có con đây rồi. - Đinh Đạo gạt đi.


Mới chưa đầy bốn mươi tuổi nhưng Trần Thị Thụy, vợ góa của Hồng Bảo đã lòa, vì đã khóc trong hơn mười năm. Khóc vì giận chồng, khóc vì thương con, rồi đến những lần khóc tủi vì phải sống chung với đứa con dâu ương bướng. Mặc dù rất ao ước được đi thăm mộ chồng, nhưng thấy con trai nhăn nhó gạt đi, bà cũng không dám nài thêm. Lẳng lặng, bà quay vào trong, đến bên bàn thờ sờ soạng tìm gói lễ vật.


- Mạ ưng chi? Răng không chịu ngồi cho yên, đụng mô đổ nấy mà cứ ưa phá, mệt quá! - Vợ Đinh Đạo là Võ Thị bước ra, thấy vậy gắt lên.


- Mạ ưng sắp soạn lễ vật cho chồng con đem lên cúng mộ. - Người mẹ chồng nhướng đôi mắt mờ đục, phân trần.


- Ôi chào! Đã lo xong hết cả rồi! Mạ chịu khó ngồi yên cho con cháu nhờ!


Võ Thị hất tay mẹ chồng ra, rồi cầm lấy gói hương buộc vào gói bánh in, đem ra đặt cái cạch trước mặt chồng.


Đinh Đạo bực mình, cảm thấy thương mẹ nhưng chỉ ngồi yên không nói. Võ Thị là con một thầy đồ, được Tôn Nhân phủ kén làm vợ chàng đã ba năm nay. Khi mới về làm dâu, nàng cũng thùy mị lễ phép, cũng biết điều ăn ở với mẹ chồng. Không hiểu sao sinh xong mấy đứa con lại đổi tính đổi nết, không kính không nhường một ai. Được cái nàng rất đảm đang và chịu khó vất vả vì con…


Đinh Đạo nhiều lần rầy la vợ nhưng tự thâm tâm chàng cũng biết, vợ mình đang dần dần chán nản vì cuộc sống tù đọng không tương lai. Nàng mới nếm mùi có bốn năm, chứ chàng đã lâu lắm rồi. Hơn mười năm qua, anh em Đinh Đạo lớn lên trong khu nhà biệt lập, được cấp lương nuôi đầy đủ, được cử thầy đến dạy học. Thỉnh thoảng nhà vua vẫn cho các hoàng thân trong Tôn Nhân phủ đến thăm hỏi. Nhưng cuộc sống của chàng dần đi vào chỗ buồn tẻ, cùn mằn. Thực sự, chàng luôn sống trong sợ hãi.


 “Thôi, tôi đi đây!” Đinh Đạo buông một câu ngắn ngủn trống không, rồi khoác tay nải, lên ngựa. Ra khỏi cổng, theo thói quen, chàng bất giác quay đầu nhìn sau nhìn trước, xem có ai bám theo không.


Như thường lệ mỗi tháng, sau khi viếng mộ, chàng ghé vào chùa Pháp Vân, ngồi trầm tư nghe kinh dưới gốc cây ngọc lan trong sân chùa. Mùi hoa thơm mát khiến chàng dễ chịu, cảm giác như thoát khỏi bao nhiêu thực tế nặng nề hàng ngày đeo bám.


 “Chàng biết không? Có chuyện này thiếp phải nói cho chàng biết!” Người thiếu nữ lại gần, có vẻ như chờ chàng đã lâu.


Nhiều lần chàng gặp thiếu nữ này ở đây. Nàng có đôi mắt đen nháy hiền lành, vóc người hơi thấp đậm, trông có vẻ mũm mĩm như trẻ con. Cô nàng rất hồn nhiên, thỉnh thoảng lại buông lời trêu đùa nghịch ngợm làm chàng thấy lòng vui vui. Ban đầu chàng chỉ nhìn xa xa, nhất định không bắt lời. Dần dần chàng thấy cô gái này thật dễ thương, dễ gần và xem ra tin được. Hai người trò chuyện đôi câu, rồi dần dần hé lộ thân thế:


 - Thiếp tên là Ngọc Sinh, con gái họ Nguyễn Đình. Mẹ con thiếp quy y chùa này, rằm mồng một nào thiếp cũng đem gạo tiền đến cúng. - Cô gái kể.


- Tại hạ thường nghe nói họ Nguyễn Đình hiện nay có bà phi trong cung, vậy có phải tiểu thư là cô em? - Đinh Đạo hỏi, vẻ đề phòng.


- Dạ không phải! Bà phi là con của Tổng đốc Nguyễn Đình Tân, quê ở Quảng Điền, Thừa Thiên. Còn nhà thiếp cũng là Nguyễn Đình nhưng quê quán ở trong Bình Định. Chẳng giấu gì, khi cha thiếp còn sống cũng làm đến chức thượng thư trong triều, nhà thiếp hồi đó cũng không thua kém gì nhà bà phi ấy đâu. Bởi vậy huynh trưởng của thiếp là Nguyễn Đình Tứ mới được kén làm phò mã của Xuân Lai công chúa đó! Nay thiếp lại được quen biết hoàng tôn, chắc huynh trưởng thiếp vui mừng lắm!


- Ấy chết, tôi có phải hoàng tử, hoàng tôn gì đâu, chỉ là thường dân, xin nàng đừng lầm.


- Hoàng tôn đừng giấu thiếp! Dạng mạo ngài khôi ngô như thế, làm sao giấu ai được? Thiếp lén hỏi sư cụ, mới biết thân thế của ngài đó!


Thì ra sư cụ cũng biết mình là ai. Đinh Đạo cảm thấy vừa lo lắng, lại vừa ấm áp trong lòng. “Tiểu thư đã biết rõ ngọn nguồn như vậy, tôi đâu dám chối. Nhưng xin chớ gọi hai tiếng hoàng tôn, không tiện đâu.” “Dạ, vậy lần sau thiếp xin giữ ý. Vậy thì... lần sau gặp lại, xin phép xưng hô bằng hai tiếng “chàng” và “thiếp” cho tiện ạ.”


Đinh Đạo từ ấy siêng năng đi chùa Pháp Vân, vẻ mặt đỡ đi nhiều phần ủ dột.


Mỗi lần gặp cũng chỉ vài lời thăm hỏi, rồi dần dần thành thân thiết. Hôm nay, nghe Ngọc Sinh nói có chuyện, Đinh Đạo nhìn quanh rồi bước theo nàng ra sau chùa, tìm một chỗ vắng khuất sau mấy tấm bia mộ rêu phủ.


 Ngọc Sinh hạ giọng thì thầm:


 - Chàng biết không? Phủ Tôn Nhân mật tâu vua xin giết chàng đó! Chàng phải cẩn thận lắm mới được!


Đinh Đạo xanh xám cả mặt:


- Làm sao bây giờ? Mà ai trong phủ Tôn Nhân lại muốn hại ta? Ta có thù oán gì với ai đâu?


Ngọc Sinh trấn an:


- Chàng đừng quá sợ! Đây chỉ là ý của Thọ Xuân công Miên Định thôi. Do Thọ Xuân công kết giao thân thiết với Hoài Đức quận công Miên Lâm, cái gì cũng bàn bạc với nhau. Mà ông này lại là anh ruột của công chúa chị dâu thiếp, hai bên phủ liền phủ sân liền sân, qua về thường xuyên, nên chị dâu thiếp mới nghe lỏm được! Số là, sau khi Hồng Tập đã bị xử tử, dư đảng của Hồng Tập muốn tôn phò chàng lên thay, nên Thọ Xuân công khuyên vua giết chàng đi cho khỏi lưu mầm loạn!


Mồ hôi tứa ra lạnh buốt trên trán Đinh Đạo. Ngọc Sinh thấy vậy, trong lòng thương xót, bất giác kéo vạt áo lên chấm mồ hôi cho chàng trai:


- Chàng đừng lo lắng! Tuy ý Thọ Xuân công như vậy, nhưng Hoàng thượng đã bác đi rồi. Thọ Xuân công viện dẫn chuyện xưa Đường Thái Tôn bên Tàu giết hết cả nhà anh trai, để giữ cho nhà Đường yên trị. Nhưng Hoàng thượng nói là tàn nhẫn quá, không làm thế được! Thiếp chỉ nói cho chàng biết bụng dạ người ta như vậy để chàng cẩn thận thôi!


Nghe Ngọc Sinh nói, Đinh Đạo dần dần trấn tĩnh lại. Những cảm xúc sợ hãi, căm thù, khinh bạc nối nhau dâng lên trong lòng. Chàng úp mặt vào đôi bàn tay, uất nghẹn.


Ngọc Sinh nhìn, nàng cảm thấy xót thương vô hạn. Ước gì nàng có thể dang tay che chắn bảo vệ cho chàng.


- Chàng cứ yên lòng, có thiếp đây, thiếp sẽ luôn nghe ngóng tin tức. Tôn Nhân phủ mà rục rịch có ý gì không tốt là thiếp sẽ báo ngay.


Đinh Đạo thờ thẫn, đau đớn:


- Cho dù có biết trước, thì thân ta như con cá đã nằm trên rọ, biết chạy đâu cho thoát?


Ngọc Sinh chảy nước mắt. Nàng thấy nỗi khổ của chàng trai này quá lớn mà đôi tay mình thì quá yếu ớt. Ước sao có được nghìn bàn tay để nâng đỡ, che chở cho một phận người hẩm hiu... “Chàng cũng là dòng dõi tiên đế, là cành vàng lá ngọc trên đời, đâu thua kém gì Hoàng thượng, sao họ ở ác với chàng thế này. Chàng đừng quá não nề, trời còn cao đất còn rộng, biết đâu có ngày thiên triền địa chuyển, mở lối thoát cho chàng!”


Đinh Đạo như được một bàn tay tiên nâng đỡ, chàng gục đầu vào lòng nàng, sức sống dần hồi trở lại trong tấm thân đã từ lâu lạnh giá.


Họ tìm được một ngôi mả vô chủ đổ nát, có bức thành vôi đủ cao để che khuất. Đinh Đạo cởi chiếc áo năm thân lót xuống đất, dìu Ngọc Sinh nằm lên. Chiếc yếm đỏ của nàng nhanh chóng bị tuột hết dải buộc, bị bóc lên, để lộ đôi vú thanh tân đẹp như ngọc. Đinh Đạo vùi mặt vào đó, rồi hai thân thể quấn riết lấy nhau. Những bông cỏ tranh trắng xóa chung quanh cứ dập dồn, nghiêng ngả. Ngọc Sinh thả lỏng toàn thân, mê man…


Từ đó mỗi lần lên Cư Chánh, lần nào Đinh Đạo và Ngọc Sinh cũng gặp nhau trong khu mộ cổ. “Thương nhau chẳng lọ chiếu giường/ Dẫu rằng tàu lá che sương cũng tình.” Cảm xúc dữ dội này hình như không đơn thuần là ham muốn nam nữ. Đấy còn là phản ứng bám víu vào sự sống để vượt qua ám ảnh về cái chết.


Tết Nguyên tiêu năm ngoái, đến khi Ngọc Sinh báo tin có thai, Đinh Đạo mới điếng người vì sợ.


- Làm sao bây giờ? Cái số ta vốn đã bị đày đọa, lẽ ra không nên gây lụy cho nàng. Giờ mà đón nàng về một nhà, thì nàng cũng phải chịu giam lỏng với ta. Mà không đón về, thì tai tiếng tủi thân cho nàng lắm, sống yên với đời sao được ?


Ngọc Sinh rơm rớm nước mắt. Nhưng nàng mỉm cười rất can cường:


- Chàng đừng lo! Dám làm dám chịu, từ khi thương chàng, thiếp đã sớm nghĩ trước rồi. Việc này, thiếp đã bạo gan thưa trình với huynh trưởng và chị dâu công chúa của thiếp. Tuy có bị đánh mắng, nhưng rồi ai cũng thương; Anh chị thiếp đã tính sẽ nuôi giấu thiếp trong phủ, chờ thiếp sinh xong, công chúa sẽ nhận làm con. Nếu mai kia trời xoay mặt lại, khi thời cơ đến, thì con sẽ nhận cha, vợ sẽ nhận chồng!


Đinh Đạo mừng rỡ:


- Nếu vậy thật muôn phần đội ơn nàng, muôn phần đội ơn công chúa và phò mã. Vậy là con ta được lớn lên trong tự do, không phải tù hãm như cha nó!


- Chàng yên tâm, một giọt máu hoàng tộc này, thiếp sẽ coi như vàng như ngọc của đời thiếp!


Mong muốn là vậy, thu xếp ổn thỏa như vậy, nhưng sự thể chẳng được như trông mong! Ngọc Sinh đẻ con gái, đã là một điều khiến phò mã và công chúa thất vọng! Tệ hơn nữa, nha Đại Lý Tự đã biết hết mọi chuyện. Kết quả là công chúa Xuân Lai bị cắt hai năm lương, phò mã bị phạt đánh hai mươi trượng. Ngọc Sinh bị kết tội “hòa gian” - tức là tội trai gái ăn nằm với nhau mà không cheo cưới - tuy miễn cho phạt vạ nhưng theo lệ phải đổi tên xấu, xem như một cách lăng nhục. Từ ấy nàng bị gọi bằng cái tên cục mịch: Nguyễn Thị Đẻ.


Thị Đẻ và con bị buộc phải dọn về ở chung với Đinh Đạo trong khu nhà bị quản thúc. Vậy là hai người đàn bà bị dúi vào trong cùng một ổ, giữa cuộc sống đầy bế tắc. Tình yêu từ chỗ cao vời, bỗng trở nên thê thảm như con chim bị cắt cụt đôi cánh, lê lết trên mặt đất.


Cuộc sống của Đinh Đạo vừa hửng vài tia sáng hạnh phúc, bỗng lại chìm lỉm trong tối tăm, còn tệ hại hơn khi trước. Chàng uất hận nghĩ thầm: “Bọn Đại Lý Tự khốn nạn, thì ra cái lúc mình ăn mình ngủ mình đụ mình ỉa, lúc nào chúng nó cũng theo rình không tha!”


Mỗi ngày rằm, Đinh Đạo viếng mộ cha xong, vẫn đến tìm cảm giác giải thoát trong sân chùa yên tĩnh. Chàng cố nán ngồi lâu, để đỡ phải đối diện bầu không khí ngột ngạt trong gia đình. Mẹ chồng con dâu đã đủ chán, bây giờ lại thêm vợ cả vợ lẽ, suốt ngày xầm xịch nhau, nhất là cái miệng đay nghiến của Võ Thị không một phút để cho chàng được yên. Ước chi cứ mãi được ngồi đây, một mình lặng lẽ trầm ngâm dưới gốc ngọc lan, trong tiếng kinh và mùi nhang trầm...


Bỗng có người đặt nhẹ bàn tay lên vai chàng. Đinh Đạo ngước nhìn: trụ trì chùa Pháp Vân, sư ông Trần Văn Quý.


- Hoàng tôn! Bần tăng xin được bẩm với ngài một việc...


Bỡ ngỡ, Đinh Đạo để mặc cho nhà sư dẫn mình vào chùa, ra sau hậu liêu vắng vẻ.


Sư ông mời chàng ngồi lên sập, rồi quỳ sụp xuống.


Đinh Đạo hốt hoảng phác một cử chỉ ngăn lại. Nhưng nhà sư vẫn cung kính chắp tay, lạy đủ ba lạy:


- Xin ngài đừng khiêm nhượng, chính ngài mới thực là người thừa kế ngôi báu của tiên đế!


Hơn một canh giờ sau, Đinh Đạo mới ra về. Sư Quý không quên nhét vào tay chàng mấy thang thuốc, làm như chàng vào đây là để xin khám bệnh. Lâu nay sư ông chùa Pháp Vân đã nổi tiếng là giỏi về y thuật.


Hai hôm sau, tâm trí Đinh Đạo vẫn còn vang vang những điều sư Quý nói riêng hôm ấy. Chàng đột nhiên biếng ăn, biếng nói, cả ngày ngồi lặng lẽ suy tư.


Thị Đẻ - tức Ngọc Sinh - thấy chồng đổi khác, nàng lo lắng, muốn tới hỏi han an ủi, nhưng chờ hoài không thấy Võ Thị ra vườn. Có mặt vợ cả, nàng không dám lại gần chồng…


Chợt một toán người rầm rầm rộ rộ kéo vào, tuyên đọc công văn:


- Lệnh trên truyền Đinh Đạo cùng toàn gia, ngay hôm nay lập tức thu dọn, xe của phủ Thừa Thiên sẽ đến đón vào khu nhà mới!


Đinh Đạo lắp bắp:


- Khu nhà mới... Các ông muốn chúng tôi đi đâu?


- Đến lúc đó sẽ biết! - Lũ công sai trả lời cộc lốc.


Đinh Đạo và tất cả vợ con được dẫn giải ra khỏi chỗ ẩn cư, dời tới một khu nhà xa lạ. Cố nhón chân nhìn ra ngoài bức tường bao, Đạo thấy trại quân lớp trong lớp ngoài, lính đi tuần qua lại liên tiếp. Phía xa xa, bên kia những trại lính, là một dãy dài những lớp nhà kiên cố xám xịt.


Đấy chính là nhà ngục phủ Thừa Thiên!


Đinh Đạo thờ thẫn nhìn quanh, mắt vằn lên những tia máu đỏ.


“Vậy là trước kia bị giam lỏng, còn bây giờ thì bị giam hẳn. Chắc chúng đã thấy ta nói chuyện riêng với sư Quý. Nói gì chúng không thể nghe, nhưng chắc chúng đã nghi. Khốn nạn!”


 Đinh Đạo lẩm bẩm, chàng cũng không biết mình đang nguyền rủa bọn Đại Lý Tự, hay nguyền rủa chính số phận mình.


∞∞∞∞


Trong lúc ấy, Gia Phúc đi chơi vừa quay về dinh. Nàng xuống kiệu, đi thẳng vào trong tìm chồng, vẻ mặt vô cùng tức tối. Thấy Nguyễn Lâm đang nằm võng đọc binh thư, nàng túm tay áo kéo chàng dậy:


- Chàng ơi nghe thiếp nói, chuyện động trời đây này, có ai ngờ tới?


- Chuyện gì? Đối với nàng chuyện gì mà chẳng động trời. Cả đời nàng ở trong cung, bây giờ ra ngoài thấy cái gì nàng cũng hốt hoảng lên!


- Ai bảo chàng là thiếp cả đời ở trong cung, không biết cái gì? Từ nhỏ thiếp trốn ra ngoài đi chơi với các anh Hồng Hưu, Hồng Dật hoài hoài à, chuyện quái gì thiếp cũng biết.


- Hư hỏng vậy còn khoe ra nữa... - Lâm trừng mắt, rồi thấy Gia Phúc phụng phịu chàng vội kéo vợ vào lòng, dịu giọng - Nhưng mà thôi, nàng hư hay ngoan ta cũng vẫn yêu nàng rất nhiều!


Thường thì Gia Phúc sẽ rúc vào lòng chồng, nhưng hôm nay nàng đẩy ra, sôi nổi:


- Khoan khoan, nghe thiếp nói đây đã! Thiếp nghe nói Thể Cúc bồng con về phủ Tùng Thiện, nên hôm nay cho quân khiêng kiệu đến thăm. Ai ngờ đâu, hắn về không phải là về thăm, mà là bị nhà chồng đuổi!


- Cái gì? - Nguyễn Lâm không tin ở tai mình.


- Hắn bị nhà chồng đuổi! Thiếp nghe phu nhân Tùng Thiện kể rõ ràng! Bước vào thăm thì thấy hắn nằm trên giường như cọng lá héo, hỏi gì cũng không hé răng!


- Hôm trước ta xuống chơi nhà họ Đoàn, thấy cả nhà hòa thuận vui vẻ lắm lắm... Sao lại có chuyện kỳ vậy.


- Phu nhân có hỏi con Hồng, thị nữ đi theo hầu Thể Cúc đó! Con Hồng kể, mấy tháng nay Đoàn Trưng và mấy đứa em hắn đều đổ đốn, tụ tập với bè lũ kéo nhau đi chơi bời cả ngày lẫn đêm. Đi chán về, lại bày đặt sinh sự chê bai mắng mỏ vợ, cứ chửi Thể Cúc là hầu hạ mẹ chồng không chu đáo. Ác thế! Cúc đã gắng nhẫn nhịn, nhưng cả lũ anh em hắn cứ xúm nhau nhất quyết đuổi trả về phủ!


- Chuyện này thật khó tin. Đoàn huynh là con cả, nếu thực sự đuổi vợ tất phải giữ con lại, chứ sao lại cho bồng thằng nhỏ đi? Thằng cu đó là đích tôn của dòng họ Đoàn mà?


- Chàng không biết đó, cả lũ nhà Trưng đòi bắt con, ép Cúc để thằng cu lại, giao cho em gái hắn nuôi! Cúc đòi đâm cổ chết ngay, nên tụi hắn mới chịu để cho Cúc bồng đi, nhưng giao hẹn chỉ một năm là đòi con về! Rẽ mẹ lìa con, ôi chao là ác!


- Ta vẫn thấy nghi hoặc quá! Ta giao du với Đoàn huynh lâu rồi, huynh ấy đâu có phải người dễ dãi với chuyện rượu chè, gái gú đâu, không thể có chuyện mê chơi đến ruồng rẫy vợ con... Để ta về làng Chuồn hỏi xem sao, chắc chắn có chuyện chi khuất lấp đây!


- Chàng chẳng nên lui tới với nhà đó. Thiếp ghét cả cái bọn càn rỡ ấy. Đồ nhà quê, phúc bảy đời mới được làm sui với công phủ. Đã không biết vinh hạnh, lại còn láo! Mà Thể Cúc cũng hiền quá hóa dại, họ ở ác như vậy mà không dám mở miệng than phiền nửa tiếng!


Gia Phúc đâu biết, Thể Cúc lặng im như người câm, là vì nàng đang bối rối cực độ. Một hôm ghé mắt nhìn qua khe cửa, nàng thấy Đoàn Trưng ngồi trong buồng kín, chăm chú viết bốn chữ đen trên một lá cờ lớn màu đỏ: “Ngũ đại hoàng tôn”. Ngũ đại hoàng tôn thì ai cũng biết là Đinh Đạo rồi, còn tại sao lại viết danh hiệu của Đạo lên lá cờ thì Thể Cúc cũng đủ thông minh để hiểu...


Trong lòng nàng kinh hãi, nhưng không dám lộ ra. Bị xua đuổi oan ức, nàng cũng chẳng oán, bởi biết thừa lý do: mình là con gái nhà vương công, nên Đoàn Trưng phải quyết dứt tình để anh em đồng chí yên tâm là bí mật được bảo toàn tuyệt đối...


Họ đâu có ngờ: nàng đã biết hết rồi!


Có nên nói cho cha mẹ mình biết việc tày trời này không? Thể Cúc trăn trở suốt mấy hôm vì câu hỏi trọng đại, đến nỗi mất ngủ và mất cả sữa. Phu nhân Tùng Thiện phải cho người về phủ Định Viễn Công tận dưới Vỹ Dạ, mua mấy hộp sữa bò của người Tây dương cho thằng bé bú tạm.


Nhìn con khóc ngằn ngặt đòi vú mẹ, Thể Cúc nhớ lại lúc bước chân ra, nàng thoáng thấy chồng quay mặt đi, che giấu đôi mắt đỏ au. Nàng nghẹn ngào, quặn thắt: mình đau một, chắc chàng phải đau đến mười.


Thôi, đành lòng nhắm mắt, xem như không thấy, không nghe, không biết! Gái đã lấy chồng, thì trung thành tuyệt đối với chồng! Nghĩ vậy nàng gắng gượng ngồi dậy, bồng con vào lòng ru dỗ. Và tiếp tục giữ hoàn toàn bí mật...


Đó cũng là lúc ở làng Chuồn, anh em nhà họ Đoàn đang rà lại lần cuối cùng kế hoạch khởi nghĩa. Tất cả đã được sắp đặt kỹ đến từng chi tiết, giờ chỉ còn một việc cuối: xử trí với Nguyễn Lâm.


Đoàn Trưng đã cân nhắc việc này từ trước.


- Lâm là người ngay thẳng, khí khái, trọng nghĩa! Tuy vậy tính hắn nông nổi bộc trực, không thể chia sẻ bí mật được. Đáng tiếc vì hắn là con đại tướng Nguyễn Tri Phương, có ảnh hưởng đến nhiều vị cầm quân ở kinh thành. Nếu hắn cùng ta khởi nghĩa, thì tất cả quân sĩ ở kinh đô sẽ theo ta hết. Sau này khi ta nắm đại quyền rồi, ngay tướng Phương ở miền Bắc và thủ hạ của ông ở trong Nam cũng không dám chống lại!


Tư Trực bàn:


- Có Lâm thì lợi vô vàn, nhưng lỡ hắn không theo, hoặc làm lộ ra, thì hại cũng vô vàn. Theo đệ, có một cách. Ta sẽ thu phục Lâm, nhưng chỉ làm việc này vào phút cuối, khi cuộc nổi dậy đang nổ ra. Hắn theo ta thì tốt, mà không theo đi nữa cũng không ảnh hưởng gì đến đại cuộc.


- Hay lắm! Và người lãnh phần việc thu phục Lâm sẽ là...


Hai anh em nhìn nhau, cả hai đều nghĩ đến Đoàn Châu.


Chương 22


Chữ trung, chữ nghĩa


- Cái gì? Em nói sao? - Nguyễn Lâm đứng bật dậy, trừng mắt - Như vậy tức là làm giặc, em biết không?


Đoàn Châu thụt lùi một bước, bất giác đặt tay lên ngực áo bên trái. Khi giao nhiệm vụ, Tư Trực đã đưa cho em gái con dao lá liễu sắc ngót. “Nếu hắn thuận theo thì thật là Trời giúp ta. Còn nhược bằng hắn không chịu, thì em biết phải làm gì rồi đấy, giết ngay lập tức!”


- Có cách nào khác không? - Đoàn Châu hỏi.


- Không. Anh cũng biết là tàn nhẫn. Nhưng làm việc lớn không thể không nhẫn tâm. Bởi đây là tính mạng của cả nhà ta, của anh em trong nghĩa hội. Hơn vậy nữa, là vận mệnh của đất nước sau này.


Đoàn Châu gật đầu, nhét con dao vào túi áo may giấu trong ngực.


Bây giờ, trước mặt nàng, Nguyễn Lâm đang sừng sộ:


- Nhà ta dòng dõi trung thần, mấy đời phò vua giúp nước, không bao giờ có việc làm phản nhơ nhuốc như vậy!


- Công tử lầm rồi, cái người gọi là vua đó hèn với giặc, ác với dân, đâu xứng ngôi vua. Ngôi vua vốn là của Ngũ đại Hoàng tôn Ưng Đạo, đấy mới là cháu đích tôn của tiên đế!


Nguyễn Lâm chỉ mặt Châu:


- Em không được nói càn. Ai đích tôn ai trưởng nam ta không cần biết. Ta chỉ biết tiên đế truyền ngôi cho đương kim hoàng thượng, lời di huấn đó rõ ràng, chính cha ta là một trong bốn người chứng kiến. - Chàng nghiêm mặt, đanh thép - Tôi trung không thờ hai chúa, ngươi chớ có nhiều lời. Lần này ta tha cho, lần sau nếu còn nói chuyện càn quấy, chớ có trách ta!


Nghe Lâm đổi cách xưng hô, biết là Lâm từ nay đã tuyệt tình, Đoàn Châu nghiến răng, quyết định rất nhanh. Lâm vừa quay lưng, nàng rút dao...


Nhưng lòng lành bỗng dấy lên, tay Châu bất giác khựng lại.


Nhờ một phút lưỡng lự ấy mà Nguyễn Lâm đã kịp ra đến ngoài sân, lên ngựa hối hả phóng đi.


Đoàn Châu sực tỉnh, từ từ buông rơi con dao. Nghe tiếng mẹ gọi, nàng vội chạy vào.


Đoàn mẫu sờ soạng nắm tay con gái:


- Mấy thằng anh con đi mô rồi?


Châu ngồi xuống, cố trấn tĩnh. Giờ này, các anh của nàng cùng với đoàn quân nổi dậy đang trên đường kéo về hoàng thành.


∞∞∞∞


Nguyễn Lâm cho ngựa phi nước đại, chốc lát đã đến cánh đồng An Cựu. Chàng định chạy thẳng đến phủ Thừa Thiên báo động. Quan phủ phải biết để lo dập tắt âm mưu phản loạn, không thì nguy hiểm biết chừng nào! Chợt chàng sực nhớ: Đến phủ đường cáo quan, tức chính là đi tố giác bạn mình.


“Đoàn Trưng chủ mưu việc này, nếu bị ta phát giác, chắc chắn cả nhà huynh ấy không thoát tội lăng trì! Dù sao Đoàn huynh với ta cũng là chỗ giao kết thâm tình. Ta nỡ nào ăn ở bất nghĩa, đẩy huynh ấy vào chỗ chết. Mà không nói ra, đồng lõa với phản nghịch, thì ta là kẻ bất trung, không đáng sống trên đời... Trung với nghĩa đôi đường, biết tính sao đây?” Lâm bất giác lỏng tay cương, vừa đi vừa lưỡng lự nghĩ tới nghĩ lui.


Con ngựa cứ túc tắc đi nước kiệu dọc theo bờ Nam sông Hương, theo đường quen  đến bến thuyền sang sông để về thành nội.


Chợt một đoàn ước cả ngàn người ào ào từ ngả Nam Giao tràn xuống. Dưới ánh đuốc, người nào người ấy tay cầm chày giã vôi, rõ là dân phu từ công trường xây lăng Vạn Niên đổ về. Họ chạy ào ào như một biển sóng. Trên sông, thuyền chài từ cồn Hến đang kéo lên, chuẩn bị đưa đoàn quân nổi dậy sang sông.


Lâm giật mình, nhớ lại lời Đoàn Châu nói về việc nổi dậy. Thì ra việc ấy sẽ xảy ra ngay đêm nay!


Chỉ còn một đoạn ngắn nữa, quân nổi loạn sẽ tràn vào kinh thành!


Lâm nghiến răng nhủ thầm: “Được, vì cái nghĩa với Đoàn huynh, ta không báo cho phủ Thừa Thiên. Nhưng tự ta, ta sẽ đi cứu Hoàng thượng!”


Chàng lập tức thúc ngựa lao xuống sông, để con ngựa quậy bốn vó bơi nhanh qua bên kia bờ. Hối hả, chàng phóng một mạch vào hoàng thành, đến trước cửa Hiển Nhơn. Phải làm sao vào cung ngay, trước khi đám dân phu cuồng loạn kéo tới.


- Ta cần gặp đội trưởng cấm quân Hồ Oai! - Lâm gọi to.


Tên lính canh không nhận ra phò mã, hắn nhìn Nguyễn Lâm từ đầu đến chân:


- Có việc chi? Chui từ mô ra mà ướt chẹp nhẹp rứa?


- Việc rất gấp, mau mau vào mời Hồ Oai ra cho ta gặp!


- Ai tới đây cũng kêu gấp gấp hết... Ui chao, chú quá xui, ông Đội mới hết phiên trực, vừa về nhà tức thì!


Hồ Oai trước kia đi lính, lúc ở Quảng Nam từng chiến đấu dưới quyền Nguyễn Tri Phương, được tướng Phương xem là thân tín. Bây giờ Oai là đội trưởng cấm vệ điện Càn Thành. Tên lính nói chưa dứt lời, Lâm thúc ngựa chạy đi ngay, phóng một lèo về nhà Hồ Oai bên xóm Ngự Hà.


“Ông Đội đang còn trực trong cung, nghe nói tới sáng mới về!” Vợ Hồ Oai một tay bồng con, một tay mở cửa.


Thế có chết không, hắn ta đang ở đâu? Hừ đúng rồi, chắc chắn là ở chỗ này, Nguyễn Lâm suy đoán. Đúng vậy, Hồ Oai vừa đi trực về liền ghé vào sòng xóc dĩa, tính chơi tới hết đêm. Như nhiều võ quan và binh lính, y vẫn có cái máu ghiền đánh bạc.


