VĂN HÓA ONLINE - VĂN HỌC-VĂN CHƯƠNG - THỨ HAI 03 FEB 2025
Trần Thùy Mai: Tiểu thuyết lịch sử ‘Công Chúa Đồng Xuân’- Chương 40 tới 49
QUYỂN HẠ

Chương 40
Ba vị hoàng thân
Việc Ưng Chân bị phạt, không ngờ lại làm nẩy nòi một việc xung khắc trong hoàng tộc.
Lễ Thu Hưởng năm ấy, do đang còn bị phạt nên hoàng trưởng tử không được thay vua đứng tế. Các quan Bộ Lễ bàn nhau mời hoàng thân nào có niên tuế cao nhất làm Khâm mệnh. Dạo ấy trong kinh thành đang có dịch cảm cúm, các hoàng thúc lớn tuổi như Miên Định, Miên Trinh đa số đang nằm bệnh. So ra trong những người đang mạnh khỏe, thì Trấn Tĩnh quận công Miên Dần lớn tuổi nhất.
Quan Tham tri Bộ Lễ đến phủ Trấn Tĩnh đúng lúc hoàng thúc vừa từ ngoài tửu lầu về, người còn tưng tưng, hơi rượu vẫn chưa tan. Trong đôi mắt chênh chao của ông lúc ấy, cả trời đất cũng nhỏ như hạt bụi.
- Cái gì? Ta đứng chủ tế? Ôi, thôi thôi, thôi thôi! - Miên Dần gạt phắt ngay - Mấy cái việc long trọng ấy ta chán lắm rồi!
- Bẩm Đức ông, được thay mặt vua, ấy là vinh dự lớn lắm! Xin Đức ông chớ lấy làm thường. Hoàng trưởng tử lần này không được đứng tế, bên Dục Đức đường ai cũng buồn lắm!
- Ha ha, buồn là phải. Thằng nhóc đó bây giờ ham thi thố để kiếm điểm tốt, còn tính đường về sau. Chớ như ta đây, đã trải qua ba triều vua mà chẳng thêm được cái gì, thì cái chuyện lạy lục quỳ xuống đứng lên cả buổi chỉ thêm mỏi mệt mà thôi.
Quan tham tri nhìn lên bộ dạng Miên Dần, thấy mặt đang đỏ gay, khẩu khí coi trời bằng vung, biết rằng lúc này có nói gì cũng vô ích. Không dám cự cãi với Đức ông, nên quan chỉ để lại tờ trình của Bộ Lễ trên án, rồi vái chào rút lui.
Đến ngày tế, hoàng tộc và các quan đại thần tề tựu đông đủ. Quan đông xướng đã vào đứng trước bàn thờ, nhìn lui nhìn tới mà chẳng thấy chánh tế ở đâu để hô “Tựu vị”.
Quan thượng thư Bộ Lễ toát mồ hôi, vội cho người tức tốc phi ngựa đến phủ Trấn Tĩnh thúc hối. Chờ sốt cả ruột, mới thấy Miên Dần từ ngoài cửa tả Thái miếu đi vào, mình vẫn còn mặc áo trắng, vừa đi vừa xỏ tay vào áo thụng xanh.
Các hoàng thân dự tế đều bực mình, nhất là mấy ông hoàng có tên hàng chữ “Hồng” còn trẻ tuổi hăng máu. Lễ xong, các “Mệ” chưa kịp tan hàng bước ra, thì có tiếng mỉa mai:
- Năm nay cụ gấu đứng vai chính, chắc các quan Bộ Lễ tưởng hoàng tộc ta hết người thì phải!
Miên Dần nghe nói đến “Gấu” thì biết ngay là ám chỉ mình, vì ngày trước tiên đế Minh Mạng có ban cho mỗi con trai một con thú bằng vàng, Miên Dần được ban con gấu. Trừng mắt nhìn, ông nhận ra Gia Hưng công Hồng Hưu, cái người mà ông vẫn ghét nhất. Chẳng vòng vo gì, Miên Dần độp ngay:
- Mi là hàng cháu chắt, sao dám ngạo với ta? Mi đừng ỷ tài ỷ giỏi, tài giỏi mấy thì cả đời cả kiếp mi gặp ta cũng phải cúi rạp mà thôi!
Hồng Hưu tức khí:
- Dạ, cháu đâu có dám nói tài nói giỏi với hoàng thúc. Hoàng thúc thạo đủ trăm môn, nhất là cái môn “Lộng trư”, thì có ai dám bì cho kịp.
Hai tiếng “Lộng trư” - giỡn heo - chạm nọc Miên Dần, khiến quận công mặt đỏ tía tai, cầm cái nậm rượu định ném, may các hoàng thân đứng cạnh kịp níu lại. Nhiều vị kín đáo lấy tay áo che mặt cười. Họ đang nhớ lại chuyện Miên Dần hồi mười lăm tuổi mới ra mở phủ, đã tụ tập bạn rượu, đào hát, cùng nhau chè chén rồi sai quây màn, cho thả mấy cặp heo đực cái vào để chúng giao phối cho mà xem… lấy hứng. Việc đến tai tiên đế Thiệu Trị, ngài tức giận sai lột áo mũ, cách hết tước vị, gần hai năm sau mới được phục hồi. Việc ấy xảy ra đã hơn ba mươi năm trước, không ai còn nhắc. Bây giờ Hồng Hưu khơi ra, nên Miên Dần mới điên tiết.
Sau vụ xích mích xảy ra trong lễ Thu Hưởng, biết không thể ém nhẹm, Bộ Lễ bèn làm tờ tấu vạch tội Miên Dần về việc tế lễ cẩu thả, bất kính với tổ tiên. Hoàng đế Tự Đức nổi giận, xuống chiếu giáng Miên Dần từ tước Trấn Tĩnh quận công xuống tước Trấn Tĩnh đình hầu, cấm trong hai năm không được bước vào tôn miếu.
Đấy là lần thứ ba trong đời, Miên Dần bị lột tước. Trong phủ Trấn Tĩnh, các phủ thiếp, đằng thiếp đều kêu trời than khổ. Mất tước quận công, nghĩa là lương bổng cũng giảm, trong khi lâu nay vì chiến cuộc, ngay cả lương quận công cũng đã giảm rồi. Lại thêm Đức ông tiêu xài vung tay quá trán, đã nhiều lần phải ứng trước lương năm sau. Nghe tiếng đàn bà khóc như ri, Miên Dần cười ha hả, thách thức: “Lột nữa đi, ha ha, lột hết luôn đi, ta ở truồng luôn càng mát.”
Chiều hôm ấy Miên Dần uống say nhừ. Hết ba cút rượu Ngũ Gia Bì, ông đứng trên thềm, lảo đảo vừa múa vừa hát:
“Vua Lê ba mươi sáu tàn vàng,
Chết xuống âm phủ… chẳng mang được gì
Chúa Chổm đánh chén tì tì,
Chết xuống âm phủ… kém gì vua Lê…?”
So thế thứ với Miên Dần, thì Hồng Hưu là cháu, nhưng từ khi mới mười hai tuổi đã được phong Gia Hưng công, vào bậc cao nhất trong các thân công hoàng tử. Hồng Hưu tướng mạo khôi ngô, từ nhỏ học giỏi, cư xử lễ phép đàng hoàng nên được Hoàng đế và Thái hậu