- Dậy, dậy, đi ngay!


- Ơ, ơ... Công tử để tui quơ tiền cái đã... Mới ăn to mà.


- Vứt hết đi! - Lâm vừa hét vừa túm cổ áo Hồ Oai dựng dậy. Mới nghe mấy câu, Oai cũng bạc cả mặt, cả hai xách kiếm chạy còn hơn cọp đuổi.


Lúc ấy đoàn quân khởi nghĩa đã ào vào tới Ngọ Môn. Một cảnh tượng chưa từng thấy: hàng ngàn người lô nhô như sóng biển, xô nhau ập vào cổng chính hoàng thành, tiếng reo la vang trời dậy đất. Một lá cờ vuông to giương lên giữa đoàn người, giống như một cánh buồm bập bềnh trên sóng, trên ghi mấy chữ “Ngũ đại hoàng tôn”.


“Đụ mạ bọn canh cổng hèn nhát! Chúng chạy hết rồi!” Hồ Oai chửi thề. Quân nổi loạn bâu kín cổng Ngọ Môn, đang dùng cây đòn lớn phá cửa. Tiếng hai thứ gỗ tống vào nhau thình thình, tiếng reo hò phấn khích vang dội.


“Vào thành không cần cửa!” Lâm hét lên. Hồ Oai hiểu ngay: tất cả cửa trước, sau, tả hữu của hoàng cung đã bị quân nổi loạn vây kín hết rồi. Oai tìm chỗ vắng, phóng lên vượt thành, Lâm cũng theo sau. Cả hai tuốt gươm chạy thẳng vào trong, vừa chạy vừa hô lớn:


- Cứu giá! Cứu giá!


- Bảo vệ Hoàng thượng! Bảo vệ Thái hậu!


Nhưng không ai đáp lời, lính tráng đã chạy hết. Đám người nổi dậy đang ào ào tiến vào như nước lũ. Từ cổng Ngọ Môn, họ xô đổ hết mọi thứ trong sân điện Thái Hòa, tràn vào chỗ thiết triều của Hoàng đế. Sẵn chày giã vôi trong tay, họ đập vỡ hết tất cả: những thứ bằng sành, sứ, thủy tinh, lim, gụ, đồ chạm trổ vàng son quý giá trong điện, nháy mắt đều tan nát.


“Anh em! Quân nội ứng đã mở kho vũ khí, anh em nào cần đao kiếm, hãy đến đây mà nhận!”


Những người cầm chày nghe hô liền vứt chày, nhao nhao chạy ngược ra kho Kim Ngô và Cẩm Y ở hai bên tả hữu cổng Ngọ Môn. Họ đều là dân nghèo đi phu, một thanh kiếm cho ra kiếm đối với họ là một vật rất quý giá. Nhờ cái phút chững lại ấy mà Hồ Oai và Nguyễn Lâm kịp chạy vào đến Đại Cung Môn.


Hồ Oai phát hiện một võ quan đang nấp sau bụi hoa mẫu đơn, liền túm cổ lôi ra:


- Phó vệ úy Hùng! Mau theo ta trừ giặc!


Phó vệ úy lúc nãy trèo lên cây quan sát bên ngoài, thấy quân nổi dậy hàng ngàn người, áp đảo hẳn quân canh, hoảng cả hồn vội tìm chỗ ẩn nấp. Nay thấy Oai và Lâm hùng dũng hô cứu giá, tinh thần y cũng hồi phục lại. Hùng chạy ra, hô to:


- Anh em ở đâu rồi, ra cả đây!


Hô một lúc, Phó vệ úy Hùng cũng thu thập được chừng ba bốn chục lính ngự lâm. Cũng vừa lúc ấy, quân nổi dậy vừa chia chác xong vũ khí, kéo thốc vào đến nơi, sát khí đằng đằng.


- Giết, giết hết! Anh em ơi giết sạch tụi hắn đi!


- Chém đầu lão hoàng đế vô đạo, chôn liền vô cái nấm mả mới đào trên Dương Xuân!


- Đúng đúng, phò Ngũ Đại Hoàng Tôn lên ngôi! Ngũ Đại Hoàng Tôn mới chính là minh quân, chân chúa!


Tiếng hét la vang trời dậy đất, rồi tiếng hô rầm rập từng đợt: “Ngũ Đại Hoàng Tôn! Ngũ Đại Hoàng Tôn! Ngũ Đại Hoàng Tôn!”


Một sự bất ngờ bỗng xảy ra, làm Phó vệ úy Hùng trợn muốn rách cả mắt: từ phía trong Cấm Thành, một người mặc võ phục hăm hở chạy tới, mạnh tay mở toang cửa Đại Cung Môn - cửa này thông từ khu vực bên ngoài vào bên trong hoàng cung, dẫn vào ngay tận nơi vua đang ngự.


Đấy chính là Hữu quân Tôn Thất Cúc, vị chỉ huy cao nhất trong hoàng thành.


Quân nổi dậy tức thì ồ ạt tràn qua cổng.


“Bị phản rồi! Bị phản rồi!” Hồ Oai vắt giò lên cổ vừa chạy vừa hét. Bốn bề quân nổi dậy đang tràn tới, gươm đao mới toanh, sáng loáng. Oai, Lâm, Hùng và tốp cứu giá chỉ vỏn vẹn mấy chục người, không ai bảo ai đều cắm đầu chạy thẳng vào Càn Thành, chỗ ngủ của vua. 


Trong tẩm cung, đêm ấy đúng vào phiên chầu của Thiện phi. Từ lúc biết vua đã quyết định nhận con trai Kiên Thái công làm con nuôi, lần nào được vào hầu nàng cũng nằn nì:


- Việc nhận nghĩa tử, chính thiếp là người đầu tiên đưa ra ý ấy. Nay hoàng nhi chuẩn bị vào cung, xin Hoàng thượng giao cho thiếp. Thiếp xin được hết sức nuôi nấng để báo đền ơn vua.


Biết vua không còn tin yêu mình như trước, nhưng nàng vẫn cố dấn tới cùng. Bản tính nàng vẫn vậy: một khi không còn nói bóng gió được, nàng sẽ không ngần ngại nói toạc ý mình, mặc cho kết quả ra sao thì ra.


Quả nhiên nhà vua gạt đi:


- Việc ấy Trẫm sẽ nhờ Thái hậu lo tính, khanh hà tất phải bon chen.


- Thái hậu lo tính, thì chắc là giao cho Trung phi Vũ Thị Duyên, chứ đời nào đến phần thiếp. - Thiện phi cố tình lộ vẻ buồn tủi.


- Trung phi vào cung trước nhất, tính lại thật thà trung hậu. Nếu giao cho Trung phi thì cũng rất phải.


Thiện phi nghe vua nói, trong lòng cay đắng, chưa biết nói sao. Bỗng nghe tiếng hò la, rồi Trung Lương tông cửa chạy vào.


- Hoàng thượng, Hoàng thượng! Xin Hoàng thượng thay áo chạy, nguy cấp lắm rồi. Giặc đã vào đến Tấu Môn!


- Hả? - Nhà vua kinh ngạc.


Thiện phi vùng dậy, kéo tấm áo la nhu khép lại, nàng hoảng hốt cứng cả lưỡi. Trung Lương cũng quýnh quáng không kém, cởi nhanh chiếc áo thái giám màu xanh:


- Xin Hoàng thượng khoác áo này, lánh ngay ra hậu điện. Thần xin được khoác áo vua, đứng đây để làm kế lừa quân giặc. Có gì xảy ra thần cam lòng xin chết. – Trung Lương nói đến đó khóc nấc lên – Hoàng thượng mau đi đi, đi đi kẻo không kịp!


Nhà vua đã trấn tĩnh lại. Ngài bảo Trung Lương:


- Không. Trẫm có chết, cũng sẽ chết như một ông vua.


Ngài đưa tay chạm vào một hộc tủ giấu kín trong tường vôi, lấy ra con dao trủy thủ cán ngà, cầm chắc trong tay. Con dao này nhỏ, sắc như nước và rất ngắn, tất nhiên không thể dùng để phản công. Nó chỉ được chuẩn bị cho tình huống xấu nhất, khi phải tự xử.


Lúc này cung nga thể nữ trong điện đã chạy tứ tán hết cả, chỉ còn đội thái giám mười bốn người tuyệt đối trung thành, chạy vào dàn thành hai lớp vây quanh vua.


Nhìn qua những ô trám cửa sổ, nhà vua thấy cửa Tấu Môn đang được Hồ Oai dùng hai cánh tay vạm vỡ ghì chặt. Bên ngoài, quân nổi dậy đang hò la, hè nhau xô cửa.


Thấy thế nguy, Ngài hô:


- Xúm nhau ở đây làm gì? Mau ra ngoài tiếp ứng!


Mười bốn thái giám hộ vệ nghe vậy liền chạy ra, tiếp sức cho Hồ Oai. Cửa cứ bập bùng hé ra lại đóng vào, theo lực đẩy đôi bên. Chợt “bập” một tiếng, khe cửa nghiến vào tai Hồ Oai, kẹp cứng.


- Anh em ơi, hé ra chút để cứu người đã! - Một thái giám kêu lên.


Hồ Oai tuy bị kẹp tai, đau đến váng óc, nhưng cũng còn tỉnh trí. Y ráng chịu đau, hét:


- Hé hé cái gì, đồ ngu? Ghì chặt! Chặt nữa! Chặt nữa!


Máu rỉ xuống một bên má Hồ Oai, y vẫn lì lợm nghiến răng, đưa một bên vai ghì mạnh cửa. Đoàn thái giám cũng ra sức vận công: giữa lúc cái sống và cái chết chỉ cách gang tấc, ai cũng mạnh lên một cách phi thường.


Bên ngoài, tiếng Đoàn Trưng vang lên sang sảng:


- Hỡi Hoàng đế! Mau mau thoái vị, nhường ngôi để bảo toàn tính mạng! Quân ta đã vây kín hoàng thành. Hoàng thượng không còn đường nào chạy thoát!


Quân nổi dậy hò la hưởng ứng. Dù đang đau đến nổ đom đóm mắt, Hồ Oai cũng lên tiếng chửi:


- Đù mạ thằng to mồm, bọn tau sống thờ vua, có chết cũng thờ vua, không bao giờ theo mi làm giặc!


“Phò mã! Ta phải đi gọi đội Loan giá, liều chết mở cửa Hòa Bình, mở đường máu đưa Hoàng thượng và Thái hậu ra khỏi hoàng thành. Cánh cửa này không thể cầm cự mãi được đâu!” Trung Lương nói rồi chạy vòng ra phía sau, vọt lên mặt thành. Nguyễn Lâm cũng lập tức phóng theo.


Nhưng đội Loan giá cũng đã bị nghĩa quân khống chế. Khi Trung Lương còn chưa kịp chạy qua khu vực Thế Miếu, thì đã thấy kiệu vua bị cướp đi, đang được một đoàn dân phu công kênh ra phía cổng chính Hoàng thành. Họ vừa đi vừa tung tẩy chiếc kiệu bập bềnh, đi rước Ưng Đạo về cung. Nguyễn Lâm tức giận, chàng lao ra đối đầu với đám khiêng kiệu, dõng dạc quát to:


- Đinh Đạo nay đã là giặc, bay muốn theo giặc làm phản hay sao?


Nghe tiếng “giặc” đập vào tai, một số người khựng lại, hàng ngũ bắt đầu rối loạn. Một số vẫn kiên quyết vác gươm xốc tới, cùng với Trung Lương và Nguyễn Lâm quyết tử.


“Phập” một nhát gươm cắm vào vai Trung Lương, thái giám khuỵu gối, trên đầu có ánh thép đang loáng lên chém xuống. Trung Lương biết không đỡ kịp, nhắm mắt chờ chết. Nhưng Nguyễn Lâm đã hươi gươm đỡ, một tiếng va chạm chát chúa vang lên, Lâm thấy mặt đối thủ hiện rõ dưới ánh đuốc: Đoàn Tư Trực.


Hai người bạn thân thiết nay đã vào thế một mất một còn, cả hai chẳng nói chẳng rằng, cứ thế lao vào nhau bất phân thắng bại.


∞∞∞∞∞


Trong khi hai đạo tiền quân và trung quân của  Đoàn Trưng, Đoàn Trực đang chiến đấu quyết liệt trong hoàng cung, thì hậu quân do nhà sư Nguyễn Văn Quý dẫn đầu vẫn còn đang vượt sông.


Trong phủ Thừa Thiên, quan Phủ doãn Nguyễn Văn Tường được tin cấp báo, mồ hôi toát đầm dề ướt áo. Ông một mặt gọi Đề đốc Đặng Hạnh kéo quân cứu viện, một mặt gọi người thân tín đến giao việc. Đây là việc mà Đô sát Viện đã giao từ trước, nhất thiết phải thi hành ngay nếu có biến.


- Túc hạ phải làm ngay việc này, dập lửa phải dập từ gốc.


- Thưa…


- Giặc đã đến thềm, không cần nói nhiều. Nhanh lên! Nếu kẻ kia thoát được, hô lên một tiếng thì toàn thể tù nhân sẽ phá ngục sổng ra, khi đó ta sẽ bị chúng bằm ra như tương đó.


Trong trại quân phủ Thừa Thiên, lúc này Đinh Đạo cũng đã nghe tiếng huyên náo từ bên kia sông vọng sang. Lòng chàng hồi hộp khó tả: vậy là lời sư Quý không sai, đêm này chính là đêm “thế thiên hành đạo”, thay trời sắp xếp lại giang sơn.


Chàng không ngăn được sự nôn nóng cồn cào trong lòng, đến bên vách tường nhón chân cố nhìn ra. Một vầng lửa đuốc rừng rực hắt lên phía trên Đại Nội. Chao ôi! Lâu lắm rồi, cung đình đã thành một cõi rất xa, xa còn hơn cả thiên đường... Bây giờ... Rất có thể, có thể...


“Ta sẽ làm vua! Ta sẽ làm vua!” Một tiếng nói dấy lên, như những tiếng trống vang rền từ trong sâu thẳm tâm tư, khiến chàng hồi hộp đến choáng váng cả người.


“Hoàng tôn!”


Một tiếng gọi sau lưng. Đinh Đạo mừng rỡ quay lại. “Sư Quý đến đón ta đấy ư? Ta đã sẵn sàng rồi!”


Nhưng không phải sư Quý. Đinh Đạo hoảng hồn nhìn thấy lưỡi thép sáng loáng trên tay cái bóng đen ngòm.


Cả đời Đinh Đạo bị giam lỏng, tuy được dạy dỗ tử tế nhưng tất nhiên đâu có được học võ bao giờ. Thấy đao kiếm kề ngay cuống họng, chàng cứng đơ cả lưỡi. “Ngươi... Ngươi định làm gì ta?”


Người bịt mặt chụp lấy Đinh Đạo, trói chặt hai tay, nhanh còn hơn người ta trói con gà. Lôi đến chỗ buộc ngựa, y xốc Đạo lên, rồi cứ thế ra roi phóng một mạch.


Ngựa dừng giữa cánh đồng An Cựu mênh mông vắng teo. Trên đồng, gió lạnh thổi hun hút như tiếng oan hồn bay lượn.


Đạo biết mình bị đưa đi thủ tiêu, mồ hôi hột toát ra lạnh buốt khắp thân thể.


Tên bịt mặt nhảy xuống ngựa, kéo Đạo xuống theo. Đạo thiếu đường ngã dúi xuống cỏ. Chàng lồm cồm đứng dậy, khóc rống lên thảm thiết. “Ta có tội gì?”


Người bịt mặt im lìm, vung lưỡi kiếm lên. Đạo nhắm chặt mắt… Nhưng, sát thủ chỉ dùng mũi kiếm cắt gọn một nhát, những vòng dây trói tay rơi xuống hết.


- Hoàng tôn! Hoàng tôn đã được tự do!


- Hả? - Đạo sững sờ, không tin ở tai mình.


- Tại hạ được lệnh đem Hoàng tôn đi giết, nhưng thật lòng không nỡ. Hoàng tôn hãy cỡi con ngựa này, cầm ít tiền lộ phí này, chạy đi!


- Chạy? Ta biết chạy đi đâu?


- Hoàng tôn hãy chạy theo hướng Nam, đi một mạch đến đèo Phước Tượng sẽ có người đón. Vào Nam rồi, xin hoàng tôn thay đổi tên họ, tìm một đường sống! Nếu không, mãi mãi không bao giờ còn cơ hội đâu!


Đinh Đạo vừa hú hồn, bắt đầu định tĩnh lại, thì người bịt mặt đã biến mất vào đêm tối. 


Còn lại một mình giữa đồng, Đinh Đạo đứng thẫn thờ nghĩ ngợi mông lung.


Nên đi? Nên ở? Nên bỏ trốn theo lời gã bịt mặt, hay nên quay về để chờ sư Quý và anh em trong nghĩa hội đến tôn phù?


Lời sư Quý căn dặn đinh ninh: sau khi nổi dậy thành công, sẽ lập tức đón ta, tôn lên làm hoàng đế! Nên nghe ai bây giờ? Gã bịt mặt lúc nãy quả có lòng nhân đức muốn tha cho ta, hay chỉ là âm mưu của ai đó, hòng gạt ta ra khỏi cơ hội ngàn năm một thuở này?


Như có một sức hút vô hình ma quái, Đinh Đạo lập cập trèo lên ngựa, rạp mình chạy ngược trở lại về phía Bắc. Chốc lát nhà ngục phủ Thừa Thiên lại hiện ra trước mặt chàng. Vừa lúc một đám đông kéo tới, trên những đầu người lố nhố là một chiếc kiệu rồng, nhấp nhổm bập bềnh dưới ánh đuốc.


Thấy lá cờ “Ngũ Đại Hoàng Tôn”, Đinh Đạo mừng rỡ chạy lại, kêu lớn:


- Ta đây! Ngũ đại hoàng tôn chính là ta!


Đám đông reo hò xúm lại, gần như lôi xểnh chàng lên kiệu.


Lúc ấy Đinh Đạo đâu biết số phận thực sự của chàng: một con dê tế thần vừa từ khước cơ hội sống cuối cùng, để tự mình chạy trở lại bàn tế sinh.


Chương 23


Tiếng trẻ khóc trong bụi tre


Trong phủ Nguyễn Tri, đêm đó Gia Phúc lo sợ muốn chết, chồng đi đâu chẳng biết, biền biệt cả đêm chẳng thấy mặt mũi. Đến canh tư, gia nhân đi tìm chạy về báo cái tin sét đánh: giặc đã tràn vào tận trong Đại Nội. Cả kinh thành, đa số là nhà quan, nhà nào nhà nấy đóng chặt cửa, im phăng phắc.


Trong dinh, Gia Phúc khóc bù lu bù loa:


- Phò mã võ nghệ đâu có thua ai, sao trong lúc biến loạn này lại không tìm được cách về nhà. Hay là chàng bị giặc giết chết rồi, hu hu…


Nguyễn Tri phu nhân ruột đang rối như tơ vò, nghe Gia Phúc khóc vậy thì cả kinh, không kể gì kính lễ với bà chúa nữa, vội đưa tay bịt miệng nàng:


- Ấy chết, bà chúa đừng có nói gở, chắp tay lại cầu trời phật phò hộ đi… con!


Chưa bao giờ hai người đàn bà cảm thấy gần nhau như thế này. Gia Phúc ôm lấy mẹ chồng, nức nở:


- Mạ ơi con sợ lắm…


Phu nhân đã xót con, càng nghe Gia Phúc khóc lóc bà càng điếng từng khúc ruột. Hai vợ chồng Thanh Lam và Nguyễn Ngọc hối thúc gia nhân gói ghém đồ đạc, phòng khi loạn to kéo dài, có thể phải dắt nhau lánh nạn về quê.


Trong khi đó Nguyễn Lâm đang giao chiến với Tư Trực trong Đại Nội. Hai người ngang sức ngang tài, nhưng Tư Trực được nghĩa quân đông đảo hỗ trợ, dần dần Nguyễn Lâm rơi vào thế bị động.


Thanh gươm của Tư Trực nhiều lần chọc thẳng vào yết hầu Lâm.


- Tư Trực, huynh muốn lấy mạng ta thực sao? - Nguyễn Lâm kêu lên. Từ đầu trận, chàng vẫn chỉ đánh đỡ, chưa hề tung chiêu độc nào.


Tư Trực cười gằn:


- Đã gặp nhau ở đây, tất là một mất một còn, hỏi gì nữa?


Dứt lời Trực bổ mạnh thanh gươm xuống đầu Lâm.


“Chát” một tiếng, thanh gươm của Trực bỗng bật ngược lại. Tư Trực loạng choạng rồi ngã ngửa ra, một dòng máu phụt lên.


Quan Đề đốc Lê Sĩ từ sau vừa áp đến, đỡ đòn cho Lâm. Nhanh như cắt, ông đâm ngập mũi giáo vào cổ Trực.


Nguyễn Lâm nhìn lui. Hai cánh quân của triều đình đang áp lại từ hai phía, một cánh là quân Dực Chấn của Đề đốc Lê Sĩ, vừa kéo vào cửa chính Ngọ Môn; một cánh đông hơn là quân của Phủ doãn Nguyễn Văn Tường cùng hai Đề đốc Nguyễn Hữu, Đặng Hạnh đang kéo vào cửa Hiển Nhơn.


Nguyễn Lâm hét to:


- Quân cứu viện đã tới! Cố lên! Cứu viện đã tới!


Tiếng Lâm vang to át hết tiếng hò reo, vọng đến tận điện Càn Thành, làm Hồ Oai và các thái giám tưởng chừng sắp kiệt quệ bỗng phấn chấn hẳn lên. Đoàn Trưng ngẩng đầu, quắc mắt: chàng nhận ra, rõ ràng tiếng của Nguyễn Lâm.


“Vậy là hắn không theo ta. Chính hắn đã phá ta.” Trưng nghiến răng thầm nghĩ.


Quân triều đã ập tới, buộc lòng Trưng cùng thủ hạ phải bỏ cửa Tả Sương, quay ra chống cự. Hồ Oai cảm thấy rõ lực xô từ bên ngoài cửa bỗng nhẹ hẳn. Buông tay, y ngã lăn ra đất.


Thái giám thấy vậy, xúm lại đỡ. Oai xô mạnh ra, máu me ràn rụa một bên mặt:


- Hãy bảo vệ Hoàng thượng! Mặc kệ ta!


Nói rồi Oai lồm cồm ngồi dậy, xách kiếm đuổi theo quân địch.


Từ các góc hoàng cung, dân phu chạy ra tán loạn, từ hàng ngàn người giờ chỉ còn lại khoảng ba mươi người, chống đỡ lúng túng vì chưa quen tay với với những cây kiếm mới. Hồ Oai kêu lớn: “Công tử Nguyễn Lâm! Mau mau giúp ta nhận diện mấy tên đầu đảng!”


Không nghe tiếng Lâm đáp lại. Chàng sục sạo tìm Đoàn Trưng, dù sao Lâm vẫn mong giúp Trưng trốn thoát. Nhưng Trưng đã biến mất chẳng thấy tăm hơi. Một tiếng hí vang lên kề bên, Lâm sực nhớ lúc nãy vội quá, chàng quên cả buộc ngựa. Con tuấn mã trung thành tự đi tìm chủ, nó mừng rỡ dụi mõm vào vai chàng.


Nguyễn Lâm vuốt ve đầu ngựa rồi nhảy lên. Nhớ đến mẹ và Gia Phúc, chàng lẳng lặng phi một mạch về dinh. Trên sông Hương, trời đã sáng bạch.


∞∞∞∞∞


Hôm ấy trong khắp kinh thành, phố xá vắng tanh, nhà nhà đóng kín cửa. Lâu lâu lại xuất hiện từng tốp quan quân, lùng soát đến tận hang cùng ngõ hẻm. Quân nổi dậy số thì bị bắt, số ra đầu thú, nhà ngục phủ Thừa Thiên bây giờ chật ních như nêm.


Nguyễn Lâm về đến dinh, phu nhân và Gia Phúc mừng còn hơn sống lại. Thấy Lâm cứ nằm thừ trên giường, mặt buồn rười rượi, Gia Phúc kéo tay chồng:


- Hồi tối đang biến loạn thì lại đi mất tăm, làm thiếp hết cả hồn. Giờ yên ổn rồi lại nằm co ở nhà buồn thiu, là cớ làm sao? Thiếp muốn vào cung vấn an Thái hậu, chàng mau mau đi với thiếp!


- Thái hậu bình an, Hoàng thượng bình an. Vậy đủ rồi, nàng hãy để ta yên. - Lâm nói dứt lời, liền quay mặt vào vách. Vừa lúc nãy, loa rao qua cổng dinh, chàng đã nghe tin: Đoàn Trưng bị bắt, Đoàn Trực đã chết tại trận, Hữu quân Tôn Thất Cúc tự tử, toàn bộ nhà họ Đoàn và những người cầm đầu cuộc nổi dậy, đa số chàng đều có quen biết, đã bị giam vào ngục.


Gia Phúc lâu nay được chồng cưng chiều, nay bỗng dưng bị trả lời cộc lốc. Nàng tủi thân đang còn muốn gây sự, thì vú Nhự từ ngoài chạy vào nhỏ to. Không biết vú nói gì mà Gia Phúc òa khóc, rồi lập tức gọi phu sắp kiệu.


Nguyễn Tri phu nhân sợ hãi can ngăn:


- Bà chúa đi mô? Lệnh triều đình đang cấm đi lại mà? Hiện giờ chưa ai vô Đại Nội được mô!


Gia Phúc vẫn khăng khăng lên kiệu:


- Cấm con cũng đi, có bắt thì bắt. Phò mã có hỏi thì mạ nói con đi ra cửa Chính Đông.


Cổng thành Chính Đông thường ngày tấp nập ngựa xe, bây giờ vắng tanh. Đối diện vòm cổng, một ông già mặc áo xô trắng, đang quỳ trên manh chiếu đơn sơ. Ông bắt chéo hai tay bị trói trước trán, đầu cúi gục xuống, đội chiếc khay trên có lá sớ dâng lên Hoàng đế.


Đấy là Tùng Thiện công. Rạng sáng nay, phủ Tùng Thiện biết được việc biến loạn động trời, con rể là Đoàn Trưng đã dấy binh kéo vào tận chỗ vua ngủ trong thâm cung! Tùng Thiện công điếng người, cơ hồ trời long đất lở. Cả phủ sợ hãi gào khóc…


Riêng Thể Cúc hai mắt khô, ôm con vào lòng không nói một lời.


Sau những phút hoảng loạn, Tùng Thiện công quyết định tự trói mình, trói cả con gái đến cổng thành chịu tội.


Gia Phúc xuống kiệu, nàng bật khóc khi thấy Thể Cúc quỳ sau lưng cha, thân hình tiều tụy trong bộ áo xô gai trắng. Cúc chỉ bị trói tượng trưng, các vòng dây đủ lỏng vì còn phải ôm con. Đứa trẻ mới hai tuổi chưa biết gì, vẫn hồn nhiên vạch áo mẹ tìm vú – bầu vú Thể Cúc bây giờ trắng xanh và gầy như một cánh hoa nhài sắp héo. Trong gió mùa thu lạnh, tấm thân gầy mòn của người mẹ trẻ run run, nàng cố ôm chặt để che chắn cho con.


Gia Phúc chạy đến, quỳ cạnh Thể Cúc, nắm lấy bàn tay gầy guộc. “Trời ơi, Cúc ơi là Cúc, ai ngờ đến nông nỗi này!”


Thể Cúc ngước lên, cười nhợt nhạt. Khuôn mặt nàng đã biến dạng với hai hốc má trõm xuống: nhiều đêm rồi, nàng phải một mình ôm những ám ảnh khủng khiếp vào giấc ngủ. Nàng đã quen dần với những ám ảnh ấy, nên đến nay khi chúng hóa thành sự thật, nàng cảm thấy mình đã chai lì, không còn cảm thấy kinh ngạc, thất vọng hay sợ hãi nữa.


Thấy Gia Phúc vừa mếu máo vừa nhìn quanh như muốn tìm ai giúp đỡ, Thể Cúc lắc đầu:


- Công chúa về đi, số phận đã an bài rồi!


Gia Phúc đưa hai tay đỡ lấy đứa bé, nhưng Thể Cúc giằng lại. Nàng ngước nhìn, đôi mắt mở to, sâu và buồn thăm thẳm:


- Không ai cứu được mẹ con thiếp đâu. Đã đến nước này, thì vợ chồng cha con sum họp nơi tuyền đài, không phải là cách hay nhất sao?


Như đáp lại lời mẹ, thằng bé bỗng ngước lên cười thành tiếng, tiếng trẻ con cười nghe rất thơ ngây.


Người hầu nhác thấy quân binh tuần tiễu xuất hiện bên kia cầu Chính Đông, vội vàng chạy đến kéo Gia Phúc ra, đẩy nàng lên kiệu, lật đật khiêng đi.


Tùng Thiện công vẫn im lặng gục đầu, mái tóc hoa râm rũ rượi.


Ông cùng con gái quỳ từ sáng đến khi trời xẩm tối, mới có một viên thái giám từ trong Đại Nội ra, thu lá sớ và truyền khẩu dụ của vua:


 - Hoàng thượng truyền Đức ông cứ về phủ, việc xử trí sẽ có lệnh sau!


Tùng Thiện công cứ nghĩ sẽ bị quân lính đến trói đưa vào ngục, nên khi nghe câu truyền ấy, ông xúc động ngã xuống chiếu, lịm đi.


Sở dĩ Tùng Thiện công phải chờ từ sáng đến xẩm chiều, là vì triều đình cũng đang hoảng loạn. Hoàng đế Tự Đức vốn đã không khỏe, lại trải qua một đêm căng thẳng tột độ. Các ngự y đều lo lắng, nài xin ngài nghỉ ngơi.


Trong tẩm cung, Thái hậu ngồi bên long sàng, nét mặt buồn rười rượi. Cầm tay con, Thái hậu nghẹn ngào:


- Năm ngoái, sét bỗng đánh vào điện Hòa Khiêm đang xây trên sơn lăng. Trong lòng mẹ đã lo, e rằng điềm Trời răn dạy. Có khi là ứng vào việc này chăng?


Trong lòng bà quặn đau, thầm nghĩ mà không nỡ nói ra lời: “Con đã làm gì đến nỗi Trời và người than oán?”


 - Thưa mẹ, năm ngoái điện Hòa Khiêm trên sơn lăng bị sét đánh, gỗ ván hư hại rất nhiều. Các quan đều xin thay mới, nhưng con chỉ sai sửa chữa lại gỗ ván cũ thôi. Nào có phải xa xỉ kiêu căng gì đâu? So với Hiếu lăng của tiên đế Minh Mạng, thì sơn lăng của con xây ở địa điểm gần hơn, các công trình cũng chỉ xây sát mặt đất, không có Minh lâu, không đào Tụy đạo, tính ra sự vất vả và tốn kém chỉ bằng một nửa. Vậy mà thời Minh Mạng không sao, thời của con lại sóng gió như vậy! Quả thật con cũng chưa biết tại sao, có lẽ là do con đức mỏng mà ra?


Thái hậu chưa kịp tìm lời, thì Trung Lương vén màn bước vào:


- Tâu Hoàng thượng, có Thọ Xuân công đi cùng với Trưởng quan Đô sát Viện, đang chờ xin yết kiến.


Hoàng đế Tự Đức vái mẹ, đứng dậy. Thái hậu lo lắng nhìn khuôn mặt còn xanh xao của con trai. Hiểu ý mẹ, nhà vua nói:


- Xin mẹ cứ an tâm về nghỉ. Giặc mới dẹp yên, nhiều việc cấp bách. Hoàng thúc Thọ Xuân công đứng đầu hoàng tộc, nay đã thân hành vào đây, tất có việc không thể trễ nải.


Thái hậu đứng dậy, trước khi bước ra bà khẽ thầm thì với Trung phi Vũ Thị Duyên. Từ sáng đến giờ Trung phi vẫn đang túc trực bên giường, vì Thiện phi đêm qua bị một mẻ mất vía, đã lui về cung Phấn Trang nằm liệt.


- Tâu Hoàng thượng, - Thọ Xuân công tâu, - Toàn bộ đảng giặc đã bị bắt cả rồi. Việc đó Đô sát Viện và Bộ Hình sẽ có bản tâu xin xử trí, thần không dám lạm bàn. Thần chỉ xin Hoàng thượng quyết ngay việc khổ tâm trong nội bộ hoàng tộc. Tuy là việc nội bộ, mà rất quan yếu đến đại sự quốc gia!


Hoàng đế mím chặt môi một giây, trước khi lên tiếng:


- Hoàng thúc hãy nói đi.


- Tâu Hoàng thượng, trước đây thần đã có biểu tâu xin xử tử Đinh Đạo, để những kẻ manh tâm gây rối không còn cái cớ để vin vào. Lúc ấy Hoàng thượng không chuẩn y, cho rằng thần tàn nhẫn. Nay thì sự thể đã rõ, cái trứng ấp đủ ngày đã nở ra tai họa. Đinh Đạo nay đã rõ ràng phạm tội theo hùa với phản tặc, đúng hình pháp thì phải tru di. Xin Hoàng thượng chuẩn y theo phép công, có thế mới khỏi di họa đến đời sau.


Hoàng đế Tự Đức yên lặng. Khoảng lặng ấy thật dài, với ngài, và cả với ba vị triều thần đang đứng chắp tay trước mặt.


Nhà vua hiểu rõ, dù ai nói gì đi nữa, viện dẫn luật pháp gì đi nữa, cái án này nghìn sau, người chịu trách nhiệm vẫn chính là ngài.


Cuộc bàn luận kéo dài hơn nửa canh giờ. Khi lui về tẩm cung, nhà vua lộ rõ vẻ mệt mỏi, như vừa xong một công việc vô cùng nặng nhọc.


Trung phi se sẽ lại gần, rụt rè:


- Tâu Hoàng thượng… Thái hậu có nói với thiếp… Dạ dạ, Thái hậu vốn nhân từ…


Nhà vua đang nặng trĩu những ý tưởng u ám, nghe Trung phi lắp bắp ngài bực cả mình. Dường như áp lực đã vượt qua sức kiềm chế của vua, khiến ngài bật lên, gắt gỏng:


- Nhân từ! Nhân từ! Bắt Trẫm phải nhân từ với cả những kẻ muốn giết trẫm sao? Lui ra đi!


Trung phi tiu nghỉu, khép nép bước ra.


∞∞∞∞∞∞∞


Từ lúc Đinh Đạo lên kiệu ra đi, mẹ và hai vợ của chàng thấp thỏm không yên. Ngọc Sinh ôm con ngồi thu lu một góc, trong khi vợ cả Võ Thị chạy ra sân, lân la hỏi dò các chú lính gác.


Quá canh ba thì Võ Thị chạy vào, mặt sáng hẳn lên, đôi mắt thường ngày lờ đờ uể oải nay lấp lánh đầy những tia nhìn háo hức hy vọng.


“Có nên nói tin này cho ả kia biết không?” Võ Thị phân vân so tính. Chú lính gác vừa lộ ra với Võ Thị: quân nổi dậy tấn công hoàng thành, họ đã kiệu rước chồng nàng vào cung, chỉ nội sáng mai sẽ tôn lên ngôi hoàng đế. Cái tin ấy làm tim Võ Thị đập rộn ràng, chỉ muốn hét vang lên cho tất cả cùng biết. Nhưng ở đây chỉ có mẹ chồng với vợ hai, mà lâu nay nàng chẳng đã chẳng thèm nói năng gì với cả hai người. Nhưng mà… cuối cùng không nhịn nổi, nàng ghé tai mẹ chồng, thì thầm, không quên dặn nhỏ: “Chuyện bí mật, mạ không được hé ra với con Thị Đẻ.”


Nàng ngạc nhiên vì không hề thấy vẻ vui mừng trên khuôn mặt già trước tuổi của mẹ chồng. Mặt Trần Thị nhăn dúm lại, một vẻ mặt thật khó tả.


Thừa lúc con dâu cả chạy ra bếp, Trần Thị nhích lại gần Ngọc Sinh, quờ quạng cầm lấy tay nàng:


- Chạy trốn đi con… Con bồng con bé, dẫn theo thằng cu em, tìm đường trốn đi.


Ngọc Sinh bỡ ngỡ không hiểu, tại sao lại trốn, và tại sao mẹ chồng lại bảo dẫn theo cả thằng con nhỏ của vợ cả. Không lẽ mẹ chồng mới ngoài bốn mươi mà đã lẫn? Định hỏi thêm nhưng từ dưới bếp Võ Thị đã bước lên, đưa đôi mắt chòng chọc dò hỏi. Bà mẹ chồng vội rụt lại, không dám hó hé.


Trời đã sáng rõ, Ngọc Sinh bồng con gái, đẩy cửa ra ngoài, ra bụi tre phía sau xi con. Lạ thật, hôm nay lính canh đi đâu mà chểnh mảng thế này. Từ chỗ ở ra bụi tre khá xa, chẳng thấy một ai canh gác như thường lệ. Xi con xong, nàng nhân dịp đi thơ thẩn một lúc, thấy dễ chịu vì không khí ngoài trời nhẹ nhõm. Ước gì hôm nào cũng được yên tĩnh tự do bồng con thơ thẩn thế này…


Đang còn nghĩ lan man, chợt nàng nghe tiếng gọi:


- Ngọc Sinh!


Nàng ngước lên nhìn. Trên đầu tường, một người đang trèo lên, thò đầu vẫy tay ra hiệu. Ngọc Sinh sững người mừng rỡ:


- Huynh trưởng!


Đấy chính là Phò mã Nguyễn Đình Tứ, anh trai nàng.


- Mau lên, em bồng cháu đến đây, anh kéo ra. Phải trốn gấp, không thì chết.


- Có chuyện gì vậy anh, hoàng tôn nhà em cả đêm hôm qua đi đâu vắng không về trại, em đang còn ngóng!


- Hoàng tôn hỏng việc rồi, bị bắt rồi, lính đang áp giải về đó! Giờ anh chỉ lo được cho tính mạng của em thôi! Mau lên!


Nghe nói Đinh Đạo bị bắt, Ngọc Sinh khóc òa:


- Chàng có tội gì mà bỗng nhiên lại bị bắt?


- Đã bảo mau lên, đừng hỏi ngớ ngẩn nữa. Mi không nghe tau, mi chết. - Nguyễn Đình Tứ nạt lớn.


Ngọc Sinh vẫn khăng khăng:


-Thuyền theo lái, gái theo chồng. Em phải quay lại để tìm cách cứu chồng em.


Phò mã Tứ muốn phát khùng:


- Đồ ngu! Mi mà cứu được ai? Mau lên chạy đến đây, anh kéo lên cho.


“Không không…” Ngọc Sinh ôm con chạy ngược về gian nhà nhỏ trong trại. Chàng về dù trong áo mão hay trong gông cùm, cũng phải thấy mình ở đó mới được…


Bước vào thềm sau, Ngọc Sinh bỗng rùng mình chùn lại: một sự yên ắng lạ lùng khác thường. Nàng hồi hộp đẩy cửa.


Từ trên xà nhà, sáu cái thòng lọng buông xuống, treo lủng lẳng sáu thân người. Đập mạnh vào mắt Sinh là hình ảnh chồng mình, với khuôn mặt đã bị cái chết làm cho biến dạng.


Nàng hét lên hãi hùng. Nghe tiếng hét, một tốp đao phủ ập vào. Ngọc Sinh hồn vía lên mây. Bản năng sinh tồn vụt dậy, nàng ôm chặt lấy con, chạy quáng quàng không biết phương hướng.


Ba tên đao phủ đuổi theo bén gót. Đến gần chỗ bụi tre thì chúng tóm được Ngọc Sinh, lôi xểnh nàng quay lại. Đứa con trên tay nàng rơi xuống cỏ, bé khóc thét lên.


Ngọc Sinh bị kéo vào nhà, nàng gào khóc:


-Tôi chẳng có tội gì, tha cho tôi!


Trên đầu nàng, vẫn còn hai cái thòng lọng trống không đang thòng xuống như chờ đợi.


Một tên đao phủ nói lớn:


- Đinh Đạo làm phản, theo luật cả nhà tám người phải bị giết. Lẽ ra chém đầu bêu xác, nhưng hoàng thượng khoan hồng cho hưởng hình thắt cổ để giữ nguyên vẹn hình hài, sẽ cấp đủ vải lụa để chôn cất.


Tiếng Ngọc Sinh kêu thét, tiếng giãy dụa ú ớ, một lát sau thì im bặt.


Ba viên đao phủ kéo nhau đi. Trước khi đi, một tên thắc mắc:


- Còn một cái thòng lọng nữa đó, làm cho xong đi chớ?


- Đứa con út mới mấy tháng, nhẹ lắm có treo nó cũng không chết đâu, treo chi mất công.


- Thì thiếu chi cách, đâu có làm ăn tắc trách như vậy được?


Viên đội trưởng cười khề khề:


- Nếu là con trai thì cũng lo cho kỹ đó, nhưng ta nhìn cẩn thận rồi nó chỉ là con gái, không ai hỏi tới đâu. Mà không ai cho bú, trước sau nó cũng chết. Đi mau đi, ta đã đặt mâm ở quán rượu bà Nậm rồi.


Ba viên đao phủ kéo nhau đi. Tít ngoài xa phía sau, đứa bé chưa đầy một tuổi đang bò lổm ngổm trên cỏ. Vớ được một mẩu lá rụng, bé cho vào miệng ngậm, rồi một lúc sau lại vừa bò vừa khóc. Dần dần, đứa trẻ chui thẳng vào giữa bụi tre rậm rạp.


Chương 24


Học kiếm thuật để làm gì?


Ba hôm sau kinh thành vẫn chưa yên. Quân nổi dậy, phần lớn là dân phu xây lăng, tản mác trốn tránh ở các ngõ ngách trong kinh thành, không dám về lại công trường. Tố giác, bắt bớ, điều tra là những việc không thể tránh khỏi sau một cơn biến loạn.


Đến ngày thứ tư, quan Phủ doãn Nguyễn Văn Tường quay về công đường, mặt đầy vẻ mệt mỏi.


Dựa vào lưng ghế, ông bảo lính hầu:


- Cho gọi Trương Long.


Mỗi thành viên trong đội giáp sĩ của phủ Thừa Thiên đều được gọi bằng một bí danh riêng. Trương Long cũng vậy, chỉ là bí danh của Nguyễn Chí.


Nguyễn Văn Tường thấy Chí bước vào, trong lòng bực tức nhưng vẫn điềm tĩnh. Vẻ điềm tĩnh rất tôn nghiêm này, ông vẫn luôn giữ được, dù trong những tình thế bất lợi nhất.


- Trương Long! Ngươi làm cho ta gặp phiền phức lớn lắm đó. Tại sao, chắc ngươi hiểu hơn ai hết.


Chí cúi đầu:


- Bẩm đại nhân! Thực lòng, tại hạ không đành giết người tù tội nghiệp đó.


- Ta phải chịu trách nhiệm trước Viện Cơ mật. Họ tố rằng, từ sau vụ Hồng Tập, viện đã có mật lệnh, hễ động tĩnh có biến trong kinh thành là phải lập tức thủ tiêu Đinh Đạo. Vậy mà phủ doãn không thi hành, để Đinh Đạo có cơ hội tiếp tay cho giặc. Xém chút nữa thì hậu quả không phải nhỏ.


- Bề dưới rất áy náy vì đã làm lụy tới đại nhân. Xin mạo muội hỏi, vậy ý Hoàng thượng thế nào?


Nguyễn Văn Tường không trả lời thẳng vào câu hỏi. Ông tiếp tục với vẻ đĩnh đạc - Bao giờ cũng vậy, ông luôn làm chủ câu chuyện, chứ không để bị người đối thoại dẫn dắt: 


- Ta đã nhận hết về mình, xem như trong lúc gấp rút đã sơ suất. Nếu nói ra sự thật, họ sẽ ghép cả ta và ngươi vào tội thả tù, xem như đồng mưu làm phản, ngươi biết không? Ít nhất cũng phải vào khám đường, chung một chỗ với tên Đoàn Trưng đó!


Nghe nhắc tới Đoàn Trưng, Nguyễn Chí không khỏi động tâm. Khám đường phủ Thừa Thiên ở ngay sau công đường, cách chỗ chàng đang đứng chẳng bao xa. Đoàn Trưng đang bị nhốt trong đó, chắc chắn là bị tra tấn đến bầm dập. Trưng với chàng đã từng ăn cùng mâm ngủ cùng chiếu, cùng ôm một giấc mộng cứu nước, dù rằng mỗi người chọn một con đường.


Thấy chàng trai buồn rười rượi, Nguyễn Văn Tường dịu giọng:


- Thôi, việc cũng đã rồi. Bất ngờ, vội vã, nên ta đã sai lầm khi chọn ngươi để giao nhiệm vụ. Đúng ra nếu lúc đó ta đủ sáng suốt thì phải biết trước là ngươi không thể làm nên việc.


Nguyễn Chí cúi đầu:


- Cảm tạ đại nhân đã hiểu cho Chí. Chí học kiếm thuật từ khi còn nhỏ, đến nay chưa bao giờ cố tình hạ sát một ai.


- Vậy ngươi học kiếm để làm gì vậy? - Nguyễn Văn Tường hỏi với một giọng chế giễu - Ta cứ tưởng cái tài của ngươi ít nhất cũng có công dụng ngang một lưỡi kiếm tốt mới phải. Người ta bỏ bao nhiêu công phu để rèn lưỡi kiếm thật sắc, chính là để nó lấy máu người cho dễ đó.


- Bẩm đại nhân, cha của tại hạ lúc còn sống mỗi lần dạy kiếm cũng thường nói như vậy! Nhưng về sau sư phụ đã mở mắt cho tại hạ: học võ nghệ là để cứu người, không phải để giết người.


- Sư phụ ngươi sai rồi. Muốn cứu người này, thường phải tiêu diệt người kia. Cầm kiếm cũng như cầm quyền vậy, không có ai cầm quyền mà chưa từng đưa ra ít nhất một lệnh liên quan đến mạng người. Đòi hỏi một người cầm quyền phải tuyệt đối thánh thiện hiền từ, đó là việc không thể.


Nguyễn Chí bất giác nhắc lại một câu trong Kinh Thánh:


- “Ai cầm gươm, sẽ bị giết bằng gươm; Ai cầm gậy, sẽ bị đánh bằng gậy.”


Nguyễn Văn Tường cười nhạt:


- Hàng ngàn năm rồi, người ta đúc ra gươm, đẽo ra gậy, là vì chúng luôn cần dùng. Xung đột trong xã hội là chuyện tất nhiên ở mọi thời, cho nên từ khi có vua thì cũng tất nhiên có giặc! Từ Lý, Trần, Lê đến nay không thời nào không có giặc giã nổi dậy, chỉ khác nhau là ít hay nhiều mà thôi. Nói như ngươi, thì nên đi tu, chứ không nên làm giáp sĩ.


Chí hơi nhếch mép: tâm nguyện của chàng đâu có phải là làm giáp sĩ ăn lương ở phủ đường này.


- Bẩm đại nhân, mỗi người ra đời đều mang một thiên mệnh riêng. Tại hạ một lòng vì lẽ thiện, cũng như đại nhân một lòng vì Hoàng đế.


Nguyễn Văn Tường nhìn chằm chằm vào mặt Nguyễn Chí:


- Hai chữ lẽ thiện, ngươi dùng để chỉ Ai vậy?


“Thiên Chúa” - Câu trả lời âm thầm vang lên trong tâm tư Chí. 


Nguyễn Văn Tường không hỏi thêm, chỉ tiếp tục nói, như nói với chính mình:


- Ngươi nghĩ ta hành động vì Hoàng đế. Thật ra, cũng không hẳn vậy đâu. Ta hành động vì sự trị an của đất nước. Ta phục tùng Hoàng đế, vì ngài là biểu hiện của trật tự xã tắc. Làm quan là sự nghiệp của ta, an bang tế thế là mục đích của ta!


- Bẩm đại nhân, những người họ Đoàn kia, khi nổi dậy, họ cũng đã nghĩ đến mấy chữ an bang tế thế.


- Này chàng hiệp sĩ, ngươi vẫn còn non lắm, chưa biết phân biệt phải trái khi nhìn đời. An bang tế thế bằng cách làm giặc được sao? Ngươi nghĩ Đinh Đạo làm vua thì giỏi hơn Hoàng thượng sao? Đoàn Trưng lên cầm quyền thì hay hơn Trần Tiễn Thành, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản được sao? Hay là càng khiến mọi chuyện rối thêm? Dòng chính, dòng thứ, đích tôn, trưởng nam, chủ chiến, chủ hòa… mấy chữ đó hãy để cho bọn hủ nho đầu óc chật hẹp cãi lộn tối ngày với nhau cho quên nghèo, và bớt rảnh. Với ta, chỉ có một điều quan trọng, là bình an cho đất nước.


Nguyễn Chí im lặng một giây, rồi gật đầu:


- Đại nhân nói đúng. Từ trước đến nay, tại hạ cũng chưa bao giờ tin ở các cuộc bạo loạn. Thả Đinh Đạo, hoàn toàn không phải là ủng hộ cuộc nổi dậy, mà chỉ vì không cầm lòng được trước một mạng người.


- Ta biết! Nếu ngươi cũng cùng một mục đích như Đoàn Hữu Trưng, đời nào ta bao che cho ngươi.


- Xin cảm tạ đại nhân. Chỉ mong đại nhân khoan hồng cho anh em họ Đoàn. Họ cũng là con người, mà là người, thì hữu hạn và bất toàn, nên không khỏi sai lầm. Hơn thế nữa, - chàng nhìn thẳng vào mặt Nguyễn Văn Tường - mỗi người đều có thể sai lầm theo một cách khác nhau!


Nguyễn Văn Tường thở hắt ra, cười nhạt:


 - Cái khoan hồng đó, ta không thể, mà cũng không nằm trong thẩm quyền của ta.


 Nói rồi, Nguyễn Văn Tường rút trong ống tay áo ra một cuộn công văn, mở ra. “Ngươi đọc đi!”


    Nguyễn Chí bước đến gần. Đấy là tờ bố cáo của bộ Lại, nói về các quan chức bị trị tội sau biến loạn:


      “… Quan đốc công ở lăng Vạn Niên là Nguyễn Văn Xa, Nguyễn Văn Chất khắc bạc quá lắm, nên quân sĩ lìa bỏ, kẻ gian thừa cơ gây hấn, nay lập tức bắt giam chờ trị tội.


  Phủ doãn phủ Thừa Thiên là Nguyễn Văn Tường sơ suất chểnh mảng để xảy ra biến loạn, cũng phải bị xử phạt. Nay cách chức phủ doãn của Nguyễn Văn Tường, giáng ra làm bang biện huyện Thành Hóa, cho lập công chuộc tội.


…”


  Giọng Tường chua chát:


- Bắt đầu ngày mai, ta sẽ không còn ngồi ở cái ghế này nữa. Với vị quan sắp đến, ngươi không thể nói năng thật thà như đối với ta được đâu. Ta nói cho ngươi biết mà giữ mồm giữ miệng, bảo toàn cho chính mình!


- Đại nhân…


- Đừng tiếc cho ta. Cuộc đời ta đã nhiều lần trắc trở lắm rồi. Dù bị giáng, bị bổ đến đâu, ta vẫn làm việc với một tôn chỉ: không phải chỉ phò vua, mà chính là an dân. Lý tưởng cả đời của ta, là trị an đất nước.


Nguyễn Chí không giấu được xúc động:


- Đại nhân phải đi lên Thành Hóa, vùng ấy là mạn ngược rừng thiêng nước độc. Chí làm cho đại nhân mắc cái nạn này, vậy Chí phải đi theo lên đó, hết lòng phụng sự mới phải.


Nguyễn Văn Tường xua tay:


- Ngươi cứ ở lại kinh thành. Việc ở Thành Hóa, ta đã tìm hiểu rất kỹ. Hiện nay tuy triều đình đã bãi bỏ lệnh cấm đạo, nhưng ở vùng đó lương giáo vẫn xung đột rất dữ dội. Ngươi đi theo ta, sẽ gây khó cho ta, lợi bất cập hại. Thôi, đủ rồi, ta còn nhiều việc trước khi ra đi.


Vậy là Nguyễn Văn Tường đã biết ta theo Đạo, có thể ông đã biết từ lâu, Nguyễn Chí nghĩ thầm. Con người này thật khó xét đoán: rất đáng nể, đáng quý mà cũng có thể là đáng sợ nữa. Tại sao ông không dùng ta nữa? Có thể vì tình hình ở Thành Hóa, mà cũng có thể vì trong mắt ông, một kiếm sĩ không chịu nhúng tay vào máu thì thật là vô dụng.


Về lại chỗ ở đằng sau phủ, Chí chỉ suy nghĩ thêm vài phút, rồi cởi bộ đồng phục giáp sĩ và chiếc mũ đội trưởng đặt lại trên giá áo.


Mặc lại bộ áo võ kiểu miền Nam, chàng khoác tay nải, ra tàu ngựa tìm con Nem Chua, con ngựa tốt mà chàng đã mua ở kinh đô. Con vật tinh khôn đã tự tìm đường về với chàng sau đêm bị Đinh Đạo bỏ rơi để lên kiệu.


“Nem Chua ơi, theo ta về nhà thôi!” Chí nhớ lại lời Phan Thanh Giản dặn dò trước khi vào trấn nhậm Vĩnh Long: “Tình hình kinh thành đang như quả bóng căng, chưa biết nổ ngày nào. Chí nhất định phải ở lại, trợ giúp cho quan phủ Thừa Thiên.” Giục ngựa ra ngả cổng sau, Chí nghĩ thầm: “Nay quả bóng đã nổ rồi, Nguyễn Văn Tường cũng đi, ta còn ở chỗ này làm gì nữa?”


Chợt có tiếng khóc từ đâu đó vọng lại. Chàng quay đầu nhìn quanh. Tiếng khóc con nít ngằn ngặt, khản rè, vọng ra từ bụi tre bên mé sau khu vực khám đường…


Vất vả lắm Chí mới về đến Bình Định, tìm được đường ghé vào nhà thờ Nước Nhỉ.


Linh mục Đặng Đức Tuấn đã được bổ nhiệm về đây hơn một năm nay. Bõ già đón chàng trước sân nhà thờ, khuôn mặt nhăn nheo sáng lên mừng rỡ:


- Cậu Hai! Cậu đã về! - Sốt sắng đỡ cương ngựa trên tay Chí, bõ hớn hở nói ngay: - Bõ nhớ ơn cậu lắm, hồi đó nhờ cậu khuyên mà bõ không bỏ nhà bỏ cửa trốn đi Sài Gòn. Nói thật hồi đó khổ quá, đâu dám ngờ có ngày được sống bình an như vầy!


- Bõ sống ổn thật hả?


- Thì ít nhất cũng không ai bắt bớ, xua đuổi, được đi nhà thờ, được đọc kinh nguyện, bõ không mong chi hơn vậy nữa!


Chợt nhìn thấy cái bọc sau lưng Chí ngọ nguậy, bõ ghé mắt nhìn kỹ, rồi há hốc miệng:


- Cậu Hai, cậu có con rồi sao?


- Vâng, con tôi đó! - Chí cười cười, nửa đùa nửa thật.


- Mẹ nó đâu? Mà này, chết thật, đứa nhỏ lả đi, khóc không nổi, tội nghiệp quá!


- Thì đó, bõ lập tức kiếm cách giúp tôi với. Đi từ Huế vào đây, toàn phải ghé vào xóm làng xin mấy bà mẹ cho bú nhờ, chứ tôi có vú đâu?


- Hà hà, bõ cũng không có, thôi để bõ nấu ít nước gạo cho nó uống tạm. Trời, có ai dám đem con đi đường xa như cậu, không chết là may lắm! Cậu vào trình Cha đi, ngài đang ở trong tòa đó!


Linh mục Đặng Đức Tuấn gặp lại đồ đệ trong hoàn cảnh dở khóc dở cười. “Thưa Cha, đứa nhỏ bò lọt vào giữa hai thân tre, gió thổi tre nghiêng lúc kẹp lúc nhả, chân nó bị thương bầm tím hết. Chung quanh nhiều người nghe tiếng khóc nhưng không ai dám cứu. Con gỡ nó ra rồi ôm đi, mà cũng không biết mình đang làm gì, có đúng hay không. Rồi làm sao nuôi được đây, khi con chỉ là vú đực không có sữa…”


Đặng Đức Tuấn nhìn chàng trai trẻ, lòng ông ngập tràn thương yêu:


- Trong Đấng Ki-tô mọi người sẽ nhận được sự sống. Mình đang ở trong một thời tăm tối quá con à. Giữa hận thù và tranh chấp, chúng ta sẽ không về phe nào cả, chúng ta chỉ đứng về phía lòng lành.


Bõ già bước lên, đem nước cháo nóng cho đứa bé uống. Cái miệng tí xíu chóp chép, khuôn mặt nhỏ tái nhợt đã bắt đầu có một chút sắc hồng. Linh mục Tuấn bảo Chí:


- Xóm Đạo Nước Nhỉ nay đã có nhà trẻ mồ côi do các ma xơ gầy dựng. Sau này, sẽ chỉ ta và con biết về nguồn cội của đứa nhỏ. - Ông làm dấu thánh: - Xin Thánh mẫu Maria và Đức Chúa Con rủ lòng xót thương.


∞∞∞∞∞


“Á… aaaa…”


Những tiếng kêu thét đau đớn vang lên buốt tai, giữa tiếng chiêng, tiếng trống.


Cuộc hành hình đang diễn ra: mười một chính phạm của vụ nổi loạn bị trói chặt vào cọc, lần lượt bị xử lăng trì xẻo thịt.


Đoàn Trưng và mười đồng phạm, trong đó có sư Quý, tuần tự chịu cực hình dưới tay đao phủ. Trong số mười đồng phạm đó, có cả Đoàn Tư Trực và Tôn Thất Cúc, dù đã chết, nhưng xác vẫn bị đem ra róc xương, xẻ thịt.


Nguyễn Lâm đứng đó, trong đám người chứng kiến. Dù là con nhà võ luôn tập quen với ý tưởng coi thường cái chết, mồ hôi lạnh ngắt vẫn tuôn ra dầm dề khắp người chàng. Những người anh em trước đây từng nói cười, từng chia sẻ tâm sự, giờ chỉ còn là những tấm thịt oằn lên giãy dụa trong cái đau cực độ. Trên bãi cỏ rộng, một mớ hỗn độn máu thịt cứ chốc chốc lại vung ra, mùi máu tanh, những tiếng thét rùng rợn thấu não.


Nguyễn Lâm đang tối tăm mặt mũi, bỗng nghe tiếng ai gọi. Chàng quay lại: một đoàn tù phạm, đàn ông đàn bà đều bị xích vào nhau, cổ mang gông nặng. Giữa đoàn tù, Đoàn Châu tóc rối bời, mặt phờ phạc, vừa chứng kiến xong cái chết của các anh. Mắt nàng trõm sâu, ráo hoảnh.


 Thấy Lâm chạy lại gần, nàng đanh mặt, nhổ một bãi nước bọt:


- Đồ phản bội!


“Im mồm!” Tên lính áp giải vung roi đánh. Một tiếng đét, dấu hằn đỏ tía nổi lên vắt ngang miệng Châu. Châu quắc mắt, đưa lưỡi liếm những giọt máu li ti tứa ra bên khóe môi.


Vậy là Đoàn Châu đã nghĩ, vì chàng không theo nên cuộc nổi dậy mới thất bại. Lâm đau nhói, đứng sững nhìn theo đoàn tù bị giải đi. Cùng với những can phạm khác, Châu sẽ bị lưu đày mãi mãi đến những hoang địa trên vùng cao phía Bắc. Đời này, kiếp này, chắc chàng chẳng bao giờ có cơ hội để thanh minh với nàng nữa.


Cuộc biến loạn đã dẹp yên rồi, nhưng dư chấn của nó vẫn âm ỉ không yên. Trong cung, Thái hậu buồn rầu mang bệnh, cung Gia Thọ đóng cửa không cho ai vào. Trong dinh, phò mã từ một người trai tráng năng nổ như thế, bỗng nhiên trở nên lầm lì, suốt ngày lủi thủi như cái bóng câm lặng. Đêm nằm, Gia Phúc khóc thút thít:


- Chàng không thương thiếp nữa à?


- Có chứ. - Nguyễn Lâm uể oải trả lời.


- Vậy sao chàng không xui thiếp đi ngủ sớm như trước nữa? Ngày chàng không đùa giỡn với thiếp, đêm chàng không bồng thiếp lên giường. Thiếp buồn lắm!


Thấy vợ khóc, Nguyễn Lâm cảm thấy mình tệ. Nhưng cả cơ thể lẫn tâm hồn chàng như rũ liệt, không biết nói sao, không biết làm gì. Muốn thoát khỏi sự trách móc của Gia Phúc, Lâm chỉ biết vùng dậy, đẩy cửa bước ra ngoài, ngồi một mình ủ rũ dưới trời đêm.


Gia Phúc nằm một mình, nước mắt ướt gối. Khóc một lúc, nàng bậm môi ngồi dậy, túm hết chăn, gối ném lung tung bốn phía. Liệng vèo vèo một lúc mà vẫn không hết bực bội, nàng bắt đầu khóc thành tiếng, khóc hu hu như con nít.


Nguyễn Lâm sợ chung quanh nghe thấy, vội bước vào. Thấy cả một mớ gối mền tung tóe, chàng trừng mắt:


- Khùng hả? Nàng có im đi không? - Nói rồi chàng bước tới chụp tay, bụm miệng vợ. Gia Phúc uất ức túm lấy chồng, nàng thụi bụp bụp vào bụng Lâm. Lạ thật, càng thụi nàng thấy cơn tức tối càng dịu đi.


Nguyễn Lâm thấy vợ nổi hung thì quá ngán ngẩm, lại càng tắt nguội hết hứng thú với vợ. Dù sao cũng phải nể bà chúa, nên chàng đành lòng đứng im, gồng bụng chịu trận để nàng đấm cho thỏa thích.


Từ đó cứ năm ba bữa yên lành, lại một trận bì bụp loảng xoảng. Chị dâu cả Thanh Lam ở nhà đối diện nghe ngóng, mách lại với phu nhân. Phu nhân chỉ biết thở dài, rơm rớm nước mắt:


- Con gắng sinh cho nhà họ Nguyễn Tri đứa con trai. Chớ vợ chồng Lâm hục hặc như rứa, chắc không trông chi rồi!


“Dạ, con xin cố gắng.” Thanh Lam thưa, giọng nàng nhỏ nhẹ rất ngoan nhưng chất chứa lo âu! Bởi nàng cũng không biết gắng bằng cách nào đây. Hai năm qua, vợ chồng Nguyễn Ngọc hai lần sinh, chỉ toàn con gái. Nhiều lần phu nhân lo buồn: “Hay là do đại tướng nhà ta theo nghiệp võ, đánh giặc liên miên, e oan hồn chất chứa có hại đến đường nối dõi?” Nghĩ vậy cứ đến lễ xá tội vong nhân, bà lại đích thân sắm sửa lễ vật cúng thật to. Từ bao lâu nay, gia nhân trong dinh cả năm cứ mong tới ngày rằm tháng bảy, để được một dịp ăn xôi chè thỏa thích.


Một ngày giữa tháng mười một, trong dinh nhộn nhịp hẳn lên: đại tướng đã về.


Nguyễn Tri Phương về lần này rất vẻ vang, khác hẳn lần trước. Nhà vua truyền làm nhà nghênh tiếp ngoài cửa thành Tây Bắc, treo đèn kết hoa để tiếp đón đoàn quân chiến thắng. Hai đại thần hàm thượng thư trịnh trọng ra đón, đưa đại tướng vào trong điện. Vua thân hành ra thềm cầm tay ngợi khen, rót rượu ban cho, lại đem áo gấm đỏ mới may khoác lên người ông. Dân trong thành nô nức đi xem lễ “ban sư hồi trào” của tướng Phương, phần nào quên đi cái không khí lo buồn ngơ ngác lâu nay.


Về dinh, đại tướng thăm hỏi chuyện nhà. Ông quát cho Lâm một trận:


- Là nam nhi thì phải trái rõ ràng, trắng đen phân biệt. Mi là con nhà võ, nên theo hay nên chống, nên giết hay nên tha càng phải dứt khoát trong chớp mắt. Phò vua diệt giặc, có chi mà hối tiếc?


Trong nhà, thực sự Lâm chỉ nể phục cha. Một tiếng quát của đại tướng, giống như tiếng pháo lệnh làm thần trí chàng tỉnh lại. Dù sao mọi chuyện đã qua rồi, không còn cách gì đảo ngược lại được nữa. Dù sao trong cuộc đời, nhiều khi phải chấp nhận: cái gì đã mất là phải chấp nhận mất, nếu không muốn mất tiếp luôn cả tương lai…


Nguyễn Lâm dần hồi phục. Trong phòng the, Lâm đã bớt ăn đấm của vợ. Bây giờ chàng đã biết cách trị, mỗi lần nàng giở cái thói bắt nạt ra, chàng lại dúi cổ nàng xuống giường, giở cái chiêu mà chàng thường gọi là “Phụng áp kỳ hoàng”, phượng trống đè phượng mái. Ban đầu nàng vùng vẫy nạt nộ, rồi sau nàng chỉ cười rúc rích. Một thời gian nữa thì cứ mỗi lần bị nàng đấm đấm vào bụng, Lâm hiểu ngay là vợ mình ra hiệu: “Thiếp đang thích đây”.


Đến giữa tháng sáu, Gia Phúc được ban ân: nàng chính thức được phong tước, lấy danh hiệu là Đồng Xuân. Nguyễn Lâm cũng được chính thức phong Cẩm y Hiệu úy. Bộ Hộ chuyển đủ kinh phí cho Bộ Công, xây phủ riêng cho công chúa và phò mã.


Trong bữa tiệc mừng phủ mới, Hồng Hưu vâng mệnh Thái hậu đem quà đến ban cho. Cả hai vợ chồng nhận ơn, lạy tạ trước hương án. Hồng Hưu thấy em gái út nay khác trước, đứng lên quỳ xuống lễ mễ nặng nề, không thanh thoát nhí nhảnh như xưa. Bất giác tâm trạng Hồng Hưu buồn buồn, như vừa mất đi một điều gì không rõ.


Lúc vào tiệc, Hồng Hưu nói với Nguyễn Lâm:


- Hình như công chúa em ta đã có tin mừng! Nếu quả vậy, ta chia vui cùng phò mã!


- Xin tạ ơn Đức ông. Quả thật công chúa đã thèm chua từ mấy tháng nay rồi. Có khi cả ngày chẳng ăn gì ngoài mấy trái khế chấm muối ớt.


“Vậy là bữa nay hắn đâu có thèm bánh đúc mật nữa.” Hồng Hưu nghĩ thầm, nhớ tới những kỷ niệm anh em cùng trốn đi chơi với nhau khi trước.


- Bẩm, chẳng hay trong cung Thái hậu có được an mạnh?


Nghe Lâm hỏi, Hồng Hưu khẽ giật mình.


- Hôm qua ta vừa vào vấn an, Thái hậu nay đã gượng được phần nào. Hoàng nghĩa tử đã được đón vào cung, có cháu nhỏ nô đùa nên bà khuây khỏa nhiều lắm.


Nghe nhắc đến hoàng nghĩa tử, con nuôi của nhà vua, các quan chức ngồi cùng bàn đều chú ý lắng nghe.


Một vị để râu quai nón hỏi:


- Bẩm Đức ông, hoàng nghĩa tử nghe đâu là người bên phủ Kiên Quốc?


- Vâng, chính vậy. Hoàng nghĩa tử là Ưng Thị, năm nay mới lên hai tuổi, vốn là con đầu lòng của Hồng Cai em ta.


- Bẩm, con trai các công phủ rất đông, sao Hoàng thượng lại chọn trong phủ Kiên Quốc? Sao không chọn các công tử của quý phủ?


Gia Hưng công Hồng Hưu thoáng sa sầm mặt, nâng chén rượu lên, gạt đi:


- Ôi, ai mà biết được vì sao? Chỉ thấy sau khi hoàng nghĩa tử vào cung, Hoàng thượng sai bà Thiện nuôi dưỡng.


- Vậy là xem như Thiện phi đã có con trai, thật bà ấy phước lớn lắm! - Viên quan râu quai nón gật gù tán suông.


Hồng Hưu không đáp, quay sang tiếp chuyện Đại tướng Nguyễn Tri Phương cùng phu nhân đang bước ra chào. Thật ra, trong cung cũng không ai ngờ Thiện phi lại được chọn làm mẹ nuôi hoàng nghĩa tử, bởi ai cũng biết dạo này Hoàng thượng không thương yêu nàng như trước nữa. Nhưng, tình cờ chầu hầu vào đúng cái đêm kinh hoàng ấy, nàng suýt nữa phải chết theo vua dưới bàn tay loạn quân. Vậy là nàng cũng được xem như có công hộ giá: sau khi Hồ Oai, Trung Lương cùng một số võ quan được ban khen, Nguyễn Lâm và công chúa được mở phủ, thì Thiện phi cũng được ân thưởng một ông hoàng nhỏ. Đứa con này, nàng không sinh, ngược lại đã tái sinh cuộc đời nàng, và khôi phục cho nhà Nguyễn Đình cái thế lực tưởng chừng đã mất.


Trong lúc ở bàn thượng các quý tộc và đại quan viên đang nói về vị hoàng tử nhỏ, thì ở các bàn hạ, mấy ông quan nhỏ hơn đang thì thầm rỉ tai về những chuyện không ai dám nói to:


- … Giờ thì bí bách nhất là Tùng Thiện công, biết tính làm sao với đứa con gái, và thằng cháu ngoại?


- Bản án đã ghi rõ cả rồi! Vợ của Đoàn Hữu Trưng trước đã bị nhà chồng đuổi, coi như vô can nên được tha, cho gọt tóc đi tu. Lẽ ra theo luật thì vợ phản tặc ít nhất phải phát vãng làm nô tỳ! Còn thằng con thì giao cho xã trưởng xã An Truyền nuôi, chờ đủ mười sáu tuổi mới xét án.


- Vậy là mẹ một nơi con một nơi. Sảy đàn tan nghé, cha làm con chịu, tội nghiệp!


- Thương thì thương thật, mà so với hình pháp từ xưa, thì như vậy là nhẹ nhất. Đệ làm bên Bộ Hình, đệ biết. So với án tru di cả họ Lê Văn Duyệt thời thánh đế Minh Mạng, thì nhà họ Đoàn năm nay tuy bị án tru di nhưng số người bị giết cũng chỉ gồm những chính phạm thôi. Hồi trước, con của nghịch Khôi mới bảy tuổi đã bị xử lăng trì đó! Án Đoàn Trưng thì giảm tội cho hầu hết con nít, con cái các tội phạm đầu sỏ tổng cộng mười đứa đều được hoãn xử, chỉ bị chia ra đem đi quản ở các nơi, chờ đủ mười sáu tuổi …


- Đủ mười sáu tuổi lại đem xử, thì khác chi xử quách bây giờ?


- Ậy, quan bác nói thế sao được, còn sống còn cơ hội chớ?


Chương 25


Người học trò già bên bờ biển


- Hôm nay Tộ về Vĩnh Long là để chào từ biệt đại nhân. Tộ vừa nhận được lệnh của bộ Công ngoài Huế gửi vào! - Nói rồi Nguyễn Trường Tộ mở cuộn giấy trên tay: một bức công văn viết bằng chữ Hán.


“… Thừa Hoàng thượng chi khẩu dụ, kim triệu giáo dân Nguyễn Trường Tộ lai kinh, dĩ đàm luận ư Bắc kỳ tầm khai khoáng sản chi sự…” - (Theo lời dạy của Hoàng thượng, cho vời giáo dân là Nguyễn Trường Tộ ra kinh đô để bàn bạc về việc tìm mỏ và khai mỏ khoáng sản ở miền Bắc.)


Phan Thanh Giản đọc, vui mừng:


- Thầy Nguyễn! Gần mười năm nay thầy kiên trì ngồi viết cả chục bản điều trần, nhiều người nói là hoang tưởng, khùng điên. Nay bắt đầu có kết quả rồi đó! - Phan Thanh Giản đặt tay lên vai Trường Tộ: - Vậy là vụ biến loạn đã đánh động dữ dội đến tận gốc rễ, nên Hoàng thượng cùng triều đình đã thấy cần thay đổi!


Nguyễn Chí đang đứng hầu bên cạnh, dè dặt:


- Thưa, từ việc tìm mỏ đến việc có nền công nghiệp là cả một chuyện rất lâu dài, trong khi việc của nước ta gấp rồi! Như vậy có nên không?


Phan Thanh Giản gật gù:


- Theo ta, việc tìm mỏ chỉ là cái cớ để Hoàng thượng triệu Trường Tộ ra kinh hỏi chuyện. Đã nhiều lần ta thúc giục việc này, nhưng quá nhiều người ngăn trở. Giờ đây, vậy là đã có biến chuyển. Điều quan trọng là làm sao được bệ kiến Hoàng thượng, làm sao thuyết phục được ngài.


- Dạ, Tộ biết. Tộ tuy có đề cập việc khai khoáng, nhưng đấy không phải việc đầu tiên. Ước vọng của Tộ hiện nay thiết thực và dễ làm hơn nhiều: mở cho được một trường kỹ thuật, và một tờ báo. Đó là phần xác và phần hồn của cuộc canh tân. Còn về đối ngoại, bằng mọi cách phải đặt quan hệ với nước Anh, hiện thời là kình địch của Pháp.


Phan Thanh Giản gật đầu tán thành:


- Đây là cơ hội của thầy, mà cũng chính là cơ hội của người dân Đại Nam. Thật ta mừng vô kể.


Trường Tộ cúi đầu:


- Tộ sẽ hết sức cố gắng. Xin bái biệt đại nhân. Hai Chí, hiền đệ hãy cẩn thận bảo vệ Phan học sĩ. Đừng tưởng miền Nam không có những chuyện đáng lo như đã xảy ra ở kinh thành.


Cuối năm, Nguyễn Trường Tộ lại quay vào, lần này không kịp về Vĩnh Long vì đang vội cùng Giám mục Gautier Hậu chuẩn bị đi Pháp. Thư Tộ gửi về cho biết: “Hoàng thượng đã chuẩn y kế hoạch xây dựng trường kỹ thuật, ủy cho Tộ mời Giám mục Hậu cộng tác, lần này sang Tây mua sắm vật liệu, tuyển người sang dạy việc, và...”


Thư Tộ chỉ dừng ở chữ “và”, nhưng Phan Thanh Giản và Nguyễn Chí đều hiểu là “… và tìm cách liên lạc với nước Anh.”


Hôm đó Phan Thanh Giản vui ra mặt, mặc dù sáng hôm ấy ông vừa nhận thêm hai nỗi âu lo. Một là chiếu thư của Hoàng đế Tự Đức gửi từ kinh đô, quở trách ông: “Sai ngươi vào trấn nhậm Vĩnh Long, ý Trẫm là để ngươi ở gần Sài Gòn, tìm cơ hội thương thuyết với Pháp súy, may ra chuộc lại đất đai ba tỉnh. Nay đã mấy năm, thời gian thăm thẳm, không thấy một tin vui gì?...”


Thư thứ hai, lại chính là thư của Pháp súy, trách ông “Triều đình không ổn định được ba tỉnh miền Tây, để cho “giặc cướp” trú ngụ trong bưng biền, kéo sang ba tỉnh nhượng địa miền Đông đánh phá. Theo hòa ước thì địa phận ai người ấy đóng, nay nếu quan Kinh lược không quản nổi giặc cướp để chúng sang quấy nhiễu, thì bắt buộc Pháp súy phải xin quản luôn ba tỉnh miền Tây để lập lại trật tự trong sáu tỉnh.”


- Hừm, chúng dùng chữ “giặc cướp” để chỉ nghĩa quân, không rõ là do hiểu lầm hay do muốn chọc giận ta? - Nguyễn Chí tức giận.


Phan Thanh Giản không để ý đến chuyện ngôn từ, vì còn băn khoăn những điều khó nghĩ hơn.


- Hoàng thượng cứ khăng khăng đòi chuộc đất. Ôi, phải chi Ngài quên cái ý nghĩ đem đống tiền đi chuộc đất ấy đi, để lo cho dân đủ ăn, đủ mặc, đủ học hành trong những vùng còn lại! Càng bám theo việc chuộc đất, công quỹ càng cạn, dân càng nghèo, oán thán càng tăng, lấy đâu mà nói chiến chinh?


Nguyễn Chí se lòng. Không biết làm gì để san sẻ, chàng lặng lẽ đến gần, cầm quạt phe phẩy đuổi muỗi cho ông. Trời tháng ba, ở miền Nam đang là tháng nóng bức nhất.


Phan Thanh Giản quay lại, hỏi:


- Hôm qua Trương Vĩnh Ký có gửi tặng chục tờ Gia Định báo, cháu đã cho đưa đến các trường học chưa?


- Dạ rồi! Lúc đưa đến các trường, cháu cũng đã nói rõ là để học trò nào có học “chữ Việt mới” thì xem thêm cho mau nhớ mặt chữ.


“Chữ Việt mới” mà Chí nói đây, là chữ Việt phiên âm bằng mẫu tự La tinh ABC, mà cố đạo Alexandre de Rhodes đã hoàn chỉnh trong thế kỷ 17.


- Bẩm đại nhân, - Chí ngần ngừ nói tiếp - Có trường thu lấy cho học trò đọc, nhưng cũng có trường cả thầy lẫn trò trả lại, hoặc đem ra đốt, họ nói là thứ chữ này của Đạo, của Tây!


- Ta cũng đã lường trước chuyện đó. Nhưng mười trường chỉ cần một hai trường tiếp nhận đã là mừng. Đây là tờ báo đầu tiên của nước ta. Trường Tộ đã xin mãi với triều đình cho làm một tờ báo mà không được. Để có tờ Gia Định báo này, Trương Vĩnh Ký đã buộc lòng phải dựa vào Pháp súy.


- Dạ, chính vì đó người ta mới chống đối. Nhiều người nói ông Ký theo Tây, ăn lương của Tây. Thì, tờ báo này là của Tây, chữ này là của Tây, mà đã là Tây thì tức là giặc. Họ nói người Việt ta chỉ cần chữ Nho, chỉ cần đạo lý thánh hiền.


- Trương Vĩnh Ký từng đi theo sứ đoàn của ta, ta biết rõ con người y. Năm ngoái, Pháp súy mời ra làm quan, nếu thích vinh thân phì gia thì Ký đã đồng ý rồi. Vậy mà y từ chối, chỉ muốn làm báo. Ký hiểu vai trò của chữ Việt mới trong việc canh tân đất nước. Chữ Nho, chữ nôm đều rất khó học. Người Việt ta đa số mù chữ cũng vì vậy!


Chí lặng im, không nói. Phan Thanh Giản lại hỏi:


- Này cháu, Trường Tộ có nói bao giờ thì hắn về không?


- Dạ, huynh ấy có nói ít nhất cũng cuối năm nay mới về đến Sài Gòn.


Ánh mắt Phan Thanh Giản lóe lên một vẻ vui:


- Cầu mong cho hắn thuận buồm xuôi gió, đi đến nơi về đến chốn. Ta cầu trời cho vận nước thư thư được thêm năm năm, mười năm, đủ thời gian cho những hạt giống mới mọc lên…


Đêm dần khuya. Nguyễn Chí túc trực ngoài hiên, nghe tiếng ông ngâm mấy câu thơ, giọng trầm trầm khàn đục:


“Từ ngày đi sứ đến Tây kinh,


Thấy việc Âu châu phải giật mình


Nhắn nhủ đồng bào mau kịp bước


Hết lời năn nỉ chẳng ai tin…”


Lúc ấy, Phan Thanh Giản dù rất cô đơn, nhưng lòng vẫn đầy hy vọng. Ông không ngờ: mình sẽ không bao giờ còn gặp lại Nguyễn Trường Tộ.


∞∞∞∞∞∞


Tháng sáu năm ấy, tàu Tây đến trước thành Vĩnh Long, đưa chiến thư cưỡng bách giao nộp ba tỉnh miền Tây.


Phan Thanh Giản gọi các quan tướng dưới quyền, nói rõ quyết sách, dặn dò mọi việc. Xong đâu đấy, ông gọi Nguyễn Chí.


Chí bước vào. Trước mặt chàng, Phan Thanh Giản mặc áo đoạn đen, đầu vấn khăn chữ nhất, ngồi rất thung dung trên tràng kỷ.


Trên chiếc án nhỏ bên cạnh là một gói bọc nhiễu điều.


-  Chí, cháu hãy mở gói ra xem.


Chí vâng theo. Trong gói là áo mũ đại thần của Phan Thanh Giản.


- Cháu hãy nghe đây, đây là việc cuối cùng ta giao cho cháu.


- Dạ, xin đại nhân cứ dạy.


- Pháp súy gửi chiến thư, bắt giao ba tỉnh. Sáng nay, ta đã viết thư phúc đáp, hứa sẽ giao thành. Ta yêu cầu giữ an toàn cho trăm họ, không được giết chóc, tàn phá.


Nghe đến đó, Chí giật mình ngẩng phắt lên, bất giác phác một cử chỉ kháng cự. Phan Thanh Giản khẽ đưa bàn tay ngăn lại:


- Ta biết, cháu cũng như các quan chức sáng nay, không ai chịu buông gươm nhanh chóng như vậy. Nhưng ta đã nghĩ kỹ lắm rồi. Một trận Kỳ Hòa, quân ta có thừa dũng khí, nhưng kết quả quân sĩ chết hàng vạn, kho đụn cháy sạch, của cải khánh tận. Nay thành Vĩnh Long không vững chắc như thành Kỳ Hòa, quân số của ta không bằng một phần ba quân số của Nguyễn Tri Phương. Vì vậy ta quyết định giao thành để bảo toàn cho tất cả quân dân, chỉ mất một mạng ta là đủ.


Nguyễn Chí nghiến răng, cố nén. Phan Thanh Giản vẫn điềm tĩnh:


- Đây là áo mũ Hoàng thượng ban cho, nhờ cháu đem về Kinh, đến bộ Lại giao nạp. Trong lá thư này ta đã dặn kỹ, Pháp súy đã đồng ý với ta khi vào thành không xâm hại dân lành, không đốt cháy kho tàng, tất cả thóc lúa trong kho sẽ tính khấu trừ một triệu đồng bạc trong số chiến phí mà triều đình chưa trả nổi. Một triệu đồng Phật Lăng, đối với nước ta bây giờ là to lắm! Thôi cháu đi đi. Đừng quay về Nam nữa. Cháu có về… cũng không còn miền Nam nữa, và cũng không còn ta nữa đâu!


Chí cầm gói mũ áo, nghẹn ngào. “Đại nhân, xin cho Chí được ở lại hầu cận đại nhân đến phút cuối.” Phan Thanh Giản lắc đầu, giọng đanh lại:


- Ta bảo đi đi! Việc ta đến đây là hết. Nhưng việc ngươi còn dài. Khi nào hết giặc Tây ngươi sẽ có ngày về, nhưng chắc còn lâu… Lâu lắm!


Chí ra đến cửa, tần ngần dừng chân ngoái lại. Phan Thanh Giản chỉ xua tay, nhắm mắt.


Chí đi rồi, Phan gọi người đem đến một tấm lụa trắng. “Ta muốn tự viết minh tinh cho ta, sắp phải dùng đến rồi.”


Minh tinh là tấm phướn trắng mở đường khi đưa quan tài ra huyệt, trên ghi chức tước, tên tuổi, quê quán của người chết.


Hôm nay Phan Thanh Giản tự viết lá phướn cho mình, ông chỉ ghi mấy chữ:


“Hải nhai lão thư sinh tính Phan chi cữu” - Quan tài của người học trò già họ Phan ở ven biển.


Phan Thanh Giản, người đầu tiên đậu Tiến sĩ ở Nam kỳ, nhất phẩm đại thần triều Nguyễn, phút chót nhìn lại cuộc đời mình đã không dám nhắc đến chức phẩm cũng như quê quán. Ông tự biết, mình đã không đáp lại lòng trông cậy của triều đình cũng như dân chúng.


Biết làm sao được, thế nước đang như một guồng tơ rối đẫm máu. Từ vua đến dân đều đòi hỏi ông phải tháo gỡ chỗ rối ấy ngay lập tức, nhưng điều ấy chỉ làm được nếu có phép lạ.


Phép lạ ấy, ông không có. Giao xong ba tỉnh miền Tây, Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự vẫn.


Chương 26


Bài thuốc cai sữa


Hơn một tháng từ lúc sinh con trai, Gia Phúc bị vú Nhự canh chừng như canh tù. Từ lúc ra ở phủ riêng, nàng đã chính thức là chủ nhân, ngay cả phò mã cũng không tranh hơn được với vợ. Nô tỳ thì một mực chỉ biết dạ vâng, chỉ có vú Nhự mới dám lớn tiếng kềm thúc nàng.


Mà có phải vú bó buộc gì đâu, chỉ là giữ cho nàng nằm yên trong phòng khuê. Gia Phúc cứ vùng vằng:


- Ta sinh con, đau thế này, vất vả thế này, mà phò mã chẳng thương tưởng gì đến ta.


- Phò mã không đến đây được! Đàn bà mới sinh, phong long nặng lắm, nếu phò mã đến là sẽ mắc phải vía xui, nguy hiểm lắm!


- Ai nói vậy? - Gia Phúc không tin.


- Ông bà ta truyền lại, xưa bày, nay làm, có kiêng có lành mà.


Gia Phúc bĩu môi:


- Vú thì ai nói gì cũng nghe. Người ta bày đặt ra cái chuyện phong long, để cho các ông chồng thoải mái bỏ vợ mới sinh mà đi chơi đó.


- Công chúa nói vậy phải tội với trời. Nếu ông bà có bày ra, thì chính là để an toàn cho đàn bà mới sinh nở. Nhiều ông chồng ác lắm, thê thiếp mới sinh chưa đủ tháng mà đã bắt hầu hạ chăn gối, đến nỗi nhiều bà mắc sản hậu mà chết. Bởi vậy tục ở quê vú ngày xưa, nhà nào đơn côi không ai phụ giúp thì chồng phải đem cơm cho vợ, nhưng mỗi lần đem cơm phải đứng ngoài lấy đòn gánh thòng gióng cơm vô trong, chớ nhứt định không được vô buồng…


Gia Phúc bật lên cười hinh hích. Vú Nhự cúi xuống khều cho chậu than nóng lên, rồi đẩy chậu vào ngay dưới giường. “Ui cha, nóng, nóng quá, vú nướng ta đấy hả?”


“Công chúa chịu cực một chút đi! Làm đàn bà, sinh đẻ, phải chịu khó ăn cay, uống đắng, hơ than, bôi mặt, thì mới trẻ đẹp được lâu dài. Chịu khó đi, vú làm cho…”


Mặc kệ Gia Phúc nhăn nhó, vú lần lần cởi hết áo xống Gia Phúc, cởi cả chiếc “cẩm đương” - quần lót nhỏ bằng gấm. Chăn nệm đã lôi ra hết, Gia Phúc nằm phơi trần trên chiếc chiếu ấm ran hơi lửa. Nàng hơi co hai chân lên, như muốn che bớt cơ thể, nhưng vú Nhự đã kéo chân nàng thẳng ra, rồi thoăn thoắt nhúng tay vào một bát nghệ tươi giã lẫn với đinh hương, xoa đều lên khắp đùi, vế, nách, rốn, vào cả những ngóc ngách nhạy cảm nhất. Cả thân thể trắng mịn của nàng dần dần nhuộm trong màu vàng tươi, chỉ chừa lại hai trái vú căng sữa.


“Nhột quá vú ơi, tha cho con đi.” Gia Phúc bất giác xưng con với vú Nhự. Nàng bỗng cảm thấy mình yếu đuối, bắt đầu sụt sịt khóc. “Không được khóc! Mới sinh mà khóc, sau này già mắt mau lòa lắm đó!”


“Khi nào già hẵng hay!”, Gia Phúc vùng vằng.


Vú Nhự không trả lời, lẹ tay ném một nắm đầy những cục sần sùi nho nhỏ vào than đỏ. Đó là nhựa cây chai, dân gian thường gọi là chai phà. Nhựa chai phà cháy xèo xèo trong than nóng, bốc khói. Vú Nhự vạch chiếu, kéo căng hai chân Gia Phúc cho khói xông vào ngay cửa mình.


- Công chúa phải chịu khó nằm im, khói này là khói trừ tà! Sau sinh phải xông  “chai phà” thật kỹ thì “con bướm” mới se khít, háp thêm mấy lá trầu không nữa là xong. Đến đầy tháng mình mẩy lại đẹp như con gái đó!


Mặc kệ vú Nhự dỗ dành, Gia Phúc cứ gác hai tay lên mặt. “Hôi hăng quá, ta không chịu nổi!” Nàng thở dài rên rỉ như đang chịu hình phạt dưới địa ngục.


Ba tháng trời vợ phải nằm ổ, Nguyễn Lâm một mình điều hành cơ ngơi trong phủ. Chàng không hề bước đến phòng vợ nằm, một phần là theo tục lệ, một phần vì bực mình: Lúc rặn đẻ, Gia Phúc đau quá đã gọi tên chàng mà chửi, làm chàng cảm thấy mất mặt với mẹ mình - lúc ấy Nguyễn Tri phu nhân đang ở lại trong phủ để lo cho “bà chúa dâu” sinh đẻ.


“Con đã nói rồi, hắn là yêu tinh hiện vào nhà này, khắp thiên hạ không có một người vợ nào tệ như hắn.” Lâm hậm hực nói với mẹ.


Nguyễn Tri phu nhân từ ngày có cháu nội đích tôn thì bồng ẵm luôn tay, không chịu giao cho người hầu. Nghe Lâm nói, bà cự nự:


- Đàn bà sinh đẻ, sống chết trong đường tơ kẽ tóc. Lúc thập tử nhất sinh, nói chi kêu chi mặc tình, ai mà nỡ trách! Bà chúa muốn chửi sao thì chửi, miễn là sinh cho mạ cái thằng cu ni là được.


  - Đẻ đau lắm hở mạ? - Lâm ngạc nhiên. Hồi còn nhỏ chàng đã từng tò mò chực xem con chó có bầu đến kỳ đẻ. Nó đẻ nhanh lắm, chỉ chạy rối rít quay vòng vòng một chốc đã rặn ngay ra ba bốn con chó con mập ù. Nhìn đứa con trai còn đỏ au đang ngủ trong tay bà nội, chàng chặc lưỡi:


- Con nít sanh ra, mấy tháng nó mới mở mắt?


Mấy thị tỳ đang đứng gần đó nghe phò mã nói, đưa mắt nhìn nhau cố nín cười. Nguyễn Tri phu nhân lườm con, thở một hơi ngao ngán:


- Mới sanh nó ngủ nhiều, chớ có phải như chó đâu mà mấy tháng mới mở mắt? Thôi đi lên nhà trên mà ôn văn luyện võ, việc đàn bà con nít, uế lắm, thắc mắc làm chi?


 Đủ ba tháng mười ngày, Gia Phúc được vú Nhự “đổ phong long”, bao nhiêu đồ dùng trong khi nằm cữ đem đốt hết. Tắm nước thơm xong, nàng bước ra hiên. Nguyễn Lâm nghe nói hôm nay vợ hết phong long thì từ sáng đã đi lui đi tới trước hiên có ý chờ. Thấy Gia Phúc, chàng mở to mắt: công chúa bây giờ trắng nõn trắng nà, trắng còn hơn cả lụa, dịu còn hơn cả sữa. Cả người nàng múp tròn, hơi đẫy ra một chút nhưng da thịt mũm mĩm non tơ như em bé, khiến chàng nhìn không chớp mắt.


Gia Phúc thấy chồng thì tủi thân, nàng đưa tay đẩy chồng ra, mếu:


- Đẻ đau, nằm chèo queo cả mấy tháng không thấy mặt chàng đâu!


Nguyễn Lâm vẫn định bụng chờ hết tuần kiêng cữ, sẽ nói cho ra ngô ra khoai cái việc réo tên chàng mà chửi trên giường đẻ. Nhưng bây giờ thấy nàng dễ thương quá, lại còn làm nũng khóc mếu, chàng không cầm lòng được, ôm lấy vợ. Thôi thôi, nàng muốn trách móc gì cũng được, mình là trượng phu quân tử chẳng nên chấp nhặt đàn bà.


Những ngày cùng nhau cưng nựng con trai bé bỏng là những ngày hạnh phúc nhất của đôi vợ chồng trẻ, và cũng là lúc họ cãi nhau nhiều nhất. Nguyễn Lâm sáng ngủ dậy, vừa búi tóc đã vội gọi vú Nhự bồng cu Quắc vào - đứa bé được đặt tên là Nguyễn Tri Kiểm, nhưng theo tục lệ khi còn nhỏ chỉ gọi bằng “tiểu tự”. Cu Quắc thấy mẹ thì bắt hơi, khóc ầm lên đòi, Gia Phúc phải vội vạch bầu sữa căng thơm mùi lá nếp cho con bú. Nàng quạu cọ:


- Thiếp chưa kịp rửa mặt, quấn tóc, làm gì mà rối cả lên!


Nguyễn Lâm chỉ cười hì hì, mặc cho bà chúa muốn cáu thì cứ việc cáu. Chàng nhìn thằng bé mê mải bú mẹ, trầm trồ:


- Nhìn cái trán thằng cu Quắc này, giống hệt như trán ta. Sau này lớn lên anh hùng thượng võ giống ta là cái chắc.


Gia Phúc nhăn mặt kêu oái một tiếng, “Ui cha”. Con trai đã hơn tám tháng, bắt đầu có răng, thỉnh thoảng ngứa răng nó cắn vào vú nàng đau nhói. Hít hà một lúc, nàng quay sang chồng, bàn bạc rất nghiêm trang:


- Sau này, mình phải tìm người thật giỏi dạy võ nghệ cho nó, để cho nó phải đệ nhất thiên hạ mới được.


- Sao phải mời thầy, ta đây không dạy con được sao, ai cho bằng ta.


- Chàng dạy thiếp một môn khinh công mà cả năm không đâu vào đâu… Giờ lại đòi dạy con!


- Học khinh công không thành là tại nàng dốt, sao lại trách ta? - Lâm hậm hực.


Cái tiếng “dốt” chạm vào nỗi đau sâu sắc của Gia Phúc. Nàng nhớ lại những lời chê bai của Tiệp dư Phu Tử khi nàng còn nhỏ. Ừ, có thật mình dốt? Cúc Tần chỉ là một ả thị tỳ, nó học lúc nào và học với ai mà giỏi khinh công như vậy? Tại sao mình không giỏi như hắn được?


Gia Phúc ấm ức:


- Chàng dạy gì đâu mà dạy, ra ngoài vườn cứ toàn ôm thiếp, bảo thiếp học sao được?


- Hả? Ai ôm ai? Làm như có mỗi mình ta thích thôi sao? - Lâm hùng hổ, chàng tiện dịp đem chuyện nàng chửi chàng hồi rặn đẻ, kể tội nàng một trận.


Gia Phúc nghệch mặt ra, bẽn lẽn: “Thích thì cả hai đều thích, mà đau đẻ chỉ một mình thiếp đau. Nên chi thiếp chửi chàng chứ sao? Khi đó người ta đau bắt quớ, kêu réo những gì, bây giờ thiếp đâu có nhớ?”


Thấm thoắt đến ngày thôi nôi của cu Quắc. Rồi thêm mấy tháng sau, sữa của Gia Phúc đã trong như nước. Vú Nhự lựa ngày đẹp trời mát mẻ để pha thuốc cai sữa cho công tử.


“Hùng hoàng, khinh phấn, chu sa, hoàng đơn, mỗi thứ một chỉ. Ba quả sơn chi rang cháy...” Vú vừa lẩm nhẩm vừa cho tất cả vào cái cối đá trắng, giã nhuyễn như bột. Giã xong, vú lâm râm khấn mười hai bà mụ ở trên trời, rồi hòa tất cả vào một bát dầu mè.


Bưng bát thuốc vào chỗ cu Quắc đang ngồi trong lòng mẹ, vú lấy bút lông nhúng vào, rón rén đến bên, chực vẽ lên lông mày đứa trẻ.


Nguyễn Lâm thấy vậy, cau có:


- Da trẻ còn non, vẽ thuốc lên da có sao không? Xưa nay ta chưa nghe ai nói cai sữa kiểu này bao giờ? Mấy thứ bột này, dược tính nó ra sao. Vẽ lên da mà lại tác động tới cái chuyện ăn bú, rồi có hại gì cho tỳ phế không?


Gia Phúc trề môi:


- Phương thuốc này từ trong cung ban ra. Chàng sinh trưởng ở dân gian, sao biết được mà hỏi, hãy bớt chộn rộn đi.


- Hả? Con nít nào cũng là con nít, sinh trong cung hay sinh ngoài đồng thì da thịt cũng như nhau, nàng đừng có ỷ thế!


Vú Nhự thấy Nguyễn Lâm gay gắt, vội thưa:


- Bẩm phò mã! Nô tỳ tuy không biết về thuốc, nhưng từ lúc vào cung thấy thái y vẫn dùng bài thuốc này cho các hoàng nam hoàng nữ, qua nhiều đời vẫn thấy an toàn lắm!


- Vú làm cho cẩn thận, thằng nhỏ mà có làm sao thì mẹ ta sống không nổi đâu. - Lâm đấu dịu.


Gia Phúc nguýt dài:


- Thiếp sinh ra nó, chứ ai sinh?


Lâm không cãi nhưng mặt sa sầm. Trong ý nghĩ của chàng, câu nói vừa rồi của Gia Phúc là rất hỗn hào.


Vú Nhự thấy hai chủ nhân căng giọng, vội khẽ khàng lên tiếng:


- Dạ, nô tỳ xin vô phép vẽ lông mày cho công tử. Xin công chúa và phò mã tạm giữ yên lặng để nô tỳ khấn bà mụ.


Đôi vợ chồng trẻ đành ngậm thinh. Vú Nhự rì rầm một lúc rồi đưa bút lông vẽ mày cho cu Quắc. Chất bột ướt quệt lên da làm thằng bé thấy nhột, cười lên hinh hích, phô hàm răng sữa trắng như bắp non.


Qua hôm sau, như có phép thần thông, cu Quắc không đòi vú mẹ nữa. Gia Phúc thì vật vã vì đau tức sữa. Thấy vợ đau đớn kêu rên, Nguyễn Lâm lại thấy thương nàng vô hạn. Chàng ôm vợ vào lòng dỗ dành, bảo vú Nhự đưa cơm vào tận giường để chàng đích thân đút cho nàng ăn.


Gia Phúc nhân dịp được chồng cưng, càng làm nũng tợn. Đau một thì nàng bíu lấy chồng, kêu khóc gấp mười. Vú Nhự thở phào, nói với gia nhân:


- Vậy là xí xóa hết chuyện hôm qua rồi đó! Không thì vú cũng khổ theo cái bài thuốc của thái y.


Thấy vú mừng, bọn người hầu chỉ cười, thì thầm: “Tưởng chuyện gì, chứ chuyện sớm cãi tối lành, thì đã có hoài hoài từ lúc mới lập phủ đến giờ.”


Họ kháo nhau: Chắc là do các quan bên bộ Công xem giờ xây cất không kỹ, khởi công nhằm giờ “lưu liên” nên trong phủ này chẳng có chuyện gì ghê gớm mà cứ rắc rối mãi không bao giờ yên.


Hôm sau, bên dinh Nguyễn Tri có người sang nhắn: Đại tướng gọi phò mã về có việc.


Trong phủ, Gia Phúc vẫn còn kêu đau chưa khỏi. Nguyễn Lâm bịn rịn lắm nhưng lệnh cha không thể không vâng, vội lên ngựa ra đi.


∞∞∞∞


Đại tướng Nguyễn Tri Phương ngồi ngay ngắn, hai tay đặt lên án. Đã quen tư thế của người chỉ huy, nên dù đang ngồi trong nhà, ông cũng mang dáng dấp rất uy nghi.


Ngồi bên tả trên một chiếc kỷ thấp là Nguyễn Ngọc, huynh trưởng của Lâm. Thấy ghế bên hữu cũng có người ngồi, Lâm nhìn kỹ rồi sáng bừng nét mặt. Mừng quá vì gặp lại bạn cố tri, nhưng theo phép tắc chàng phải vái chào ra mắt cha và anh, rồi mới quay sang, hớn hở:


- Chào nhân huynh! Nghe nói nhân huynh ra kinh đô, đệ mong gặp lắm mà không biết trọ nơi nào? Cuối cùng phải nhờ gia phụ sai lính thám báo đi tìm, mới được gặp gỡ đây.


Người khách đứng dậy, vẻ mặt buồn vô hạn:


- Vâng, Nguyễn Chí đây. Chí ra kinh đô đã mười hôm nay, nhiều việc đang rối nên chưa kịp đến chào công tử. Vừa may, hôm qua được thư vời của Đại tướng, Chí vội đến ngay, cũng nhân dịp này xin ngài cho biết tin mới từ trong Nam.


Nguyễn Tri Phương trầm giọng:


- Tin đã được thư trạm báo về triều hôm qua, chính xác là Phan Thanh Giản đã giao thành cho Tây rồi tự vẫn. Đô sát Viện đang dâng sớ xin hạch tội, trước hết họ xin đục tên Phan Thanh Giản trong bia tiến sĩ.


Nguyễn Chí ngậm ngùi:


- Phan đại nhân một lòng vì nước. Điều đó chính ông đồ Chiểu, người được cả miền Nam kính trọng cũng biết. Các quan đô sát, nếu ở Vĩnh Long lúc đó chắc cũng bó tay, không biết có dám thung dung tựu nghĩa như Phan đại nhân không?


Nguyễn Tri Phương lắc đầu:


- Luật hoàng triều rất nghiêm. Quan giữ thành mà bỏ thành, dù bất cứ lý do gì, còn sống hay đã chết, đều phải chịu tội. Ngay như ta, sau trận Kỳ Hòa mà không bị xử chém ngay, thì cũng là vì triều đình còn tiếc cái mạng ta, đem chém đi thì sau này lấy ai mà chống giặc. Đến bây giờ tuy công trạng hiển hách, nhưng cái án Kỳ Hòa vẫn còn lơ lửng đó! Huống hồ Phan Thanh Giản một tay đem dâng thành cho giặc, không mảy may chống cự. Điều đó cổ kim không ai châm chước cho y được.


Nguyễn Lâm tức giận:


- Ta chưa chuộc được đất miền Đông, bọn Tây tặc khốn kiếp lại lủm luôn cả miền Tây. Thưa cha, các quan Cơ mật tính sao, đã dâng sớ xin đánh chưa?


Nguyễn Tri Phương đanh mặt, không trả lời. Sáu năm trước, sau trận Kỳ Hòa, một làn sóng chủ chiến sôi nổi dấy lên. Nhưng sau trận này, chỉ có sự im lặng hoang mang đáng sợ bao trùm khắp triều đình.


Sau một phút trầm tư, Nguyễn Tri Phương gằn giọng:


- Tình hình này, nhất định ta lại phải lên đường, không ở lâu kinh đô được nữa.


- Cha lại vào Nam? - Nguyễn Ngọc lo lắng chắp tay thưa - Thưa cha, cha kéo quân vào Nam, xin cho con đi theo hầu hạ dưới gối. Cha nay cũng lớn tuổi, vất vả sa trường, con ở nhà hưởng an lạc sao đành.


Nguyễn Lâm thấy anh cả nói vậy, trong lòng rất áy náy. Huynh trưởng Nguyễn  Ngọc là văn nhân, trong khi mình vẫn xưng anh hùng thượng võ, lẽ ra phải đứng lên tình nguyện mới phải. Có điều nghĩ tới Gia Phúc mới sinh còn yếu ớt, dứt đi thật không đành lòng. May sao, chàng còn lúng túng ngần ngừ, thì đại tướng đã gạt phắt:


- Ta ở trong quân ngũ đã ngoài ba mươi năm, ăn ở cùng với lính, chẳng cần chi ai hầu hạ. Việc của ngươi là chăm sóc mẹ ngươi, cai quản gia nghiệp cho ta yên lòng. Nay Lâm đã sang ở phủ riêng, ngươi lại là thư sinh trói gà không chặt, nên ta đã mời tráng sĩ đây ở lại trong phủ. - Quay sang Chí, ông dặn: - Thời buổi loạn ly, mong túc hạ giúp con ta làm chủ trong nhà. Hãy nhớ lời ta, lúc này lòng người chộn rộn, cần phải hết sức cẩn mật mới được!


Nguyễn Lâm nghe nói Nguyễn Chí sẽ ở lại lâu dài trong dinh thì mừng lắm, liền rủ Chí về thăm phủ Đồng Xuân vài hôm. “Bài võ Xiêm, đệ mới học được mấy chiêu đầu, còn mong mỏi làm sao học cho trọn mới được!”


- Chí đã nói với công tử từ hồi trước, võ nghệ chỉ là để phòng thân thôi. Từ khi có cây súng, thì võ chỉ còn là môn rèn luyện thân thể và ý chí. Công tử chẳng nên để tâm nhiều quá! - Chí bảo Lâm.


- Võ nghệ là đam mê của đời ta. - Lâm cười ha hả vô tư, dắt tay Chí ngồi xuống bàn rượu đặt bên gốc cây mưng đang nở hoa. - Sau này con ta lớn lên, ta sẽ cho nó bái huynh làm sư phụ.


Vừa lúc đó có tiếng cười vui từ trong hiên vọng ra. Chí ngẩng lên nhìn, thấy Gia Phúc đang bước ra đứng nhìn nắng mới, sau lưng là thị tỳ bồng theo con trai vừa tròn tuổi.


Lâm thấy vợ tươi tỉnh hồng hào thì ngạc nhiên, vì hôm qua khi chàng rời đi thì nàng còn yếu ớt lắm. Chạy lại, thấy vợ sạch sẽ thơm tho, người không còn đầm đìa mùi sữa, chàng rối rít mừng:


- Nàng hết đau rồi sao, ta ngồi bên dinh mà cứ lo mãi, không yên tâm…


Gia Phúc trề môi, ngúng nguẩy:


- Không yên tâm! Không yên tâm mà về phủ không thèm bước vào hỏi thiếp một tiếng!


- Thì tại… - Lâm hạ giọng nói nhỏ - tại đang có khách quý, nên ta phải tiếp đãi cho chu đáo. Người này là một hảo hán giang hồ, cực kỳ giỏi, sau này ta sẽ nhờ dạy võ cho con trai!


- Dạy võ cho con! - Gia Phúc cong cớn, nàng cố ý nói to - Con mới một tuổi, mà đã bày đặt mời thầy dạy võ. Chàng đừng có vẽ vời, ham rượu chè đàn đúm bỏ mặc mẹ con thiếp thì nói thẳng ra có hơn không?


Nguyễn Lâm sợ Nguyễn Chí nghe thấy, vội vàng dàn hòa:


- Thì chính nàng hôm trước bảo sau này mời thầy thật giỏi dạy cho con. Ta làm theo ý thì nàng lại trách.


- Thiếp có nói nhưng đó là mai sau chứ không phải bây giờ, biết chưa? Ngốc ơi là ngốc!


- Thì ta cũng nói là mai sau chứ ai nói bây giờ? Nàng nghe mà không hiểu, còn nói ai ngốc? - Lâm nổi khùng, chàng cũng không kiêng nể gì nữa.


Khách đang ngồi trước mâm mà vợ chồng chủ nhân to tiếng như thế, chuyện ở nhà thường dân cũng đã không thể chấp nhận, huống chi là ở phủ đệ uy nghiêm đài các. Nguyễn Chí thấy kỳ quá, nhấp nhổm đứng dậy định cáo từ ra về. Nhưng vú Nhự đã vội níu kéo lưu giữ, rồi một lát sau Nguyễn Lâm vội vã chạy ra, biện bạch:


- Xin nhân huynh bỏ lỗi cho. Công chúa tính tình tuy đỏng đảnh như vậy, nhưng bụng dạ rất tốt không có ý gì bất kính với chúng ta đâu! Chẳng qua hay khua khoắng làm nũng tí thôi, đệ dỗ dành một chốc là cười ngỏn ngoẻn ngay…


Chí nghĩ thầm: “Làm nũng kiểu gì mà cái giọng choang choang thấy ghê. Đúng thật vợ chồng yêu nhau thì xấu cũng thành tốt… Mình ba lần thấy mặt bà chúa này, lần nào cũng thấy vùng vằng giận dỗi, quăng thúng, đụng nia.” Chàng nhớ lại, lần thứ nhất là trong vườn lựu phủ Tùng Thiện công, một dịp may hiếm có khiến chàng ôm gọn được nàng trong lòng; Lần thứ hai, trong đêm Hồng Tập nổi loạn, Chí tình cờ xô cửa phòng khi nàng đang nằm hớ hênh chểnh mảng trong chăn; Lần này là lần thứ ba, nàng béo múp ra, trắng nõn trắng nà, khác thời thiếu nữ rất nhiều nhưng cái giọng cong cớn thì vẫn vậy.


Chí bưng chén rượu:


- Nhiều năm không gặp, nay công tử đã yên bề gia thất, có phủ mới, có con trai nối dòng. Bữa rượu hôm nay, Chí xin uống thật lòng để mừng cho công tử. Nhưng đến chiều thì Chí phải đi, không lưu lại được, xin nói trước kẻo sợ công tử kém vui!


Nguyễn Lâm gật đầu:


- Mấy khi tri kỷ giang hồ gặp nhau, huynh cứ vui đi. Nếu có say đến chiều đệ sẽ cho quân hầu khiêng võng đưa huynh về tận bên dinh.


Chiều hôm ấy mặc dù Nguyễn Lâm cẩn thận cắt người đưa về, Chí nhất định khước từ, một mình lên ngựa.


Sở dĩ vậy là vì trước khi quay lại dinh Nguyễn Tri, chàng còn phải đi gặp một người. Điều này tuy không có gì khuất tất, nhưng dù sao, Chí cũng không muốn cho Nguyễn Lâm biết.


∞∞∞∞∞∞


Người đó là Nguyễn Trường Tộ, vừa cùng Giám mục Hậu sang Pháp mua sắm đồ vật để chuẩn bị mở trường Kỹ thuật tại kinh đô. Tộ đang ngồi trong nhà công quán, nóng lòng chờ Chí đến.


- Ta rất mừng gặp đệ ở kinh thành. Chỉ xót xa vì không còn được thấy Phan đại nhân. Nghe tin đệ phụng mệnh Phan đại nhân đem mũ áo ra trả lại triều đình, ta cứ lo những người quá khích ở đây sẽ hãm hại đệ. Cũng may, kinh thành bây giờ không đến nỗi nhiều sóng ngầm như dạo trước.


- Đấy phần lớn là nhờ uy vọng của tướng Nguyễn Tri Phương. Nghe đâu sau loạn Đoàn Trưng, mấy tháng trời quan quân còn ruồng bố. Tướng Phương về thấy vậy phải dâng sớ xin Hoàng thượng xuống chiếu dẹp hết các sưu tra cũ. Từ đó mới yên cho đến bây giờ.


Tộ còn nghi hoặc:


- Cũng chưa hẳn đã yên được đâu.


- Huynh vẫn còn đề phòng? Hiện giờ, cả nhóm Hồng Tập và nhóm Đoàn Trưng, trước người ta hay gọi là phái chủ chiến, đều đã không còn ai. À, còn cha con thượng thư Nguyễn Đình Tân vừa được tha tội, nhưng móng vuốt thì đã bị dũa mòn hết rồi…


- Hiền đệ, gọi họ là phái chủ chiến cũng không đúng đâu! Họ chẳng có kiến thức gì về chiến tranh cả. Nếu gọi là phái quá khích mơ tưởng thì đúng hơn. Họ đã dồn triều đình vào đường cùng, và làm phân tán sức lực chống giặc. Toàn bộ những phản kháng của họ chỉ làm chóng tiêu tan chút sức lực vốn đã nhỏ yếu của đất nước. Họ tự xưng là chủ chiến, và họ gọi tất cả những người không cùng ý kiến với họ là chủ hàng! Họ không chịu hiểu rằng, hòa không phải là hàng, và lòng yêu nước không thuộc độc quyền của riêng họ!


- Hây da, nói thật với huynh, đệ nghĩ chắc không có thời nào rối ren hơn cái thời ta đang sống. Đệ là con nhà võ, rất sợ giảng giải dài dòng. Cho nên cứ trong linh tính cái gì đúng, cái gì phải là đệ theo! Đệ tin ở huynh!


Vừa nói đến đó, chợt một tiếng ngựa hí vang từ ngoài đường vọng vào. Có tiếng đọc vang lên, to vang, rõ mồn một:


“Kể từ lúc đạo Gia Tô lẻn vào đất Việt


Xét trí thuật xưng Trời xưng Thánh, lừa bọn đui ngu


Xem hành vi bỏ nước bỏ cha, cùng loài dê chó!”


Tiếng đọc sang sảng vừa dứt, liền vang lên tiếng vó ngựa lộp cộp chạy đi, chốc lát biến vào trong đêm yên lặng.


Trường Tộ nhìn Chí:


- Đệ thấy chưa? Họ đang chửi chúng ta đấy. - Nói rồi, Tộ cúi xuống kéo dưới án thư ra một vật - Lúc chiều, vừa vào bộ Lại xong, về đến đây ta đã thấy cái này dưới bậu cửa.


Chí nhìn xuống tay Tộ: Một tờ giấy bổi, trên có viết nguệch ngoạc hai chữ “Tả đạo” bằng sơn đỏ.


Chí nhớ lại những vụ đe dọa Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp trước đây. Hồi đó, tất cả là do tay chân của Hồng Tập. Bây giờ, phe “chủ chiến” quá khích đã bị loại trừ, vậy thì ai?


- Ai? Làm sao chúng ta biết được? Có thể là một vị nào đó ngay trong Cơ Mật viện, Đô Sát viện? Hay cũng có thể là một gã lính canh ngay trong nhà công quán này? - Nguyễn Trường Tộ vừa nói, vừa nhếch mép cười.


Chí lo lắng:


- Có lẽ chỗ này huynh không nên ở. Huynh nên vào ở trong chủng viện Phú Cam, an toàn hơn.


- Hiện giờ ta ở đây là thuận tiện nhất, vì đang phải hàng ngày đàm đạo với Thượng thư Trần Tiễn Thành về việc làm trường kỹ thuật. Điều đó đối với ta quan trọng hơn hết. Mở trường kỹ thuật, là bước đầu xây dựng một nền văn minh kỹ nghệ. Một đốm lửa, sẽ dần dần thành ngọn lửa. Từng bước một, dù có lâu, nhưng đã có bắt đầu, thì sẽ có ngày đến đích. Quan trọng nhất, là phải bắt đầu cho được!


Chí nhìn hai chữ Tả đạo đỏ màu máu trên tờ giấy rơi, chàng bảo:


- Huynh ở đây, đệ không yên lòng đâu. Nhân dịp này đại tướng chưa kéo quân vào Nam, đệ cứ tạm ở lại đây để bảo vệ huynh mới được. Nhiều nguy cơ lắm.


Trường Tộ nhíu mày, ngạc nhiên:


- Đệ nói đại tướng Phương sẽ vào Nam? Ta nghĩ không có chuyện đó đâu!


- Sáng nay đại tướng có nói sẽ trở lại chiến trường… Không nói rõ đi đâu nhưng có vẻ như là vào Nam.


Trường Tộ cười lắc đầu:


- Vậy thì có lẽ vì quân cơ nên ông Phương không nói, dù là với người thân trong nhà. Chứ tình hình hiện nay, miền Bắc sắp loạn to, nếu đại tướng có đi, ta chắc không phải vào Nam, mà ra Bắc!


Trường Tộ nói cho Chí biết: bên Tàu, loạn lớn Thái Bình Thiên Quốc vừa tan rã, dư đảng của chúng bị càn quét đã tràn từng đám, từng đám vào địa phận nước Đại Nam, cát cứ cả mấy tỉnh dọc biên giới. Hung hăng nhất là đám giặc Ngô Côn, giết cả quan thủ thành, cướp cả quân lương, khí giới. “Giờ cái lo hàng đầu của triều đình là nước Tàu, vì không khéo mà bị Tàu nó cai trị, thì còn khốn nạn hơn là bị thằng Tây nó cai trị!”


- Vậy là không còn hy vọng gì lấy lại sáu tỉnh miền Nam? - Nguyễn Chí hỏi, giọng buồn hẳn đi. Trường Tộ nắm tay Chí:


- Lẽ ra từ lúc mới mất Sài Gòn, mà hoàng thượng nghe lời ta, thì không mất ba tỉnh. Khi mất ba tỉnh, mà nghe lời ta, thì không mất cả sáu tỉnh. Bây giờ tất cả hy vọng của ta là cuộc canh tân này. Có lấy lại được sáu tỉnh hay không cũng là ở cuộc canh tân này. Và sẽ phải chờ, chờ dài lâu, không thể nào vội được.


- Chờ? Chờ đến bao giờ?


- Dù đến bao giờ, cũng phải chờ thôi, vì - Tộ nhấn mạnh từng tiếng một: vì-chẳng-còn-cách-nào-khác.


Chí ủ rũ cúi đầu, nhớ đến lời cuối Phan Thanh Giản đã nói với chàng: “Ngươi đi đi, đừng quay về Nam nữa!”


∞∞∞∞∞∞∞


Đúng như Nguyễn Trường Tộ đoán định, mấy hôm sau Nguyễn Tri Phương dâng sớ xin ra Bắc dẹp loạn. Ông biết rõ, sau trận thua quá đậm ở Kỳ Hòa, ông đã không còn được tin tưởng về khả năng đánh Tây; nhưng tài làm tướng của ông vẫn phát huy được ở phía Bắc, nơi người ta còn sử dụng vũ khí thô sơ trên chiến trường. Ông đã rút được kinh nghiệm xương máu: một khi vũ khí ngang tầm, thì mới nói được hơn thua về mưu lược và lòng dũng cảm.


Vua Tự Đức đọc sớ của tướng Phương, trong lòng băn khoăn. Từ lúc Phương về Phú Xuân, kinh thành yên ổn hẳn. Nguyễn Tri Phương có sự uy nghiêm và khả tín mà không phải nhà lãnh đạo nào cũng có. Chỉ riêng sự có mặt của ông đã đủ tạo ra sự vận hành an toàn cho cuộc sống chung quanh. 


Như thường lệ, mỗi khi phân vân trong lòng, Hoàng đế lại vào cung Gia Thọ ngắm sen nở trước nhà thủy tạ. Hôm nay, trời đã vào hạ, cung nhân che rạp lụa xanh quanh hồ để Thái hậu ngồi chơi. Phải che rạp dài chứ không chỉ che lọng như các mùa hè trước, vì bây giờ có hoàng tử nhỏ thỉnh thoảng sang chơi, nên Thái hậu truyền làm như thế để cháu khỏi bị háp nắng.


Hoàng nghĩa tử Ưng Thị tuổi mới lên ba, mặc áo dài gấm đỏ, đầu còn để vá tóc hình trái đào, chạy lẫm chẫm, cười hinh hích, chung quanh là ba bốn cung nữ vừa chạy theo vừa dang tay hờ quanh, đề phòng hoàng tử trượt chân té ngã.


Thái hậu ngồi trên đoản kỷ, mỉm cười nhìn cháu nhỏ. Bà truyền thị nữ:


- Cứ để mệ Tríu chạy nhảy cho mạnh chân tay, đừng nên dắt dìu kỹ quá. Cái gì làm quá cũng không tốt!


Tríu, nghĩa là thương yêu quyến luyến, người Huế thường nói “tríu mến” thay vì “trìu mến”. Đây là tiểu tự mà phủ thiếp Bùi Thị Thanh đặt cho con trai khi biết chẳng bao lâu con sẽ phải rời mẹ để nhập cung.


Thấy Hoàng đế cùng đội hầu cận lại gần, cậu bé có vẻ sợ, đang chơi đùa chợt dừng lại, chạy đến núp sau lưng thái hậu. Thái hậu ôm cậu bé vào lòng, vỗ về:


- Đó là phụ hoàng của con, rất thương con, đừng sợ!


Nhưng “mệ Tríu” đã bắt đầu khóc mếu, các thị nữ xúm lại dỗ dành thế nào cũng không nín. Vội vội vàng vàng, người che, người ôm, các cô bồng Tríu đi, kéo nhau về lại cung Phấn Trang của Thiện phi.


Hoàng đế ngồi xuống, thấy sắc mặt mẹ không đến nỗi tiều tụy như trước, ngài thấy mừng trong lòng. Từ ngày xảy ra vụ Đoàn Trưng, dù Thái hậu không nói ra lời, ngài biết cái đau trong lòng bà rất sâu sắc. Giờ lại đến vụ mất thêm ba tỉnh miền Tây…


Như lệ thường, ngài rất tránh nói đến việc triều chính, không muốn trút gánh ưu phiền của mình qua vai mẹ. Hoàng đế chỉ mong ngồi trong vầng sáng êm đềm và thanh tĩnh bên bà, để tâm tư mình lắng xuống sau mỗi lúc bão giông. Nhưng chỉ sau mấy lời thăm hỏi về sức khỏe, về hoàng tử nhỏ, về chuyện trong cung, trí óc ngài lại bị lôi kéo bởi nỗi ưu tư canh cánh bên lòng: miền Nam, và miền Bắc.


Thái hậu nhẹ nhàng khuyên con:


- Cùng một lúc mà quá nhiều thứ dồn tới, nhiều mối lo đè nặng, dẫu là thép cũng oằn huống chi con người. Con hãy giữ mình cho khỏe, giữ trí cho sáng, rồi gỡ lần từng mối một. Tình hình hiện nay, hai đầu đất nước đều nguy, không bỏ bên nào được thì miền Bắc dụng võ, miền Nam dụng văn là hay nhất!


Hoàng đế suy ngẫm một lúc:


- Vậy là Bắc phải đánh, Nam phải đàm. Đánh thì có Nguyễn Tri Phương, đủ sức chận đứng bọn Tàu phiến loạn hung dữ ở miền Bắc. Đàm phán trong Nam thì trước đây trông cậy vào Phan Thanh Giản. Nhưng Phan đã chẳng làm được cơm cháo gì, nay lại trút gánh mà đi…


- Mẹ cũng không rành việc triều chính, nhưng có nghe phong thanh, trước đây có quan Phủ doãn Thừa Thiên là người đảm lược, lại rất giỏi thương thuyết. Sau vụ loạn kinh thành, vì tội không tròn trách nhiệm nên đã bị biếm đi, không rõ đi đâu? Có thể dùng người ấy hay không?


“À…” Nhà vua nhớ lại, đó là Nguyễn Văn Tường. Sau đêm Đoàn Trưng nổi loạn, Tường đã bị cách chức phủ doãn, điều lên vùng trung du Lao Bảo làm bang biện huyện Thành Hóa.


- Thưa mẹ, Tường tuy có tội, theo luật phải cách, nhưng con điều y lên huyện Thành Hóa ngoài miền núi Quảng Trị, cũng là có ý riêng…


Vua nói đến đó, cơn ho chợt nổi lên. Ngài đưa một tay chận cổ, cười:


- Chắc là… Chắc là con phải tìm một người thừa kế lớn hơn, chứ thằng cu Tríu kia không biết có lớn kịp mà kế ngôi không?


Thái hậu nghe câu nói ấy, mặt buồn hẳn đi:


- Con phải giữ gìn cẩn thận để còn gánh vác việc nước lâu dài. Nhớ là, mẹ chỉ còn mình con trên đời thôi.


- Dạ, con vô ý nói đùa làm mẹ đau lòng, thật là lỗi lớn. - Hoàng đế ấy náy tạ tội.


- Quân vô hí ngôn, con chớ nên nói giỡn như vậy.


Quân vô hí ngôn - vua không nói giỡn. Nhưng thật ra Hoàng đế nói câu ấy cũng không phải là giỡn. Ngài đã có định ý từ mấy tháng nay rồi, từ sau trận viêm phổi mùa đông năm ngoái - nó khiến ngài ý thức được rõ rệt hơn ai hết về sức khỏe mong manh của mình.


Cuối năm ấy, hoàng cung lại có thêm một hoàng tử. Đó là Ưng Chân, con trai của hoàng đệ Hồng Y. Ưng Chân được giao cho Trung phi Vũ Thị Duyên nuôi dạy. Thật ra, Ưng Chân đã mười bảy tuổi, Trung phi còn nuôi dạy gì được nữa, nhưng Hoàng đế cho nàng nhận Chân làm con để bớt chút áy náy về những đối đãi có phần bất công với nàng.


Thiện phi cảm thấy thất vọng, vì Ưng Chân tuy được nuôi sau, nhưng lại lớn tuổi, gần như đã trưởng thành. Càng thất vọng hơn, khi vua nghe theo lời khuyên của Thái hậu, phong Trung phi làm Hoàng quý phi, đứng đầu cả sáu cung. Có vẻ như Ưng Chân đang được lát đường, trải chiếu để bước lên ngôi thái tử.


“Lòng dạ đàn ông là như vậy đó!” Thiện phi ấm ức nghĩ thầm, nàng biết tình yêu mà Hoàng đế dành cho mình đã cạn kiệt thật rồi. Ngài đã cố gắng, và nàng cũng hết sức cố, nhưng quả thật cái gì đã chết thì rất khó hồi sinh.


“Bẩm bà, mệ Tríu đã dậy rồi. Em đã bảo nhà bếp dâng cháo yến sào chưng với nhung hươu như bà dặn, nhưng mệ cứ nhổ ra, nhất định không chịu ăn!” Thị nữ Thu Cúc bước vào thưa.


Đang còn hậm hực với những ý nghĩ trong đầu, Thiện phi gắt lên:


- Không ăn thì cho hắn nhịn! Ta đã chán lắm rồi đây. Tối ngày è cổ ra lo bú mớm cho cái đứa trẻ ranh, coi bộ cũng chẳng được cái tích sự gì?


Thu Cúc ngẩn người không hiểu, mới hôm qua Thiện phi còn lo lắng đến từng cái mụn sảy của hoàng tử nhỏ, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa.


Tố Quỳ đang chải tóc vấn khăn cho chủ, vội đưa mắt ra hiệu cho Thu Cúc im đi, rồi nhỏ nhẹ khuyên lơn:


- Bà đừng quá lo, ba mươi đâu đã là Tết. Hoàng thượng mới bốn mươi tuổi, đường còn dài lắm, chắc gì ai đã hơn ai!


Khuyên là khuyên vậy, nhưng ả thị nữ khôn ngoan cũng thừa biết, từ nay cậu bé Ưng Thị, tức mệ Tríu, chỉ còn là một món hàng đã mất giá trong mắt chủ mình.


Chương 27


Con chim én trong đền vàng


Đêm đã khuya, Thái hậu còn trằn trọc mãi chưa ngủ.


Mới lúc ban chiều, để mừng Hoàng tử Ưng Chân vào cung, một bữa tiệc nhỏ được bày trong vườn thượng uyển. Trung phi, mẹ nuôi hoàng tử, tất nhiên phải có mặt. Thiện phi cũng được vời. Trong tiệc, nhà vua nói rõ:


- Trẫm nay muộn đường nối dõi, rất lo cho xã tắc về sau, vì vậy nuôi sẵn hai hoàng tử. Một lớn một nhỏ, sự chăm lo nuôi dạy tuy có khác, nhưng ân trạch cũng ngang nhau. Mai sau, nếu quả thật không người nối dõi, trẫm sẽ chọn trong các nghĩa tử để giao truyền xã tắc. Còn nếu một ngày kia Trẫm có sinh được hoàng nam, thì hai hoàng nghĩa tử sẽ được phong tước phiên vương, tuy không phải đích thống nhưng cũng vẫn là con của trẫm.


Nghe vua nói vậy, bất giác Trung phi và Thiện phi đưa mắt nhìn nhau: lần đầu tiên hai người đàn bà vẫn ngấm ngầm kình chống bỗng có chung một ánh mắt đồng cảm. Họ đều là những người đã nhiều lần chung chăn gối với Hoàng đế, hiểu rõ hơn ai hết cơ địa và sức khỏe của ngài. Thái hậu ngồi ghế trên, đã nhìn thấy ánh mắt của hai nàng dâu. Ánh mắt ấy như ngầm chứa một tiếng kêu ngỡ ngàng: “Trời, đến bây giờ Hoàng thượng vẫn còn nghĩ ngài có thể có con?”


Lòng bà bỗng thắt lại. Những người đàn bà của nhà vua đã tuyệt vọng rồi, nhưng Thái hậu, với tấm lòng người mẹ, vẫn chưa thôi hy vọng.


- Hoàng thượng mới bốn mươi, tuổi ấy đàn ông vẫn còn dồi dào nguyên khí. Chẳng qua phải lo việc kế thừa cho an lòng thiên hạ, chứ đã có gì đâu mà vội thất vọng ạ. - Hà Hoa, thấy Thái hậu thao thức, liền bưng vào một chén nước tim sen. Đoán biết nỗi lòng của thái hậu, Hoa tìm lời an ủi.


Thái hậu thở dài:


- Ừ… Thật tình thì việc kế thừa thu xếp vậy cũng đã ổn. Chỉ là lòng ta vẫn mong cho Hoàng thượng có cái hạnh phúc làm cha. Sinh ra đứa con bằng máu bằng thịt của chính mình, đó là mệnh trời giao cho mỗi người. Cho nên cái vui có con là không gì sánh được, dù là bình dân hay thiên tử thì cũng vậy!


- Dạ, con nghe nói bên Ngự Dược phòng vẫn cắt thuốc đều đặn cho cả Hoàng thượng cùng tất cả các phi tần. Việc chậm có điềm lành, chưa biết do đâu, nên thái y điều trị cho tất cả. Có điều, con nghe Trung Lương than thở, thái y dâng thuốc có giờ, Hoàng thượng lại ham việc, nhiều khi thuốc nguội cả mới uống…


Thái hậu ngồi dậy, trầm ngâm.


- Ngày mai con cầm thẻ của ta qua Ngự Dược phòng, lấy thuốc của Hoàng thượng về đây, ta xem kỹ rồi tự tay sắc thử coi sao! Thôi, cho con lui, khỏi phải chầu hầu nữa.


Hà Hoa vâng dạ lui ra, đến đầu hành lang bỗng thấy một thiếu nữ đang đi tới, tay bưng ngọn đèn hoa sen. Ánh đèn mờ ảo, nên Hoa nhìn kỹ mới nhận ra đấy là thị nữ Kim Yến. “Ủa, giờ này ngươi còn thức sao?”


Thiếu nữ cất bàn tay đang che đèn, ánh sáng tỏa lên cho thấy nụ cười thân thiện:


- Dạ, con thấy đêm nay dì hầu Thái hậu trễ muộn, nên con tính lên sớm thay cho dì về nghỉ.


Trong lòng Hà Hoa chợt nghĩ ra một ý, liền hỏi Kim Yến:


- Yến, con năm nay bao nhiêu tuổi, cầm tinh con gì?


- Dạ thưa dì, con tuổi Tân Sửu, năm nay mười tám! Có việc chi vậy hở dì?


“À há…” Hà Hoa gật gù nghĩ thầm: “Thuốc hay đã có, mà chẳng chút công hiệu, hay là ta kết hợp vía van may ra thành công? Hoàng thượng tuổi Kỷ Tỵ, con bé này tuổi Tân Sửu, ngày mai lại là ngày Dậu. Tỵ Dậu Sửu tam hạp, mai ta sai nó bưng thuốc, biết đâu?”


Cái suy nghĩ “Biết đâu?” của Hà Hoa, cuối cùng tuy cũng chẳng tới đâu, nhưng ai ngờ lại là nguồn cơn dẫn dắt đến một việc liên quan đến rất nhiều người về sau này.


∞∞∞∞∞∞


Sáng ngày Dậu, trong nhà công quán, Nguyễn Trường Tộ dậy rất sớm, chuẩn bị vào cung. Nguyễn Chí định xuống tàu ngựa chuẩn bị, nhưng Tộ ngăn lại:


- Để cho ngựa nghỉ, hôm nay Giám mục Gauthier Hậu sẽ đến đón ta cùng đi.


- Vậy là huynh đi cùng xe song mã với Đức cha?


- Vâng. Ngài cần cùng ta vào yết kiến, để tâu rõ về sự cần thiết phải mời một số người Pháp giảng dạy.


 Chí lo lắng:


- Đệ cầu nguyện cho mọi việc trôi chảy.


- Vâng. Đã gần mười năm rồi, ta mong đợi cái ngày này. Ôi, bao nhiêu thời gian đã trôi qua một cách lãng phí. Giá mà… - Giọng Tộ đầy đau tiếc: - Giá mà năm 1859 ấy, Nguyễn Bá Nghi làm được theo lời ta. Giá mà năm 1862, Hoàng thượng nghe lời Phan Thanh Giản, canh tân và hòa nghị. Mười năm trôi qua, bao nhiêu mạng người đã chết oan uổng, cuối cùng mới đến được cái chỗ mà lẽ ra đã phải đến lâu lắm rồi!


- Dù sao, muộn vẫn còn hơn không. - Giám mục Gauthier bước vào, mỉm cười. Trên tay ông, một xấp hồ sơ dày, đấy là những tài liệu về quy trình giảng dạy và những chuyên viên người Pháp đã đồng ý sẽ sang giúp.


Chí đứng lên chào, chàng hơi khuỵu gối để giám mục làm dấu ban phước lành.


Trong lúc Nguyễn Trường Tộ cùng giám mục duyệt lại một lần nữa xấp hồ sơ, Chí ra sân, định xuống chuồng ngựa cho con Nem Chua uống nước và ăn lúa. Đang đi chợt chàng dừng lại: một tốp lính đang khiêng chiếc võng điều ngang qua, trên võng là một người trông rất quen. Chí mở to mắt, chàng nhận ra: đấy là Nguyễn Văn Tường!


Đúng lúc ấy Nguyễn Văn Tường cũng từ trên võng ngước nhìn lên hiên, ông thoáng thấy cái bóng mặc áo chùng đen của Giám mục Hậu. Ông hơi nhíu mày, vì chưa từng nghĩ một cố đạo Tây lại có thể xuất hiện trong nhà công quán.


Sáng hôm ấy, hoàng cung đã sắp xếp cho Trường Tộ và Giám mục Hậu yết kiến vào giờ Tỵ, có Trần Tiễn Thành dẫn dắt. Trước đó, đầu giờ Thìn, Ngài cho vời Nguyễn Văn Tường. Ý định của Ngài là cử Tường đi sứ sang Paris, thương thuyết xin chuộc sáu tỉnh miền Nam.


Ngoài trời, bỗng cơn mưa đột ngột đổ xuống. Hoàng đế cố nén một cái hắt hơi, Ngài cau mày: mùa hè, mưa buổi sáng là một chuyện ít khi xảy ra lắm.


- Tâu Hoàng thượng, trước kia Tây tặc ký hòa ước Nhâm Tuất đã ghi rõ ràng là chỉ chiếm Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, còn Vĩnh Long trả lại cho ta, miền Tây là của ta. Vậy mà giờ chúng ỷ mạnh, đã nuốt chửng tất cả rồi đó! Nay Hoàng thượng muốn đàm phán để chuộc đất. Nhưng ta bỏ ra số tiền lớn, lặn lội đến tận kinh đô của chúng, phỏng như có chuộc được đi nữa, nay mai chúng lại lấy mạnh hiếp yếu, đánh lần nữa, thì hóa ra ta mất cả chì lẫn chài?


- Trẫm cũng biết vậy. Nhưng do vừa rồi Tây tặc đưa thư xin cầu hòa, nên các quan Cơ mật cũng muốn thử đàm phán xem sao.


- Tâu Hoàng thượng, thường nước thua trận mới xin cầu hòa. Nay Tây tặc rất mạnh, đánh đâu được đó. Nên, thực chất hai chữ cầu hòa ở đây là muốn ta ngồi vào bàn để thừa nhận cái mất đất của ta bằng một hòa ước mới. Tốn tiền tốn của vào những việc này, chi bằng để của ấy mà sửa sang binh bị, sắm sửa vũ khí, chỉnh đốn lòng quân ý dân. Còn việc thua mất ba tỉnh miền Tây, ta cứ mặc kệ không cần ký nhận gì hết. Ta không ký, thì ngày kia ta có lấy lại, chúng không kêu vào đâu được. Hạ thần cạn nghĩ như vậy, xin hoàng thượng soi xét!


Nguyễn Văn Tường tự nói mình cạn nghĩ, nhưng vô tình - mà biết đâu là cố ý? - tỏ ra mình nghĩ sâu hơn, thấu đáo hơn tất cả các quan ở Viện Cơ mật. Hoàng đế cũng nhận ra như vậy, ngài sa sầm nét mặt.


- Trẫm biết khanh là người giỏi, hơn năm nay điều khanh lên miền núi, cũng là bất đắc dĩ. Nay định giao cho việc lớn để lấy đó làm cớ đưa khanh về kinh bổ vào chỗ xứng đáng. Khanh lại bàn lùi, thoái thác không muốn đi sứ, thì trẫm biết làm sao châm chước cho khanh được?


- Tâu…


Nguyễn Văn Tường còn định biện bác, thì chợt từ ngoài cửa điện, một tiếng thưa thỏ thẻ rất êm tai vang lên:


- Tâu hoàng thượng!


Một cung nữ tiến vào, tóc ướt, áo ướt, hai tay bưng lồng ấp đậy kín. Hoàng đế Tự Đức ngạc nhiên: đây là điện Cần Chánh, nằm ngoài khu vực Tử Cấm Thành, cung nhân không ai được vào đây. Nhà vua trừng mắt, nghiêm giọng:


- To gan. Trẫm đang bàn việc, sao ngươi dám quấy rầy? Ai cho phép ngươi bước chân vào đây?


- Dạ muôn tâu, Thái hậu tự tay sắc thuốc, dặn thần thiếp phải dâng cho Hoàng đế dùng ngay không được để nguội! - Nói rồi, cung nữ mở lồng ấp, bưng ra chén thuốc còn nóng hổi.


Nghe nhắc đến Thái hậu, nhà vua dịu giọng:


- Cho là như vậy đi nữa, cũng phải đưa đến điện Càn Thành rồi nhờ thái giám tâu lên.


Người cung nữ bị vua quở mới mấy câu, nước mắt đã tươm ra, nàng ấp úng phân trần:


- Dạ muôn tâu, vì dì Hà Hoa dọa con, nếu thuốc nguội là con chết với dì ấy, nên con phải đội mưa chạy liều đi tìm Hoàng thượng…


Thấy vẻ mặt dễ thương của thiếu nữ, nhà vua cố nén một nụ cười. Ngài quay sang bưng chén thuốc uống cạn.


Nguyễn Văn Tường ngồi ngây ra nhìn. Người con gái ướt lướt thướt, mấy lọn tóc nhỏ rủ lưa thưa dưới vành khăn. Tấm áo lụa màu tím xanh cũng thấm mưa, dán chặt từng mảng trên đôi vai tròn, mờ mờ hiện ra chiếc yếm trắng đang quấn chặt đôi vú thanh tân. Đang mải chăm chú dâng thuốc, trực giác khiến Kim Yến sực nhận ra ánh mắt của người đàn ông lạ. Bẽn lẽn, nàng vội quay người đi, sau khi ném lại thật nhanh một cái nhìn tò mò.


Hoàng đế đặt chén xuống, khoát tay. Cung nữ lui rồi, câu chuyện lại tiếp tục, dường như cởi mở và thoải mái hơn. Nguyễn Văn Tường lúc này trổ hết tài đàm thuyết, đưa ra những sách lược gan ruột.


- Tâu Hoàng thượng, muốn giành lại đất chỉ có đánh Tây, mà việc đánh Tây không thể nôn nóng mà được. Phải tính đủ bài bản, nếu thắng thì sao, nếu thua thì sao? Thành Hóa nằm ngay cửa ngõ sang Lào, chung quanh núi non che chắn, nhưng lại là đất bằng phẳng màu mỡ, có thể là căn cứ địa cho ta khi tình thế cần cấp. Huyện này trước đây chính do Tuy Thạnh quận công Trương Đăng Quế sai di dân lập ấp mà gầy dựng ra. Lúc ấy, quận công đã biết việc đánh Tây ngay tức khắc là vô phương, phải có sự chuẩn bị lâu dài, phải trường kỳ kháng chiến...


Nghe nhắc tới Trương Đăng Quế, Hoàng đế Tự Đức bồi hồi cảm động.


- Trương Đăng Quế là tôi trung hiếm có trên đời. Lúc già yếu sắp rời chức phận, vẫn còn lo nghĩ mưu kế lâu dài cho đất nước. Từ lúc người ra đi, quả thật ta như mất hẳn một cánh tay.


- Hoàng thượng đừng lo phiền, thần ở Thành Hóa, lâu nay vẫn dốc sức dốc lòng, quyết thực hiện cho tròn cái ý lớn của quận công. Với Thành Hóa, chúng ta sẽ thực hiện kế sách “Dĩ hòa vi chiến”, bên ngoài thì nhường nhịn cho êm, nhưng bên trong lo tăng cường sức mạnh!


 Vua Tự Đức nghe, cảm thấy rất đẹp lòng. Lúc Nguyễn Văn Tường sắp lui ra, nhà vua ân cần dặn:


- Trẫm muốn khanh về triều, cùng trẫm sớm tối bàn bạc việc nước. Nhưng nay vô công mà cất nhắc, thì các quan không khỏi bàn ra tâu vào, không lợi cho khanh. Vậy hãy cứ tạm về Thành Hóa ít lâu! Trẫm cho khanh một cái ấn “Khẩn mật” này, bất cứ lúc nào có việc gì muốn tâu trình gấp, khanh cứ dùng rồi cho thư trạm đưa ngay về Kinh cho trẫm.


Dĩ hòa vi chiến, tạm quên miền Nam để lo giữ những phần còn lại: đường lối của Nguyễn Văn Tường thật ra không khác lắm với đường lối của Nguyễn Trường Tộ. Chỉ khác là, Nguyễn Trường Tộ nhấn mạnh: “vi chiến” trước hết bằng canh tân, bằng việc xây dựng nền công nghệ và tìm cách bắt tay với người Anh để giữ thế quân bình với Pháp.


Hoàng đế Tự Đức đã có ấn tượng với Nguyễn Văn Tường hơn, vì những gì Tường nói có vẻ dễ, nhanh và cũng đỡ gây rắc rối với các triều thần của ngài hơn!


Không có một lời khước từ nào được nói ra, nhưng Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Hậu chờ ở kinh đô hơn bốn tháng mà vẫn chưa nhận được kinh phí và giấy tờ để tiếp tục xây dựng ngôi trường. Mọi việc lâu nay Nguyễn Trường Tộ vẫn báo cáo với Trần Tiễn Thành, nhưng ông Thành lại đột ngột được chuyển sang giữ Bộ Binh. Thượng thư Bộ Công mới lên là Nguyễn Chính, một người hoàn toàn xa lạ với Tộ.


Mọi chuyện cứ lửng lơ như vậy cho đến khi giám mục Gauthier Hậu hết kiên nhẫn, bỏ về Nghệ An.


Nguyễn Trường Tộ chờ thêm ít lâu rồi đành gói ghém hết các đồ dùng, máy móc mua từ bên Tây giao lại. Thượng thư Nguyễn Chính chỉ cho một viên chức đến gặp và làm giấy tờ giao nhận.


Tộ quyết định về quê. Nguyễn Chí theo tiễn một đoạn đường. Trời Huế tháng mười một, mưa lâm thâm lạnh đến cắt thịt.


Hai người mặc áo tơi lá kè, cho ngựa chạy song song, im lặng đi qua cơn mưa. Nguyễn Chí cảm nhận được trong cái im lặng ấy là một nỗi buồn da diết.


- Ở bên Nhật, Minh Trị Thiên Hoàng lên ngôi ba năm nay, giờ đã bắt đầu công cuộc đại cải cách… Năm nay họ vừa hoàn tất việc xây dựng đường ray xe lửa đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản. - Nguyễn Trường Tộ nói.


Tuy Tộ không bình luận gì thêm, Chí vẫn biết mỗi tiếng Tộ nói ra là cả một nỗi nghẹn ngào. Chí thở dài:


- Phải chi vua ta cũng nhìn xa như vua Bụt của Xiêm La, thì đất nước mình đâu đến nỗi!


Trường Tộ lắc đầu:


- Khó lắm. Vua Nhật, vua Xiêm từ thuở thiếu thời đã được học tiếng Anh, đọc báo, học khoa học, hiểu tình hình thế giới. Vua ta thì vẫn một lòng độc tôn Nho giáo, cho đến bây giờ mà còn đem chuyện thời Hán thời Đường ra làm mẫu mực xử lý việc ngày nay. Kẻ sĩ bên nước họ cởi mở, tiến bộ, mở đường cho vua; trong khi đó nho sĩ nước ta thì vẫn một kiểu cố chấp, gàn quải, khiến sự thể đã khó càng thêm khó!


Hai người đi qua cống Chém ở An Hòa. Đây là nơi mỗi cuối năm người ta thi hành những án tử. Gió trên đồng trống thổi u u, hình như những linh hồn đang réo gọi.


Nguyễn Chí bặm môi, chàng từng nghe nói Đoàn Trưng đã chịu cực hình ở đâu đó, gần đây...


Nguyễn Trường Tộ thì đang nghĩ đến Phan Thanh Giản. Khi chàng từ Pháp về đến Sài Gòn thì ông đã mất. “Nếu sau hòa ước Nhâm Tuất mà Hoàng thượng nghe ta… Thì có thể Phan đại nhân không phải ôm mối hận ngàn đời mà chết đau như thế!”


∞∞∞∞


Nhà vua uống thuốc do Kim Yến dâng đã hơn tháng, mà cũng chẳng có gì khác lạ. Trong cung, thị thiếp phi tần vẫn chẳng ai thai nghén gì. Chỉ có điều khác là Kim Yến được đưa từ cung Gia Thọ sang điện Càn Thành để chuyên lo việc sắc thuốc.


Mấy tháng sau, nàng được phong làm Lượng tần, được ra ở cung riêng.


Cái tin này làm cho Thiện phi giật mình chết điếng. Nàng lật đật tìm tới Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên.


Từ lúc Vũ Thị Duyên lên ngôi Hoàng quý phi, theo lệ, Thiện phi phải cúi đầu vái hai vái khi ra mắt. Nàng bực mình chuyện đó hết sức, nhưng hôm nay thì mấy vái cũng chẳng là gì so với cái đau bị soán đoạt. Hoàng quý phi đứng dậy vái một vái đáp lễ, rồi ngồi nghiêm chỉnh lắng nghe.


Thiện phi hậm hực kể lể.


- Tưởng Lượng tần mới được phong là ai, hóa ra con thị nữ dâng cơm bên cung Gia Thọ!


- Thị nữ mà đã được tuyển vào hầu kế cận Thái hậu thì cũng không phải dân quê tầm thường đâu! Cũng là gốc gác nhà quan cả đó! Mấy hôm nay ta cũng nghe bọn thái giám rỉ tai nhau: “Trời làm một trận mưa giông/ Khiến con chim én vào trong đền vàng.” Vậy là nghĩa làm sao, phi có biết không? - Hoàng quý phi hỏi.


“Thật đúng cái bà này chỉ ngồi như phỗng trong cung, chẳng biết cái gì với cái gì!” - Thấy Vũ Thị Duyên cứ bình chân như vại, Thiện phi bực bội quá. Nàng lập tức vanh vách đem hết câu chuyện Kim Yến được gặp vua kể lại từ đầu đến cuối, không quên thêm mắm dặm muối, kèm theo những tiếng “Hứ” tiếng “Hây da” đầy ghen tức.


- Con chim én, tức là con Kim Yến đó! Nghe cái tên đủ biết xuất thân ra sao rồi! - Thiện phi cay nghiệt.


Nguyên Lượng tần có tên cúng cơm là Nguyệt, trùng với tên của Thái hậu khi còn nhỏ tuổi. Vì vậy khi nàng vào cung, Hà Hoa đã cho đổi gọi là Kim Yến. Ngày ấy, tên con gái thường được đặt theo những đức hạnh, như Nhàn, Tĩnh, Đoan, Chính… hoặc những gì dài lâu, vĩnh cửu như Hằng, Thủy… Những tên hoa, tên chim: Hà Hoa, Kim Yến, Tố Quỳ, Xuân Lan… là những cái “bóng sắc” mong manh, thường chỉ đặt cho người hầu, bởi vì chủ nhân của họ muốn được sống giữa một khung cảnh gồm toàn những hình ảnh đẹp.


Nghe Thiện phi chê bai cái tên Yến của Lượng tần, Hoàng quý phi gật gật đầu:


- Tên này thì bây giờ phải đổi thôi! Để ta tâu với Hoàng thượng, xin ban tên mới cho hắn.


- Ôi! Hoàng quý phi không phải lo! Hoàng thượng đã đổi tên cho hắn là Hương rồi! Được ban tên là Hương, mà không biết có thơm tho gì không! - Thiện phi gần như rít lên qua kẽ răng.


- Hắn là con gái thanh tân, thì chắc là thơm phức, hơn đứt chị em mình rồi! - Vũ Thị Duyên nói.


Vẻ thật thà của Hoàng quý phi làm Thiện phi phát chán, nàng thất vọng đứng dậy cáo từ.


Về cung, nàng sưng sỉa mặt mày, không ăn, không ngủ. Thị nữ Tố Quỳ bưng cháo đến bên giường, dỗ dành:


- Xin lệnh bà ráng nguôi ngoai. Dù sao đi nữa, kẻ kia cũng chỉ mới ở hàng tứ giai, trong khi bà đã là nhất giai phi, còn lâu lắm hắn mới bén được gót chân bà. Đường dài mới hay sức ngựa, đã biết ai hơn ai?


Thiện phi nhắm mắt, hai dòng lệ cứ tuôn chảy xuống hai bên thái dương. “Ngôi cao hoàng quý phi thì Vũ Thị Duyên đã ngồi, giờ Hoàng thượng có làm gì đi nữa mụ ta cũng chẳng thèm động tâm. Giờ mụ chỉ lo tưng tiu cái ông vua con Ưng Chân của mụ! Hoàng thượng thì nay con nô tỳ kia nó đã chiếm mất. Ta đã thành một người thừa! Công lao ta hầu hạ nhà vua bao năm, có ai tính cho ta không?” Thiện phi khóc ròng, nàng hoàn toàn suy sụp.


Ngoài hiên, cậu bé Ưng Thị tha thẩn chơi. Không ai quan tâm tới cậu, ngoài hai tỳ nữ theo hầu. Hai tỳ nữ này cũng đang xao động vì không khí u ám trong cung Phấn Trang, họ thì thầm những chuyện tọc mạch với nhau nhiều hơn là nhìn theo tiểu chủ. Vì vậy phần lớn thời gian, hầu như hoàng tử nhỏ chỉ lúc thúc tự chơi một mình.


Chương 28


Bản điều trần thứ 58


Dư đảng Thái Bình Thiên Quốc bên Tàu vẫn đang tiếp tục tràn sang, chiếm giữ hầu hết vùng rừng núi mạn ngược dọc biên giới.


Mặc dù Nguyễn Tri Phương đã dâng sớ xin đi đánh giặc, nhưng Hoàng đế vẫn ngần ngừ chưa quyết. Ngài lo rằng, kinh thành vẫn chưa yên. Giữ Phương lại, ngài sai hai đại quan khác là Phạm Chi Hương và Đoàn Thọ ra Bắc.


Cái loạn Chày Vôi năm trước vẫn còn in sâu trong lòng ngài. Cho đến bây giờ, ngài vẫn cảm thấy hoang mang đau đớn: Vì sao ngôi lăng của ngài, quy mô và kinh phí không lớn hơn Hiếu lăng của Thánh Tổ Minh Mạng, lại làm cho ngài mang cái tiếng là “Thành xây xương lính, hào đào máu dân”? Tại sao ngài rất thương yêu tha thứ với anh em con cháu, lại chịu nhiều sự nhòm ngó tranh đoạt từ chính máu mủ trong hoàng tộc? Tại sao một ông vua tự xét mình là nhân đức hiếu hòa, hàng năm lo lắng mở kho thóc phát chẩn cho dân đói… lại chịu nhiều sự chỉ trích và nhiều âm mưu lật đổ nhất từ khi có triều Nguyễn đến giờ?


Có khi trong phút băn khoăn đau buồn cực độ, ngài thổ lộ với Thái hậu. Chuyện này, những người đàn bà của ngài không ai đủ tầm để chia sẻ. Thái hậu nhẹ nhàng yên ủi:


- Hoàng thượng nhân hiếu, khoan hòa, tuy làm vua trọn quyền sinh sát, mà trước nay chưa từng giết một ai không qua tòa xử. Nhưng Hoàng thượng mạnh về ân đức mà kém về quyết đoán, nên cái uy chưa khuất phục được triều thần. Triều thần, Hoàng thượng biết đó, không bao giờ có thể thống nhất thành một khối được. Muốn họ tạm thống nhất trong từng giai đoạn, phải có cái uy của Hoàng đế.


- Cũng có thể con không có tài làm vua? Con không có tài của một thủ lĩnh?


- Đòi hỏi cái tài tuyệt đối ở ông vua không dễ, vì vua được lựa chọn theo luật kế thừa, do dòng dõi đế vương, nên sự trội vượt chỉ là tương đối trong phạm vi cùng huyết thống. Vì vậy người xưa quan niệm làm vua cần cái đức hơn cái tài. Mẹ đọc truyện Phong Thần, Tam Quốc, thấy Võ Vương, Lưu Bị dấy nghiệp, trước hết là nhờ cái nhân đức mà thu phục thiên hạ. Còn tài điều khiển quan, quân thì chính là ở ngôi tể tướng, quân sư, như Khương Tử Nha, như Khổng Minh… Làm vua giỏi là ở chỗ biết tìm người giỏi làm trọng thần! Cho nên vua Võ phải bái Lã Vọng, Lưu Bị phải ba lần vào núi tìm Khổng Minh là vì vậy!


- Vậy là việc thống nhất triều chính rất cần ngôi tể tướng. Nhưng triều Nguyễn ta xưa nay lại có lệ bất lập tể tướng…


- Vâng, nhưng từ thời Thánh tổ Minh Mạng đến khi con lên ngôi, Trương Đăng Quế tuy không được phong tể tướng, cũng quán xuyến hết việc triều đình chẳng khác chi tể tướng đó con.


- Dạ, đúng vậy. Đời này thật chẳng ai thờ vua hết lòng hết dạ như quận công. Từ khi quận công rời bỏ triều chính, con cảm thấy thực sự vô cùng hụt hẫng.


Thái hậu lặng im một lúc, miên man nghĩ: “Nếu còn Đăng Quế, đối mặt với tình hình mới này, liệu có chống đỡ nổi hay không?” Thực sự bà cũng không thể trả lời chính xác cho câu hỏi của mình. Liệu căn bệnh bột phát năm 1862 khiến Quế phải rời bỏ triều chính, là sự không may hay là may mắn cho Quế?


Trong khi Thái hậu còn ngẫm ngợi chuyện cũ, thì Hoàng đế Tự Đức lại bắt đầu nghĩ về chuyện sắp đến: ngài nghĩ đến cái người mà ngài hy vọng sẽ lấp đầy khoảng trống do Trương Đăng Quế để lại.


Ngài đang suy tính cách làm sao lôi Nguyễn Văn Tường từ huyện Thành Hóa đèo heo hút gió về lại kinh đô, để đặt lên cái ghế nhất phẩm đại thần. “Bây giờ là thời chiến, cách cất nhắc nhanh nhất là tạo cơ hội cho y lập chiến công.” - Hoàng đế thầm nghĩ.


Không bao lâu sau, Nguyễn Văn Tường nhận chức Tán tương quân thứ, theo giúp quan Trung quân Đoàn Thọ. “Đánh giặc không phải chỉ cần sức mạnh, mà cần có cơ mưu. Đây là cơ hội cho ngươi thi thố tài năng, hãy gắng sức để khỏi phụ lòng tin cậy của trẫm.” Hoàng đế ban chỉ căn dặn lúc Tường rời Thành Hóa ra Bắc.


Lúc bấy giờ miền Bắc càng lúc càng loạn. Thái Bình Thiên Quốc vốn là một đám loạn lớn bên Tàu, trong mười ba năm trời chúng đã cát cứ gần một phần ba nước Trung Hoa, đóng đô ở Nam Kinh. Nay lực lượng này tan rã, các tướng giặc kéo nhau xâm nhập vào miền Bắc nước Việt, chia ra làm ba đạo Cờ Đen, Cờ Trắng, Cờ Vàng.


Bọn này cực kỳ hung dữ, còn ghê gớm hơn giặc biển Tạ Văn Phụng mấy năm trước. Nguyễn Văn Tường chân ướt chân ráo ra Bắc, chưa kịp trổ tài “quân sư” thì bị bọn Cờ Đen của Tô Tứ đánh phủ đầu một trận. Thành Lạng Sơn bị đánh úp giữa đêm, quan lãnh binh thủ thành bị giặc tràn vào giết chết tươi. Nguyễn Văn Tường là văn quan, tình cảnh ấy còn chước mưu gì hơn là vắt giò lên cổ chạy. Chạy thục mạng về đến Kỳ Lừa, Tường mới biết Trung quân Đoàn Thọ còn kẹt ở trong thành. Đêm ấy, Đoàn Thọ chỉ còn vỏn vẹn mười lính hộ vệ, hết sức chống cự nhưng rốt cuộc đều bị giặc giết, băm vằm tan nát không còn xác.


Tường ngồi bệt xuống đất, rũ liệt, đầu cúi gục trong một góc đồn binh. Chợt một bàn tay vỗ mạnh vai ông:


- Thôi! Ở cái vùng này, sống chết chỉ cách nhau gang tấc. Ân hận cũng chẳng được gì. Hãy mừng vì mạng ông còn lớn!


Nguyễn Văn Tường ngẩng nhìn, đôi mắt còn đục ngầu tia máu:


- Người là ai?


- Bản chức là Tôn Thất Thuyết, đang lĩnh chức Tham tán quân vụ tỉnh Thái Nguyên. Sáng nay vừa nhận lệnh điều động lên Lạng Sơn cứu viện!


- Thì ra là quan Tham Tôn? Lâu nay ta đã có nghe danh ông.


Tôn Thất Thuyết lâu nay vẫn nổi tiếng là tướng dữ của vùng trung du phía Bắc. Tuy thua Tường e đến ngoài chục tuổi, nhưng Thuyết cũng ngang chức đồng hàng, trong nghề võ đã có danh tiếng, lẽ ra Tường phải đứng dậy làm lễ tương kiến mới phải. Nhưng trong tình cảnh ê chề mỏi mệt, Nguễn Văn Tường chỉ uể oải thở ra một câu lấy lệ.


Tôn Thất Thuyết thấy vậy, hiểu tâm trạng Tường, nên chỉ vuốt râu cười ha hả.


- Vì sao ngài cười? Có gì đáng cười đâu? - Nguyễn Văn Tường quạu cọ.


- Làm tướng ở sa trường, thì da ngựa bọc thây là chuyện thường. Đã cầm gươm trong tay, thì cứ việc chém thù như chém chuối. Mà không chém được chúng, thì… chúng chém! Đơn giản có vậy thôi.


Nguyễn Văn Tường làm thinh. Việc đó, ai chẳng biết. Nhưng bây giờ, cái lo của Tường không phải là chuyện sống chết nữa rồi. Hiểu ý Tường, Tôn Thất Thuyết nói rổn rảng:


- Tôi biết cái lo của quan bác. Chết tại trận mạc thì đã khỏe. Còn bỏ thành mà chạy, thì về triều ít nhất cũng lãnh cái án trảm giam hậu, coi như chẳng có chút tương lai. Nhưng mà thôi, chẳng phải ngượng ngùng chi chuyện đó, nói thật lòng, ai chẳng cầu sống. Theo ý tôi, quan bác đừng dâng sớ chịu tội làm gì. Cứ gom hết quân tàn, đi theo bọn tôi, trở lại Lạng Sơn, đới công chuộc tội, có phải hơn không?


Nhờ nghe lời Thuyết, nhanh chóng quay lại chiến trường, nên Nguyễn Văn Tường chỉ bị giáng bớt hàm chứ không bị cách chức, vẫn còn giữ được cái chức Tán Tương. Bắt đầu làm quen với tình thế, cái cơ trí của ông lại có chỗ dùng: Với tài đàm thuyết trời cho, ông tìm cách chia rẽ các nhóm Cờ Đen, Cờ Vàng, Cờ Trắng. Chính sách của ông là liên kết với Cờ Đen để triệt hạ hai Cờ kia.


Trong một buổi hội đàm, Tôn Thất Thuyết cười ha hả:


- Kế sách của quan bác rất hay! Khác nào chính sách của Khổng Minh: Bắc cự Tào Tháo, Đông hòa Tôn Quyền!


Nguyễn Văn Tường không giấu được vẻ đắc chí:


- Còn hơn vậy nữa! Dĩ Tôn Quyền diệt Tào Tháo, mới đúng!


Ý Tường muốn nhắc đến việc quân Cờ Đen đã tiêu diệt xong Cờ Trắng và còn đang hục hặc với Cờ Vàng, trong khi quân triều đình chỉ việc đứng nhìn, không động gươm đao.


Tôn Thất Thuyết nghe vậy cũng nhếch mép gật gù, nhưng trong lòng thầm nghĩ: “Coi bộ y đã tỉnh hồn rồi đó! Nhưng coi chừng, bọn Cờ Đen bây giờ đã phồng lên, thâu tóm hết tàn quân của lũ kia. Giờ nó dữ dằn cũng bằng ba Cờ khi trước gộp lại, kém đâu? Không có ta cầm gươm đứng đây thì chúng nó chẳng để yên cái lưỡi của ông đâu!”


∞∞∞∞∞


Hôm ấy ở trong phủ, Gia Phúc thấy nắng mới, liền gọi thị nữ đem chăn áo ra sân phơi.


Dưới hiên, vú Nhự đang đút cho cu Quắc ăn bánh nậm nóng. Cậu bé ngồi trên lòng vú già, vừa ăn vừa đung đưa hai chân, vừa bi bô nói chuyện với con khướu trong lồng.


Gia Phúc đứng trên thềm, hỏi:


- Vú ơi, phò mã đi đâu, vừa ngủ dậy đã không thấy mặt?


Vú Nhự ngẩng lên:


- Bẩm, sáng sớm bên dinh nhà cho người sang gọi. Nghe bảo đại tướng cảm nhiệt cả tuần nay, trong cung phải cho nội thị đem nhân sâm ra ban cho.


Đến trưa Nguyễn Lâm trở về, mặt mũi ưu tư.


- Cha năm nay đã bảy mươi, sức khỏe không khỏi suy giảm. Việc nước ngày càng khó, chắc đầu tháng tới cha lại phải lên đường ra Bắc.


- Hả? - Gia Phúc nhăn mặt - Sao thiếp nghe bảo Hoàng thượng bắt cha phải ở lại giữ kinh thành?


- Lâu nay thì đúng như vậy! Nhưng vừa rồi, miền Bắc loạn to, quan Trung quân Đoàn Thọ chết tại trận. Miền Bắc đang như rắn không đầu. Cực chẳng đã, Hoàng thượng phải để quan đại thần Trần Tiễn Thành lên thay giữ Bộ Binh. Cha mình đã được phong Tam Tuyên Quân Thứ Khâm Mệnh Đại Thần, mồng chín này lên đường ra Hà Nội!


Gia Phúc vẫn còn ngơ ngác:


- Nhưng cha còn bệnh mà…


- Bởi vậy ta mới lo… - Nguyễn Lâm ngồi xuống, mặt dàu dàu. - Ta đã nghĩ kỹ rồi, lần này ta phải theo cha đi tùng chinh mới được!


Gia Phúc hốt hoảng:


- Chàng nói gì? Sao chàng lại phải đi tùng chinh?


- Làm tôi phải trung, làm con phải hiếu. Đánh giặc giúp nước, ra trận theo cha là nguyện vọng của ta từ lâu rồi. Huống hồ nay cha tuổi già thân bệnh, dầu dãi vì việc nước, ta đang tuổi tráng niên lại nằm nhà đắp mền, thử hỏi có giống ai không?


- Vậy thiếp thì sao? Thiếp là em vua, chàng đã nói trung với vua thì trước hết phải lo cho thiếp đã. Việc nước đã có quân với dân, chàng là rể hoàng gia sao lại phải gánh.


- Nàng nói vậy không đúng đâu, thôi không cãi với nàng nữa. Ta thương nàng, thương con lắm nhưng ở nhà không được.


Gia Phúc quen bài lấn át chồng để bắt phải theo ý mình, nay thấy Lâm cứ khăng khăng thì hoảng sợ, mếu máo:


- Chàng đi xa ai trông coi nhà cửa, ai dạy dỗ cho con. Ai dạy khinh công cho thiếp…


- Có một bài khinh công nhập môn, nàng học mãi từ lúc còn son rỗi cho đến giờ con đã ba tuổi, mà một cái hố sáu tấc cũng không nhảy lên được. Thôi đừng nhắc tới chuyện đó nữa đi! - Lâm làu bàu.


Gia Phúc tự ái:


- Tại chàng không chuyên tâm dạy thiếp. Chứ tại sao con Cúc Tần là nô tỳ mà nó học được. Thiếp là công chúa, không lẽ thua nó?


Cứ như thường lệ, mỗi lần Gia Phúc đỏ mặt tía tai, vùng vằng khóc lóc, là Lâm lại cầm tay nàng kéo giật vào phòng khuê, cù vào nách, vào rốn nàng, hôn hít một lúc cho đến khi nàng bật cười rúc rích, chúi vào lòng chàng mới thôi. Hôm nay, Lâm cũng cầm tay Gia Phúc kéo vào phòng, nhưng chỉ ôm nàng ngồi yên, không nói.


Gia Phúc ngồi trong vòng tay chồng một lúc, thấy Lâm cứ lặng yên phăng phắc, nàng khẽ đưa tay chọc chọc vào ngực chàng, như muốn thăm dò. Ngước lên nhìn, thấy chồng vẫn nghiêm trang, nàng e dè, khe khẽ hỏi:


- Chàng ơi… Vậy là chàng nhất quyết đi thật sao?


Nói dứt lời hai dòng nước mắt nàng chảy dài trên má.


Nguyễn Lâm siết chặt vòng tay ôm vợ, chàng lặng lẽ gật đầu.


Mấy hôm sau, Lâm mời Nguyễn Chí về phủ uống rượu chia tay.


Giữa cuộc rượu, Lâm dẫn Chí đến cái môn mi - tức là cái cửa võng nhìn ra vườn sau. Trong vườn, Gia Phúc đang đưa cu Quắc ra chơi. Mấy thị nữ vây quanh, họ làm quả cầu bằng một cái bong bóng lợn bọc trong miếng sa mỏng thắt lụa đỏ, tung hứng với nhau để dụ đứa trẻ. Tiếng reo vui vang vang một góc vườn. Riêng Gia Phúc ngồi yên dưới bóng cây vả nhìn con, vẻ mặt buồn rười rượi.


Lâm nói:


- Con trai của đệ đó! Trước đệ vẫn nghĩ sẽ đích thân dạy cho con trở thành một trang anh hùng hảo hán ở đời. Nhưng nay mai đệ phải đi rồi. Nhờ huynh dạy dỗ cho đứa con của đệ, công ơn ấy đệ ghi lòng không quên!


Nguyễn Chí phân vân:


- Nghe nói công tử chưa đầy bốn tuổi, sao phò mã phải vội nghĩ đến chuyện học hành chi sớm?


- Vâng, sớm mà không sớm, vì nay đệ đi tòng chinh, chưa biết khi nào về. Có ít cũng ba bốn năm sau, khi ấy con đã lớn lắm rồi. Đệ làm cha, phải cắt đặt trước mọi việc cho con mới yên lòng ra đi.


Cuối tuần trăng ấy, đại quân lên đường ra Bắc. Gia Phúc níu chặt áo chồng khi Lâm nai nịt rời khỏi phủ. Lâm gằm mặt, gạt tay vợ ra, lên ngựa đi.


Gia Phúc lăn xuống đất khóc. Vú Nhự vực nàng lên, lôi vào phòng đóng chặt cửa:


- Công chúa phải chịu khó nén lòng lại! Hôm nay xuất chinh, công chúa làm vậy hại đến khí vận may mắn của phò mã!


- Khí vận khí vận… Đừng đem chuyện đó nói với ta. Tất cả đều là bịa đặt hết. Phò vua giúp nước, cũng là bịa đặt hết… - Gia Phúc nức nở.


- Bậy, bậy quá, công chúa đừng nói vậy, vô đạo phạm thượng, đến tai Thái hậu thì mang tội không nhỏ.


∞∞∞∞∞∞


Từ lúc Kim Yến được ban tên Nguyễn Thị Hương và được phong Lượng tần, không thấy thái giám Trung Lương xếp lịch cho toàn thể phi tần luân phiên hầu vua nữa. Trước kia, sở dĩ có lệ như vậy là để ai cũng được thử vận may sinh con nối dõi. Nhưng sau hàng chục năm trời, các bà phi đó đã chẳng đem lại mảy may hy vọng. Hoàng đế thì tuổi càng lớn, việc càng nhiều, cũng cần được nghỉ ngơi. Ngài quả thật đã chán đến tận cổ cái việc phải gần gũi đàn bà, để làm công việc của một con giống vô vọng.


Dần dần, chỉ còn một mình Lượng tần được lên xuống tẩm cung.


Có phải nàng được sủng ái vì nàng trẻ, xinh, hồn nhiên, hóm hỉnh? Chuyện trong thâm cung, có trời mà biết, nhưng các thái giám ở điện Càn Thành dạo này thường xì xầm: Hoàng thượng đã đến cái lúc thích ngửi mùi hơn là nếm vị, và sự quyến rũ của Lượng tần chính là ở mùi thơm bí ẩn của thân thể.


Mùi thơm ấy, không phải là mùi tự nhiên của gái trinh như Hoàng quý phi đoán già đoán non. Bí quyết của hương thơm nằm trong chiếc túi nhỏ mà hôm nay Lượng tần đang lấy ra, sau khi đóng chặt cửa buồng. Đưa tay vào túi, nàng lấy ra từng vị thuốc, miệng lẩm nhẩm kiểm đếm:


“Trầm hương, đinh hương, giáng hương, nhũ hương, hồi hương, mỗi thứ một lạng;  Sa nhân, cam tùng hương, bạch chỉ, tam nại, tế tân, xuyên khung, cao bản, quế tâm, đương quy, tam não, bách dược tiên,  nhục đậu khấu, đậu phấn, mỗi thứ một lạng. Thêm một chỉ xạ hương…” Lượng tần đếm lại cẩn thận các vị thuốc đã tán thành bột mịn, rồi hòa tất cả vào một bát mật ong. Bài thuốc này do Thái hậu đọc được trong sách Nữ khoa thiết yếu, đã sai Hà Hoa chép lại. “Công dụng của bài thuốc là ấm người, tráng dương, kỵ gió, làm dịu tinh thần. Thái hậu đọc thấy trong sách xưa, nên truyền ban cho bà.” Hà Hoa dặn, giờ đây cách xưng hô giữa hai dì cháu đã thay đổi.


Lượng tần đã làm thử, nhào bột với mật ong vê thành viên nhỏ, mỗi sáng ngậm một viên. Quả nhiên mấy hôm sau thân thể toát ra mùi hương dịu nhẹ quyến rũ, da dẻ cũng dần dần mềm mịn như tơ bông. Cái tên Hương của nàng cũng gốc gác từ việc ấy.


“Bẩm bà, đầu giờ Thân đã phải ra xe. Con thấy bên kia Thiện phi với mệ Tríu đã sẵn sàng cả rồi. Xin bà nhanh nhanh kẻo trễ”. Thị nữ đứng bên ngoài thưa vọng vào.


Lượng tần vội vàng cho cả hộp thuốc vào tủ, khóa lại cẩn thận rồi mới nhìn vào gương, chỉnh đốn áo khăn. Không muốn chạm mặt với Thiện phi sớm, nên nàng bảo thị nữ:


- Con ra đầu hành lang đứng chực, hóng chừng lên cửa Tấu Môn cho ta. Khi nào thấy ông giám Trung Lương ra hiệu thì chạy vào báo. Lúc đó ta ra là vừa.


Hoàng đế vẫn có thói quen thỉnh thoảng đi thăm một vài phủ đệ, đi đâu cũng cho Lượng tần theo cùng. Hôm nay, ngài dự tính đi thăm phủ Kiên Quốc công Hồng Cai, nên Thiện phi cũng được lệnh đưa hoàng tử nhỏ cùng đi. Vào cung làm hoàng nghĩa tử từ lúc mới lên hai, cậu bé bây giờ đã năm tuổi, lần đầu được đưa về thăm cha mẹ. 


Hai bà, một phi, một tần cứ thập thò ở hai cung, không ai chịu xuất đầu lộ diện, ai cũng chờ xa giá Hoàng đế sẵn sàng rồi sẽ bước ra. Nhưng giờ Thân đã điểm khá lâu, ả thị nữ đứng chực nhấp nhổm mãi vẫn không thấy Trung Lương thò mặt ra cửa điện.


Ấy là vì trong lúc Hoàng đế sắp xong việc, thì Thượng thư bộ Binh Trần Tiễn Thành lại xin yết kiến. Câu chuyện giữa vua tôi khá quan trọng, khiến Hoàng đế quyết định nán lại để bàn bạc cho xong.


- Nguyễn Trường Tộ thỉnh cầu như vậy à? Sao có chuyện lạ như vậy? Trước đây Trẫm đã đọc rất nhiều sớ của hắn, lần nào cũng là canh tân, chủ hòa. Sao nay lại...?


- Tâu Hoàng thượng, lần này ý kiến y khác hẳn. Y xin triều đình cử y vào Nam, sẽ tìm cách đánh úp quân Pháp, lấy lại sáu tỉnh.


Hoàng đế nhìn Trần Tiễn Thành. Ngài định thần một lúc mới tin ở tai mình. Lấy lại sáu tỉnh miền Nam, đó là giấc mơ làm ngài trăn trở, quằn quại từ hơn mười năm nay rồi. Nó làm ngài quay quắt, miệt mài, rồi thất vọng rất nhiều phen, đến nỗi ngài không dám nghĩ đến nữa.


Bây giờ bỗng có người gợi lại, làm rộn lên trong tâm tư nhà vua một cảm giác khó tả, bao gồm cả hy vọng, phấn chấn, pha lẫn với đau thương.


- Nguyễn Trường Tộ nói rõ trong sớ, đây đang lúc thời cơ trăm năm có một, không thể bỏ qua! - Trần Tiễn Thành tâu.


- Thời cơ thế nào, hãy nói rõ cho trẫm nghe.


- Tâu Hoàng thượng! Theo Tộ, thì hiện nay nước Pháp đang lâm vào cuộc chiến với nước Phổ Lỗ Sĩ. Trước kia, chúng chỉ định chiếm Sài Gòn Gia Định để làm căn cứ giao thương với Trung Hoa và các nước trong biển Nam. Chúng chiếm sáu tỉnh miền Nam, cũng chỉ cốt để giữ chắc Sài Gòn Gia Định. Nay đang chiến tranh, nước Pháp phải dồn sức người, sức của sang châu Âu, lực lượng ở miền Nam rất mỏng. Theo Tộ, Tộ đã nghĩ ra cách để đánh úp lấy lại sáu tỉnh. Trong cùng lúc, phải mở rộng quan hệ sang nước Anh Cát Lợi, để khi Pháp giải quyết xong mối quan hệ với Phổ thì ta đã vững thế chân vạc về ngoại giao, không hoàn toàn bị Pháp lấn át...


- Nếu được vậy thì còn gì bằng, trẫm sẽ bàn ngay với Viện Cơ mật.


Trần Tiễn Thành lo lắng:


- Tâu, việc này rất trọng đại, không thể trùng trình. Xin Hoàng thượng đứng ra quyết đoán. Nếu giao xuống cho Hội đồng Cơ mật, chín người mười ý biết bao giờ thống nhất?


Nhà vua nhăn trán một giây, rồi gật đầu:


- Khanh nói phải! Hãy cho gọi Trường Tộ lập tức về Kinh cho trẫm hỏi kỹ mọi chuyện. Việc lớn này cần giữ kín, trong lệnh vời hãy tạm ghi là vời Tộ về Huế để tổ chức đưa người đi du học bên Anh.


Chương 29


Một bước lỡ, hận nghìn năm


Trong khi ngự đến phủ Kiên Thái, Hoàng đế Tự Đức nói rất ít, lộ rõ vẻ trầm ngâm. Ngài vẫn còn nghĩ về câu chuyện Trần Tiễn Thành vừa tâu trình.


Lượng tần Nguyễn Thị Hương chầu chực bên cạnh, nhận ra vẻ ưu tư của nhà vua. Nàng thỏ thẻ:


- Hoàng thượng! Hôm nay Kiên Thái công đón rước xa giá, ai cũng hân hoan, sao Hoàng thượng trầm ngâm không vui? Có điều gì không vừa ý Hoàng thượng chăng?


Lệ thường ở chỗ đông người, phi tần đều phải nín khe cung kính, vua không hỏi thì không lên tiếng. Chỉ có Lượng tần mới dạn dĩ hồn nhiên như vậy. Tả hữu ngạc nhiên lo lắng nhìn nhau. Nhưng nhà vua chỉ nhìn nàng, mỉm cười:


- Trẫm xưa nay vẫn thương quý anh em. Đến nhà hoàng đệ thấy cảnh an khang như thế này, trẫm vui trong lòng không cần nói nhiều. Hoàng đệ, em hãy đem gia quyến ra lạy chào, để trẫm ban ơn cho họ.


Thiện phi thấy Lượng tần cứ nhí nhảnh bám sát bên vua thì bực mình ra mặt, thỉnh thoảng lại nguýt ngầm, nhưng cố giữ vẻ tươi tỉnh. Nàng bảo nhũ mẫu dẫn tiểu hoàng tử mệ Tríu đi sát bên mình, thỉnh thoảng lại đưa tay sửa sang chiếc áo gấm đỏ của cậu bé, tỏ vẻ âu yếm thương yêu.


Phủ thiếp Bùi Thị Thanh, mẹ đẻ của hoàng tử nhỏ, nhìn con đăm đăm, mắt long lanh xúc động. Đã ba năm rồi, nàng mới thấy lại con trai. Lòng nàng đau xót: hồi trao con cho cung nhân bồng đi, cậu bé mới lên hai, bụ bẫm đáng yêu lắm. Bây giờ lớn lên trong cung, sơn hào hải vị gì cũng có, ngự y chầu chực bên mình, mà sao con gầy xanh, có vẻ lả lướt hơn xưa. Nghĩ vậy nhưng phủ thiếp không dám hé lộ nỗi băn khoăn, chỉ một mực cung kính cúi đầu.


Hoàng tử nhỏ rời mẹ từ lúc chưa có trí nhớ, nên khi phủ thiếp tìm dịp lại gần, cậu bé quay đi tỏ vẻ khó chịu. Cậu gần như thét lên giận dữ khi thấy người đàn bà xa lạ lén lút chạm vào tay mình. Cố nén nghẹn ngào, phủ thiếp vội dang ra xa. Vừa lúc đó, tất cả các con nhỏ của Kiên Thái công đang được người nhà đưa ra lạy chào. Lượng tần thấy một cậu bé trạc lên hai, thân mình nhỏ xíu tròn xoay, nét mặt cứ hớn hở cười hoài. Nàng tỏ vẻ vui thích, bước đến gần chìa tay thân thiện. Không biết có phải vì thích mùi thơm dìu dịu tỏa ra từ người nàng không, đứa trẻ vươn hai tay về phía Lượng tần, như thể đã quen thuộc từ lâu.


Lượng tần vốn thích trẻ con, thấy vậy nàng liền đỡ lấy đứa bé từ tay nhũ mẫu, áp mái tóc tơ của đứa nhỏ vào má mình, âu yếm.


Hoàng đế Tự Đức thấy vậy, liền phán:


- Tiểu công tử này có vẻ quyến luyến ái khanh lắm! Ái khanh thích không, trẫm sẽ cho ái khanh nhận nó làm con!


Lượng tần đang còn ngẩn ngơ chưa dám tin ở tai mình, thì Kiên Thái công đã quỳ sụp xuống trước mặt vua:


- Hoàng thượng vạn tuế, vạn vạn tuế! Tạ ơn Hoàng thượng đã thêm một lần nữa ban vinh phước cho nhà thần.


Lượng tần run run:


- Hoàng thượng! Lòng thương của Hoàng thượng như trời như biển, thiếp biết lấy gì đền đáp ơn sâu của người!


- Được rồi! Trung Lương, ngươi truyền cho chọn ngày lành tháng tốt, đón tiểu hoàng tử nhập cung.


Cả nhà Kiên Thái công nhất loạt quỳ xuống tung hô. Ai nấy đều mừng: một công tử được vua nhận làm con đã là điều các công phủ khác mơ ước mà không được, đằng này phủ Kiên Thái lại được đến hai công tử, vẻ vang đến thế là tột bậc.


Phủ thiếp Bùi Thị Thanh quỳ lâu nhất, nàng khấu đầu, mặt úp hẳn xuống đất, cố che dòng nước mắt tuôn trào. Công tử Ưng Hỗ, vừa được Hoàng đế nhận làm con chính là đứa con thứ hai của nàng.


Đêm ấy, đèn trong phòng phủ thiếp họ Bùi cứ lay lắt sáng. Thị nữ dậy sớm vén màn nhìn vào, thấy phủ thiếp ôm con ngồi vò võ trên giường, tóc rối xòa xuống mặt. “Ôi trời, bà thức tới sáng vậy sao?”


“Con chó dưới nhà ngang nó kêu rên cả đêm, ta không ngủ được.” Nàng nói, cố tỏ vẻ bình thản.


- Dạ, chó nhà ta đẻ bốn con, mới đem cho hết rồi. Nó xót con nên mấy bữa nay cứ kêu hoài thảm lắm, tội nghiệp.


Ả thị nữ nói, rồi bươn bả ra trước sảnh đường, quét dọn những hoa rơi lá rụng, tàn dư của buổi tiệc hôm qua.


Từ phủ Kiên Thái về cung, nhà vua sai Trung Lương thắp cây đèn tọa đăng để ngài xem lại thật kỹ bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ. Ngài cũng truyền cho triệu thượng thư Bộ Hộ ngày mai vào chầu sớm, để ngài xem lại tình hình công khố hiện ra sao. Làm một việc lớn, trước hết phải lo đến tiền bạc, mà hiện nay số ngân lượng chuyển ra Thành Hóa để lo xây dựng căn cứ cũng không hề nhỏ.


Được tin Trường Tộ về lại kinh đô, Nguyễn Chí mừng khôn tả. Chàng nhớ cái ngày tiễn Tộ về quê Nghệ An một năm trước, một ngày mưa lâm thâm lạnh buốt. Lúc ấy chàng đã nghĩ là tuyệt vọng.


Hai người hẹn gặp nhau ở quán cơm Âm Phủ gần cánh đồng An Cựu. Chí cười, mặt mày rạng rỡ:


- Đệ thực tình thán phục nhân huynh. Trầy trật mãi với một giấc mộng, mà nhất định không chịu từ bỏ.


- Trừ khi ta xuôi tay nhắm mắt thì thôi, cái tâm nguyện canh tân, hưng quốc không bao giờ nguôi được. Bản điều trần này, là bản thứ năm mươi tám ta dâng lên triều đình, trong gần mười lăm năm nay!


- Lần này Hoàng thượng liệu có đủ quyết tâm? Hay lại như lần… mở trường kỹ thuật?


- Trong mười năm trở lại đây, mọi cố gắng đánh Tây đều là vô ích. Chỉ cơ hội này là duy nhất, nếu bỏ qua, chưa biết đến bao giờ mới có lần tiếp theo. Đệ biết đó, việc Pháp đánh ta, không phải việc một nước đánh một nước. Các nước châu Âu xâm lăng các thuộc địa thực ra là một chuyển động, một đợt sóng có quy mô thế giới. Chuyển động này chỉ có thể bị bẻ gãy khi thời cơ đến, với một đợt sóng khác cũng mang tầm thế giới. Bây giờ, đợt sóng ấy đang đến! Ta tin Hoàng thượng sẽ hiểu. Ngài thấm nhuần đạo Nho, thì cũng hiểu rõ thế nào là tầm quan trọng của chữ Thời.


- Liệu huynh có nắm chắc thành công?


- Nói thành công, thì kế hoạch nào cũng chỉ dự đoán được 99 phần trăm là tối đa. Ta đã tính kỹ. Tất nhiên không phải một trận mà thành, nhất định sau đó còn phải trường kỳ chiến đấu. Nhưng khi gọng kềm của chúng đã bị bung ra, đủ cho ta bắt được quan hệ với Anh Cát Lợi và Hoa Kỳ, thì tình thế sẽ khác hẳn!


Nguyễn Chí chỉ mang máng hiểu những điều Trường Tộ nói, nhưng chàng vẫn cảm thấy phấn khích vô bờ. “Ngày nào vào Nam, cho đệ đi theo với. Quê nhà đệ ở trong đó…” Chàng chợt nghẹn buồn, nhớ lại lời Phan Thanh Giản: “Ngày về còn xa lắm!”


Bây giờ, ngày ấy sắp đến rồi!


Chia tay Tộ ở cổng công quán, Chí giục ngựa về, lòng vẫn rộn ràng hai tiếng “Về Nam”. “Nem Chua ơi, tao với mày lại sắp sửa rong ruổi đường dài rồi đây!” Chàng vuốt bờm ngựa, con vật khôn ngoan ngóc đầu, hí lên như cũng đang háo hức cùng chủ.


Ba hôm sau, Nguyễn Trường Tộ cho người cầm giấy đến tận phủ Nguyễn Tri, gọi Chí đến gấp, đem theo hành trang. Chí mừng quá, chỉ kịp báo qua với Nguyễn Ngọc, rồi khăn gói gọn gàng lên ngựa đi ngay.


Trong nhà công quán, Trường Tộ đón Chí, vẻ mặt căng thẳng. “Ta cần đệ đi với ta, đi ngay bây giờ.”


- Vào Nam, đánh Tây? - Chí hăm hở.


- Không, ra Bắc.


- Sao…


- Đi ngay, may ra còn kịp.


Nói dứt lời, Tộ đưa vội chiếc khăn lên bưng miệng. Một búng huyết tươi thổ ra trên nền khăn trắng.


Chí hoảng hốt kêu lên một tiếng. Tộ xua tay:


- Chúng ta đi, vừa đi vừa nói sau.


Định gắng sức cưỡi ngựa về quê, nhưng đến An Lỗ, Trường Tộ tự biết không thể. Cả hai quyết định bán con ngựa, lấy tiền thuê người khiêng võng.


Trên đường đi, Tộ đã kể cho Chí: Thượng thư bộ Binh Trần Tiễn Thành đã sẵn sàng triển khai chiến dịch, Hoàng đế cũng rất ủng hộ. Cuộc viễn chinh này, nếu thực hiện thì Tiễn Thành sẽ là nguyên soái, Trường Tộ là mưu sĩ, mọi việc đã sắp đặt đâu vào đấy. Hiện miền Bắc đã có Nguyễn Tri Phương giữ yên, nên triều đình có thể dốc toàn lực về mũi phía Nam. Đồng thời, sẽ cho người liên lạc với viện Công hầu và viện Thứ dân, là lưỡng viện Quốc hội của Pháp để đàm phán…


- Vậy sao…


- Vấn đề là Hoàng thượng không dám một mình tự quyết, ngài vẫn đưa ra bàn với Hội đồng Cơ mật, chờ thông qua mới triển khai. Mà đã bàn là còn phải chờ.


- Chờ hay không, đến nước này đệ không còn quan tâm, đệ chỉ muốn hỏi tại sao nhân huynh ra nông nỗi này.


- Chính cái đó thì ta lại không biết. Chỉ biết sáng hôm qua, sau khi hội kiến với quan Thượng bộ Hộ, trở về ta thấy đau nhói trong ruột gan, chốc chốc lại mửa máu. Ta nhờ người lên báo với nhà thờ Phủ Cam, Đức cha cho bác sĩ đến khám, cho thuốc, mà vẫn không cầm được. Đến tối qua thì ta biết, thực sự…


- Thực sự sao, huynh nói đi! - Chí sốt ruột.


- Thực sự… - Tộ nói đến đây, cắn chặt răng nén một cơn đau - Thực sự, mọi việc đã hỏng hết rồi! Bây giờ việc duy nhất ta còn cần, là phải kịp về Nghệ An trước khi chết!


Nguyễn Chí điếng người lặng đi, úp mặt vào bờm ngựa, cố nén một tiếng kêu trời.


Trong gian nhà tranh nhỏ đơn sơ, Nguyễn Trường Tộ nằm ngay ngắn trên giường, thở yếu ớt. Người vợ trẻ bồng đứa con thơ đứng cạnh bên, nức nở.


Tộ cầm tay vợ, cố gắng trối trăn việc nhà. Thấy Nguyễn Chí bên kia giường, Trường Tộ gượng mỉm cười, thều thào đọc hai câu thơ:


Một bước lỡ… khiến ngàn năm hận,


Vừa quay đầu… hết kiếp trăm năm…


Nguyễn Chí cúi đầu, nhắm chặt hai mắt cay. Không biết Tộ đang nói đến bước lỡ của đời mình, hay bước lỡ của cả một dân tộc?


Vừa lúc đó, Giám mục Gauthier Ngô Gia Hậu đến. Tất cả mọi người lui ra, giữ yên tĩnh cho lễ rửa tội cuối cùng.


Giám mục Hậu đặt cây thánh giá lên ngực, xức nước thánh ba lần lên đầu Tộ. “Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội, và dẫn đưa con đến cõi sống muôn đời... Amen.”


Tộ đã nhắm mắt rồi, gián mục bước ra, nói với Chí bằng tiếng Pháp:


- Anh có biết vì sao Tộ chết không?


- Thưa, huynh ấy không may đột ngột bị xuất huyết dạ dày.


- Không phải, Tộ đã bị đầu độc.


- Trời, thật sao? Vậy thì, ai….?


Giám mục nhún vai, lắc đầu:


- Ai? Câu hỏi ấy chắc không bao giờ có câu trả lời chính xác. Nhưng việc đầu độc là chắc chắn. Một thế lực nào đó giấu mặt, đã không muốn cho những người Thiên Chúa giáo góp tay vào vận mệnh của nước Đại Nam.


Từ ấy, dưới bóng những cây bạch đàn ở làng Bùi Chu có thêm một nấm mộ quét vôi trắng đơn sơ. Đấy là nơi Nguyễn Trường Tộ an nghỉ. Những giấc mơ lớn của đời ông cũng chôn vùi ở đó.


∞∞∞∞∞


Về lại kinh đô, Nguyễn Chí vẫn chưa hết bàng hoàng. Trời tháng mười một mưa lạnh, không lạnh bằng cái cảm giác heo hút, trống trải của Chí lúc này…


Nguyễn Tri phu nhân, dù địa vị đã là nhất phẩm mệnh phụ, nhưng vẫn giữ tính cách chất phác của một bà mẹ quê. Thấy Chí lầm lũi một thân một mình, bà hay quở:


- Thầy Hai, răng không lấy vợ đi. Tuổi ngoài ba mươi, già rồi đó! Ở dưới quê mụ nhiều o mới lớn đẹp mơn mởn, thầy thích không để mụ làm mối.


- Dạ con cảm ơn phu nhân. Con là đứa mồ côi, không có gia đình gốc gác, ai bưng cau trầu đi hỏi vợ cho đây. - Chí tủm tỉm.


- Không ai thì đã có mụ đây. Thầy đã ở đây, mụ coi thầy cũng như con. Việc gây dựng mụ lo cho.


Chí vẫn cười không nói gì, lảng ra sân sau. Hôm nay gia nhân đang tụ họp đông đủ, chờ chàng ra dạy mấy bài võ phòng thân.


Phu nhân nói với theo:


- Thầy nhớ dạy cho gia nhân bên phủ Đồng Xuân nữa. Bên đó phò mã thì đi xa, cháu đích tôn của mụ thì còn nhỏ. Mụ lo lắm!


- Dạ, con nhớ. Xin phu nhân đừng quá lo, mấy năm nay kinh thành cũng yên, không đến nỗi. Từ khi đại tướng ra Bắc, giặc biển không vào cướp mùa màng nữa, nên năm nay giá gạo cũng không đến nỗi kinh khủng như năm ngoái…


Quả vậy, dân kinh thành đang có vài năm dễ thở. Sau vụ Chày Vôi, các âm mưu lật đổ sôi sục cũng đã tiêu tan. Người Pháp có vẻ tạm hài lòng với tình hình ở miền Nam, mấy năm nay không đe dọa gì. Dù vậy, đã mất đồng bằng phì nhiêu phía Nam, lại phải dồn quân lương để đánh giặc Tàu ở biên giới phía Bắc, nên cái bụng cả nước gắng lắm cũng chỉ có thể lưng lửng, không bao giờ no được.


- Đói thì không đói, dân kinh thành đời mô mà đói được. Nhưng mấy vùng quanh người ta vẫn còn thiếu miếng, nhiều nhà cũng túng quẫn. Thành thử trộm cướp nảy sinh. Bần cùng sinh đạo tặc, xưa đã có câu như rứa rồi. - Nguyễn Tri phu nhân nói -  Phủ bà chúa nằm ngay bên sông, có sẵn cái bến thuyền, kẻ gian cập bến nhảy lên dễ lắm, mụ nhắc nhở hoài mà cả vợ lẫn chồng chẳng chịu để ý.


- Dạ, bên phủ bà chúa cũng có gia tướng, cũng có lính canh, không đến nỗi nào đâu!


- Ôi, cái tụi gia tướng với lính canh do quan phủ gửi tới, toàn là mấy đứa đút lót để trốn đi tòng chinh. Đánh bạc thì giỏi chơ có võ vanh chi mô!


Nguyễn Chí mỉm cười. Té ra phu nhân chỉ quanh quẩn trong dinh, mà chuyện gì cũng biết.


Mấy hôm sau chàng gọi một tốp gia nhân, xách đèn chèo thuyền qua khoảng sông Bạch Yến trước phủ bà chúa, xem xét tình hình có gì đáng ngại không. Chỗ phu nhân Nguyễn Tri lo lắng là cái bến Nghênh Xuân, mấy năm qua vẫn là nơi để chơi thả đèn vào dịp tháng tư, thả cá vào rằm tháng bảy. Tiết Nguyên tiêu năm ngoái, công chúa cùng phò mã thưởng trăng trên bến này. Công chúa cho gọi hết thân thuộc và gia tướng trong cả hai bên dinh và phủ, chơi trò thả thơ và xem hoa quỳnh nở cho đến canh tư, trăng lặn mới tan.


Thuyền tuần tiễu của Nguyễn Chí đi ngang bến Nghênh Xuân. Bốn bề vắng lặng như tờ, chỉ có sương và trăng giăng kín. Trong đình vọng nguyệt, có bóng người ngồi một mình dưới bóng đèn lồng. Xa xa… nhưng Chí vẫn nhận ra công chúa vì màu áo hồng năm ngoái, cũng như những năm xưa. Nàng chống cằm, tay tỳ lên lan can, chìm đắm trong ưu tư, chẳng để ý chung quanh.


Chí nhớ ra, đêm nay cũng là Nguyên tiêu. Đêm trăng tròn đầu tiên của mùa xuân mới. Chẳng phải nói cũng hiểu, mùa xuân trong lòng người chinh phụ mênh mang, trống trải và ai oán đến chừng nào!


Chí ra hiệu cho thủ hạ đừng làm ồn, rồi cho chèo thuyền lui tới mấy vòng, lặng lẽ canh chừng bờ sông cho đến khi bà chúa quay vào trong phủ.


Chương 30


Đường ra Bắc


Từ lúc phò mã xuất chinh, cứ mỗi lần nhớ chồng là Gia Phúc lại bưng mặt khóc hu hu. Thấy vậy, cu Quắc nghệch mặt nhìn, cười hi hi vô tư. Cu cậu tưởng mẹ đang làm một trò gì đấy để trêu mình.


Hồi Nguyễn Lâm sắp đi thì cu Quắc đang tập nói, đã bập bẹ gọi “Cha”. Bây giờ Quắc bốn tuổi, thấy bóng ai đi qua đi về trước hiên, cậu bé cứ nhoài ra, kêu “Cha, cha”. Gia Phúc thấy con như vậy, càng buồn càng tủi.


Vú Nhự thường khuyên nhủ:


- Công chúa phải cố lên. Công chúa không thấy phu nhân Nguyễn Tri sao? Cả đời từ trẻ tới già đại tướng toàn xông pha ngoài trận mạc. Nghe người ta bảo, phu nhân chưa hề than vãn một lời. Có vậy đại tướng mới làm nên nghiệp lớn đó!


Phu nhân vốn là người gái quê, quen chịu đựng, xem sự thua thiệt là căn số tất nhiên của đàn bà. Còn Gia Phúc từ nhỏ muốn gì cũng đòi cho bằng được, đời nào chịu nhẫn nhục như vậy.


- Ta có cần chi phò mã làm nên nghiệp lớn. Vú đừng nghe người ta nói phỉnh. Cái gì mà da ngựa bọc thây, trượng phu chí để bốn phương, toàn là chuyện xí gạt hết…


- Ôi trời, ai xí gạt?


- Vua chúa chứ ai? Họ nhồi vào đầu dân như vậy để ai cũng hăng hái đi chết cho họ đó! Ai dại mà nghe, bỏ vợ bỏ con mà đi thì thiệt. Sao cứ khuyên người ta coi cái chết nhẹ tựa lông hồng? Làm người thì phải ham sống sợ chết mới đúng chớ?


- Công chúa nói vầy, Hoàng thượng và Thái hậu biết được thì phải tội đó. Chớ nên thấy các ngài thương mà ỷ thế, loạn ngôn…


- Loạn ngôn là còn ít, ta đang muốn loạn trí đây!


Chết khổ, vú Nhự nghĩ thầm. Tính khí ngang ngược của Gia Phúc, vú đã thừa biết. Vú lẩm bẩm: “Khi hắn nhỏ, đòi cái kẹo cái bánh, chưa kịp đưa là lăn đùng ra đất, đập tay dậm chân, lu loa làm nũng. Đòi kẹo đòi bánh, mình còn chiều được. Bây giờ hắn đòi chồng, thì mình biết kiếm đâu ra?” Nghĩ vậy vú rầu rầu nét mặt, trong lòng xót thương vô hạn.


Đến tiết Mạnh thu năm ấy, chọn được ngày lành, Hoàng đế Tự Đức cho đón Ưng Hỗ hai tuổi vào cung, đổi tên là Ưng Đăng, cho Lượng tần được làm mẹ nuôi. Thái hậu mở tiệc nhỏ trong cung Gia Thọ, bồng hoàng nghĩa tử ra mắt hoàng tộc. Tuy lễ nhỏ, nhưng cũng là lễ trọng, các hoàng thân công chúa đều vào mừng. Không thấy Gia Phúc đâu, Thái hậu bảo Hồng Hưu:


- Mệ Út có đau ốm chi không, con hãy ghé thăm rồi báo cho ta biết. Phò mã đi chiến trận xa nhà, con nói với Út hãy siêng vào cung thăm chầu cho khuây khỏa.


Hồng Hưu đến phủ Đồng Xuân. Gia nhân ra bẩm: Công chúa không có nhà.


Vậy là mệ Út mạnh khỏe không đau ốm chi, mà sao lễ trọng, hắn dám bỏ qua không dự? Hồng Hưu thắc mắc. Giờ mà báo vào cung như vậy, thì con nhỏ này mang tội, cũng thương cho hắn. “Mi có biết công chúa đi đâu?” Hồng Hưu hỏi.


- Dạ, dạ…


- Đi đâu? Nói! - Hồng Hưu trừng mắt, nạt.


Tên đầy tớ gãi đầu:


- Dạ dạ… Con chỉ biết công chúa sai khiêng kiệu tới chỗ phủ Tuy Hòa…


- Hả?


Hồng Hưu tức giận lên ngựa, dẫn tùy tùng đến tận cuối ngõ Phú Hội. Giới quý tộc ở kinh thành, không ai không biết, Tuy Hòa quận công Hồng Triền có sòng bạc giấu giếm trong phủ. Hồng Hưu đến cổng, dẫn gia nhân xộc vào, quả nhiên thấy ngựa xe rất nhiều, ẩn khuất trong sân sau. Biết Hồng Hưu là hoàng thân uy tín bậc nhất, được vua và thái hậu yêu quý, Tuy Hòa quận công không dám chống lại, chỉ tìm đường tránh mặt. Cả ổ bạc vỡ chạy tứ tán.


Hồng Hưu nắm tay Gia Phúc, đánh cho nàng một bợp tai đau điếng.


- Ta đánh cho mi tỉnh ra. Chồng mi đi vì việc nước, sao mi không lo ở nhà chăm con, lại hư đốn như vầy?


Gia Phúc lần đầu bị đánh đau, nàng ôm mặt, không khóc, chỉ cười khẩy, một nụ cười nhăn nhúm đầy vẻ đau đớn.


Hồng Hưu dúi nàng vào kiệu, quắc mắt bảo lính hầu:


- Khiêng công chúa về! Bữa này trở về sau, còn gánh kiệu tới đây, ta chém đầu bây như chém củ khoai thôi đó!


Hồng Hưu không tâu lên, nên câu chuyện bắt bạc ở phủ Trấn Tĩnh không bị vỡ lỡ. Sòng bạc tan, rồi lại lén lút tụ nhóm ở nơi khác, xa hơn.


Vú Nhự thăn thỉ khuyên chủ:


- Công chúa đừng đánh bạc nữa. Sau này công tử lớn lên, thấy mẹ như vậy, không hiếu kính với công chúa đâu. Sao không nghĩ đường xa, mà cứ tối mắt làm càn vậy.


Gia Phúc chống tay ngồi ủ rũ trên giường.


- Khó sống quá, vú ơi! Ta thấy chán, chán ăn, chán nói, chán làm. Không biết làm chi cho hết chán…


- Vậy sao không chán đánh bạc? - Vú Nhự vặn lại.


- Ta chơi thả thơ, đố chữ cho đỡ buồn mà…


- Chơi thả thơ, đố chữ, mà mỗi ván đặt bạc hàng chục lạng, thì chính cũng là đánh bạc thôi!


Gia Phúc im lặng ngoảnh đi. Dạo này nàng như vậy, lúc nào cũng như dĩa đèn cạn dầu, vật vờ leo lét. Chỉ có lúc ngồi vào sòng là nàng cảm thấy hồi hộp, máu chảy mạnh, tim đập nhanh; trí não nàng hưng phấn, tỉnh táo, có sự sống trở lại. Nàng đến đó vì thèm nghiện cái cảm giác ấy, chứ không phải vì thích ăn tiền. Nàng có thiếu gì tiền đâu mà phải ham?


Hồng Hưu lo lắng, thỉnh thoảng vẫn dẫn người hầu sang xem chừng. Vì vậy Gia Phúc cũng không dám buông lung làm lộng.


- Hoàng huynh! Em biết hoàng huynh lo cho em. Nhưng hoàng huynh không hiểu trong trí em ra sao đâu. Kinh khủng lắm!


 Gia Phúc rưng rưng nói với anh. Nàng cảm thấy bất lực khi phải diễn tả trạng thái hụt hẫng, chếnh choáng, mất thăng bằng khi từ cuộc sống lứa đôi chuyển sang trạng thái lẻ loi.


Hồng Hưu nghiêm mặt:


- Cả nước có tới mấy vạn trai tráng ra lính, thì cũng có mấy vạn đàn bà xa chồng. Em cứ bi lụy vậy, coi chừng dân đen nhìn vào, chúng nó lại cười cho.


- Mấy vạn đàn bà… Họ cũng khổ, cũng đau mà không biết nói với ai thôi. Đau như xé thịt, chứ không phải chỉ có xé lòng, anh hiểu không? Mà thôi, anh đâu có đi tòng chinh, vợ anh đâu có xa chồng, anh không hiểu được đâu…


“Con nhỏ này, vẫn cái thói ưa làm rộn, y hệt như hồi nhỏ. Chẳng biết hắn sinh giờ nào, mà chuyện gì đến nó cũng phiền phức, cũng rắc rối.” Hồng Hưu lắc đầu nghĩ thầm.


Hình ảnh máu me, trần truồng của người cung nữ Ý Nhi chợt trở lại trong tâm trí Hồng Hưu. Chàng rùng mình nhớ lại cái buổi chiều Gia Phúc được sinh ra, trong cơn hấp hối của người mẹ.


- Anh à, em có nguyện vọng này, anh xin với Thái hậu dùm em được không? Em biết, mẫu hậu thương anh nhất, từ khi Tùng Thiện công mất rồi thì anh là nhất… Anh nói thì mẫu hậu sẽ ưng lòng ngay, chứ em nói thì đừng có hòng!


- Em muốn gì? Miễn là điều ước chính đáng, thì lên rừng xuống biển anh cũng làm cho em được! - Hồng Hưu dịu giọng.


- Em muốn ra thành Hà Nội, thăm phò mã!


- Ôi trời. Em điên sao? Em là cành vàng lá ngọc, đi xa vạn dặm, vừa nguy hiểm vừa nhọc nhằn. Sao không để phò mã về thăm, vậy có hơn không.


- Chàng không về đâu. Thư nào chàng cũng viết là nhớ em, nhớ con. Nhưng cha già không được lệnh vua thì không thể về kinh nhập cận. Chàng là hiếu tử, theo hầu cha không rời. Vì vậy… - Gia Phúc cười lên khanh khách, vẻ chua chát - Vì vậy, vợ là đồ bỏ, ha ha…


- Thôi, đừng có thêm thắt. Em đã làm dâu nhà Nguyễn Tri, thì đi đâu do nhà Nguyễn Tri quyết định. Thái hậu là người trọng lễ, anh chắc người không quyết việc này đâu!


- Nhà Nguyễn Tri không bao giờ dám quyết việc chi liên can đến bà chúa hết. Anh đã nói vậy, thì em cứ tự mà đi thôi!


Hồng Hưu nghe em gái nói, không khỏi hoảng hồn, vội vào cung tâu lên Thái hậu, xin người cho lệnh cấm Gia Phúc không được tự ý.


Thái hậu cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc, rồi thở dài:


- Dân gian mình đã có câu “Thương chi bằng nỗi thương con/ Nhớ chi bằng nỗi gái son nhớ chồng.” Gia Phúc xa phò mã đã ba năm tròn, nhớ thương cũng phải. Ngặt một điều, miền Bắc đang rối như canh hẹ, quân tướng ngày đêm tỏa ra đi đánh dẹp khắp các tỉnh. Gia Phúc có ra đến Hà Nội, cũng chưa chắc gặp chồng, mà đường sá thời buổi này, chưa chắc đã đi được đến nơi!


Nghe Hồng Hưu thuật lại ý Thái hậu, Gia Phúc cúi đầu vâng vâng dạ dạ, không nằn nì thêm một lời nào.


Rồi đột nhiên, mấy hôm sau công chúa hối vú Nhự sắp xếp hòm xiểng, gấp rút lên đường ra Bắc. Nàng hí hửng đích thân thu dọn áo khăn, hành lý, mặt mày vui còn hơn Tết.


Người choáng váng nhất trong việc này là Nguyễn Tri phu nhân. Bà dâu chúa muốn gì, làm gì, trước nay phu nhân chưa hề động đến. Nhưng Gia Phúc lại muốn đem cả cu Quắc, tức là cháu đích tôn Nguyễn Tri Kiểm của bà cùng đi. Thằng bé mới lên năm, đường xa sương gió chịu nổi không?


- Mạ đừng lo! Có gia binh hộ vệ, có thị nữ theo hầu. Đi tới đâu đã có nhà công quán các tỉnh để ghé lại, họ lo cho mình chu đáo hết… - Gia Phúc nằn nì. Nàng mà đã nằn nì, thì đá cũng phải tan chảy.


- Bà chúa dâu ơi! Bà ôm thằng Quắc đi, là ôm cả ruột gan tim phổi của mạ đi theo! Không cho hắn đi thì mang tiếng ngăn cản phụ tử tình thâm. Mà hắn đi thì mạ thiệt tình bải hoải tay chân, trông mong ngoi ngóp từng ngày!


- Mạ phải cố gắng chịu khó, để con đưa hắn đi, cha gặp con, vợ gặp chồng một chuyến. Con sẽ sớm đưa hắn về với mạ, không suy suyển một sợi lông chân. Mình thương hắn nhiều, vô lẽ đại tướng với phò mã ngoài đó không thương không nhớ hắn? - Gia Phúc thủ thỉ.


- Thôi thì… đi thì đi, nhớ chậm lắm sau Tết thì đưa hắn về, không thì mạ chết khô mất.


Được lời như cởi tấc lòng, Gia Phúc mừng rơn, không quên an ủi mẹ chồng:


- Con tạ ơn mạ thương con thương cháu. Ước chi mà mạ đi được, con cũng đưa mạ cùng đi luôn.


Nguyễn Tri phu nhân không nói, chỉ cười, một nụ cười buồn buồn cam chịu đã quá quen trên gương mặt phúc hậu.


Gia Phúc về phủ rồi, phu nhân bàn với Nguyễn Ngọc, rồi cho gọi Nguyễn Chí:


- Bà chúa đi đường xa vạn dặm, không biết sao mà lường. Cháu phải cùng đi, thì mụ mới yên lòng.


- Bẩm, phủ Đồng Xuân cũng có gia binh, gia tướng theo hộ vệ bà chúa, phu nhân chưa yên bụng sao? Nếu cháu đi, sợ dinh nhà không ai trông coi, cũng đáng lo lắm!


- Cháu ơi, đại tướng làm quan thanh liêm lắm, chẳng có chi nhiều mà sợ trộm cướp. Cái quý nhất của dinh nhà ta, là thằng Tri Kiểm đó!


Đầu tuần trăng, công chúa và con trai ra đi. Gia Phúc ngồi xe nhẹ, có vú Nhự bồng cu Quắc ngồi cùng. Phu nhân bịn rịn nắm lấy tay cháu, mãi mới chịu buông. Quay lại Chí, bà dặn lui dặn tới:


- Binh tướng đông đàn chi đi nữa, khi lỡ cơ cũng không thể thiếu một người tâm phúc. Cháu phải lo kèm sát cái cục vàng của mụ đó!


∞∞∞∞∞


Trầm tĩnh, kiên cường, Nguyễn Tri Phương đã từng bước làm chủ được vùng lãnh thổ phía Bắc, không chế được cả giặc biển phía Đông và quân Cờ Đen, Cờ Vàng từ Trung Hoa tràn xuống.


Dưới quyền điều khiển của ông, những tướng lãnh như Hoàng Tá Viêm, Tôn Thất Thuyết, Ông Ích Khiêm dần dần nổi bật lên, thành những ngôi sao sáng trên vòm trời đầy biến động của xứ Bắc kỳ.


Nghe cái tin bà chúa dâu sẽ ra Bắc thăm, tướng Phương chỉ cau mày, không nói. Không nói, vì dù gì cũng là sự đã rồi. Không vui, vì ông vốn giữ gìn tôn chỉ phụ tử chi binh. Các đạo quân Hùng Nhuệ mà ông đem từ kinh đô ra, gồm cả ngàn người, ai nấy đều trong cảnh đồn trú xa nhà. “Ta xưa nay làm tướng, lo trước cái lo, vui sau cái vui của lính. Quân sĩ dưới quyền mấy năm trời đâu có biết đến cha mẹ vợ con, chẳng lẽ mình làm tướng lại vui hưởng tình riêng? Khi bà chúa đến đây, chuyện vợ chồng gặp gỡ phải kín đáo, không nên chường ra trước mắt tướng sĩ.” Ông nói riêng với Nguyễn Lâm.


“Dạ, con xin vâng lời thân phụ.” Nguyễn Lâm vòng tay vâng dạ. Thực tình trong bụng chàng đang mừng rơn, chỉ trông có phép rút ngắn đường dài để sớm thấy mặt vợ con. “Bà chúa đi đến đâu rồi?”, chàng lẻn ra ngoài, gặp người đưa tin, hỏi nhỏ.


- Bẩm phò mã, công chúa đem đoàn tùy tùng khoảng mười lăm người, khởi hành từ hôm mồng hai, nay đã qua khỏi địa giới Hà Tĩnh. Khi con nhận thư đem đi thì bà chúa sắp vào trú đêm tại nhà công quán tỉnh Nghệ An.


Nguyễn Lâm bấm ngón tay tính nhẩm: Đoàn người đi nhiều đàn bà con gái, xe kiệu rồng rắn như vậy chắc cũng phải bảy hôm nữa mới đến thành Hà Nội.


Với Gia Phúc thì từ khi mở mắt chào đời đến giờ chưa có chuyến đi nào vui thích như vậy. Đường dài, đèo núi, sông biển… cu Quắc thích mê, mà Gia Phúc cũng mê thích không kém.


Hai mẹ con bắt Nguyễn Chí đi ngựa sát bên kiệu, để trả lời những câu hỏi bất tận. Gia Phúc trầm trồ:


- Nhà ngươi giỏi thật, cái gì cũng biết! Mà sao ta thấy ngươi quen quen, chừng như đã gặp ngươi ở đâu?


Chí cười tủm tỉm:


- Bẩm, chắc công chúa từng thấy ai hao hao giống tại hạ, nên ngờ ngợ đó thôi!


Khi đến Nghệ An, qua khỏi sông Bến Thủy, chiều đã xuống, đoàn người ghé vào nhà công quán nghỉ ngơi. Vú Nhự cẩn thận lấy chăn gối đem theo, trải trên giường cho công chúa ngủ.


Đêm ấy, Gia Phúc thấm mệt nên ôm con ngủ vùi trong chăn. Khoảng hai năm trở lại đây, từ sau lúc phò mã đi xa ít lâu, nàng thường có những giấc mơ lạ. Nàng thường mơ thấy một bóng đen lại gần mình, đưa bàn tay chạm vào mái tóc, rồi nàng thấy từng gốc tóc của mình được ve vuốt rất êm dịu. Cảm giác dịu êm ấy làm nàng tê mê, dễ chịu vô cùng…


Khi tỉnh dậy nàng mơ hồ thấy tiếc nuối, và cũng sợ hãi nữa, vì cái bóng ấy cứ vài tháng lại xuất hiện, với khuôn mặt mờ mờ, nàng không thể nhớ lại được. “Có khi hắn là ma chăng?” Gia Phúc thường lo lắng nghĩ, mỗi lần tỉnh lại.


Hôm nay nàng cũng bỗng có lại giấc mơ ấy. Nhưng không, không phải là mơ, đang lim dim nàng chợt thức giấc. Có bàn tay của ai đó, không phải chỉ chạm vào tóc nàng, mà đang sờ trúng vào ngực nàng. Gia Phúc tỉnh hẳn, hốt hoảng, mở mắt. Một bóng đen. Nàng định thần, nhận ra: có người đột nhập vào phòng, đang tìm cách rón rén bồng cu Quắc đang ngủ say ra khỏi lòng mẹ.


Gia Phúc hét lên một tiếng, ôm chặt lấy con. Lập tức bóng đen quay mình, tông cửa chạy biến vào màn đêm.


Nghe tiếng Gia Phúc, gia binh trở dậy, vội vàng đốt đuốc, đánh phèng la báo động.


Nguyễn Chí xách gươm chạy một vòng, nhìn thấy dấu chân còn in vách tường cao. Chàng lập tức vượt tường đuổi theo: dưới ánh trăng hạ huyền, trước mắt chàng hiện rõ con đường độc đạo dẫn ra bãi Bến Thủy.


Con đường vắng tanh, không một dấu chân người. Kẻ gian đã đi lối nào? Hắn có cánh bay chăng? Chí đang còn xét đoán, chợt thấy những tàn cây phía bên phải rung rung, trong khi bên trái lại im tăm tắp.


À, kẻ gian rất giảo hoạt, hắn nấp trong lá, chuyền cành mà đi. Quát lên một tiếng, Chí thót lên cây. Buộc lòng, đối thủ của chàng phải nhảy xuống đất, lộ diện.


- Ta với ngươi không thù không oán, hà tất cùng nhau đổ máu để làm gì? - Tên bịt mặt vừa lên tiếng, vừa đỡ đòn.


Hình như hắn nhận thấy không phải là đối thủ của Chí, nên không ngần ngại hạ mình thương lượng.


- Mày là ai? Khai đi rồi ta sẽ tha cho. - Chí không ngừng tấn công.


Tên bịt mặt cười khan một tiếng:


- Ngươi quên ta rồi ư? Ta vẫn còn nhớ ngươi đấy!


 Đỡ thêm mấy hiệp, hắn bỗng thụp mình ngồi xuống, rồi nhổm lên chạy. Chí đuổi theo. Chợt “bụp” một tiếng, Chí trượt chân, mất đà, chực té. Chàng phải lập tức nhảy lên, xoay người lấy lại thăng bằng. Có cái gì trơn trơn trên mặt đường, thì ra tên bịt mặt vừa thả lại mấy quả trứng trước khi đào tẩu. Lợi dụng một giây chênh chao của Chí, hắn chạy rút lên, vọt đến chỗ bờ sông.


Một chiếc thuyền nan từ trong lau lách hối hả tách bến, vượt qua sông Lam. Tiếng cười khanh khách vang vọng trên sông lạnh:


- Giỏi lắm! Bái phục! Nhưng không dễ bắt được ta đâu! Lần sau có gặp, cố nhớ ta là ai nhé!


Nguyễn Chí hậm hực trong lòng, tiếc không có con Nem Chua ở đây. Nó mà bơi, thì chiếc thuyền nan kia không tài nào qua mặt.


Chàng quay về nhà công quán. Gia Phúc ngồi ôm con trong lòng, chưa hết run. Chí ra hiệu cho mọi người lui ra, chỉ giữ lại một mình vú Nhự.


- Bẩm công chúa, kẻ gây rối này không phải người lạ! Chắc chắn là người quen, rất quen!


- Là ai?


- Công chúa có nhớ cái hôm Phan đại nhân suýt bị ám sát không? Thân thủ khinh công của kẻ này, giống hệt như thích khách đã đào tẩu đêm đó!


 Gia Phúc buột miệng:


- Vậy hắn là… Cúc Tần?


- Vâng, theo như Chí dò biết, kẻ đó không ai xa lạ, chính là thị nữ trong dinh!


Vú Nhự nghe nói, ngả ngửa người. Vậy là đêm đó chính Cúc Tần đã ẩn nấp trong dinh, chờ rạng sáng mới thay đổi y phục để trốn đi. Chính công chúa đã bao che cho hắn.


 - Cúc Tần? Nếu là hắn, sao lại đến lúc khuya khoắt, hành động khó hiểu, không biết định làm gì? - Vú Nhự thắc mắc.


Gia Phúc thì mừng ra mặt:


- Nếu là Cúc Tần, thì hắn không làm hại ta đâu!


Công chúa thấy đỡ lo, lúc bấy giờ mới dám đi ngủ.


Đi thêm ba ngày, mới ra khỏi Nghệ An, đến Ninh Bình, qua đèo Tam Điệp. Thấy núi non bốn bề hùng vĩ, cu Quắc đòi bỏ xe lên ngồi với “bác Hai Chí”, vì cưỡi ngựa thích hơn...


Chí tra gươm vào vỏ, tay giữ cho chú bé ngồi yên phía trước. Qua khỏi Tam Điệp, họ đã đến đồng bằng miền Bắc.


∞∞∞∞∞∞∞


Từ trên mặt thành Hà Nội, Nguyễn Lâm đã thấy đoàn người rồng rắn đi trên con đường dốc dẫn lên cửa Nam. Chàng mừng muốn điên, vội tụt xuống thành, lên ngựa phóng một mạch đón đường. Từ xa, Gia Phúc đã thấy chồng, nàng gần như nhoài hẳn ra khỏi xe.


Vợ chồng trẻ cách xa lâu ngày, trong lòng chỉ muốn ôm quấn lấy nhau, nhưng dù sao cũng phải giữ thể diện. Nguyễn Lâm cố gắng giữ vẻ nghiêm nghị, vì cố gắng quá nên mắt chàng đỏ hực lên như đang nhìn mặt trời ngày Đoan Ngọ.


Gia Phúc thì níu áo chồng, lu loa khóc. “Thiếp và con đi đường xa, cực khổ gian nan lắm chàng ơi!” Nàng kể lể. Nguyễn Lâm dang tay ra đón con, nhưng cu Quắc đã vội vàng chạy nấp sau lưng mẹ, thập thò ghé mắt nhìn cái con người râu ria, đen xạm đang chực vồ lấy mình. Gia Phúc phải dỗ dành một lúc, chỉ cho cậu bé con ngựa ô rất hùng dũng của Lâm.


- Con chắp tay chào cha, rồi cha cho cưỡi con ngựa này, oai hơn ngựa của bác Hai nhiều, thấy không?


Dỗ một lúc cậu bé cũng chịu ngồi chung ngựa với Lâm. Vừa đi, cậu vừa ngoái lui, nhìn xem xe mẹ có đi theo không. Lâm thương con, chàng cho ngựa đi chầm chậm cho xe Gia Phúc theo kịp.


“Trời ơi, doanh trại bạt ngàn, biết bao nhiêu là lính!” Gia Phúc kinh ngạc kêu lên khi thấy những dãy lều san sát bên nhau. Tổng hành dinh của quân Hùng Nhuệ đóng trên một mô đất cao. Có vẻ như lúc trước đây là một trại trồng chanh, vì còn rất nhiều cây chanh rậm rạp chen chúc quanh những ngôi nhà.


Trong khi vú Nhự lo tắm gội và cho cu Quắc ăn, Gia Phúc mệt mỏi nằm dài trên võng. Nguyễn Lâm nắm tay vợ:


- Để ta dẫn nàng đến chỗ thân phụ!


- Hở? - Gia Phúc ngóc đầu dậy.


Từ chỗ trú của Gia Phúc đến chỗ đại tướng đóng quân phải đi qua một đoạn đường khá vắng vẻ. Mới đến đầu đường, Nguyễn Lâm đã ôm lấy vợ, hôn hít khắp mặt mũi mình mẩy nàng. Gia Phúc hết mệt, hết buồn ngủ, nàng cũng ôm riết lấy chồng.


Nguyễn Lâm thọc tay vào áo vợ, sờ soạng khắp thân thể, chàng tê mê sung sướng. Cái gì trên thân nàng cũng tròn đầy, mũm mĩm, thơm tho.


“Tối nay, tối nay…” Chàng vừa ôm, vừa nhìn tới nhìn lui cảnh giác, miệng thì thầm.


Nhưng Gia Phúc cứ ôm quấn lấy chàng không buông. Vậy là chàng cũng hăng lên, lập tức lôi tuột nàng vào lùm cây bên đường. Như những kẻ đói khát, họ ngấu nghiến ăn nhau, mặc kệ cái lùm cây cứ rập rình, rập rình rung lắc từng cơn.


HẾT TẬP THƯỢNG
21 Tháng Mười 2024(Xem: 564)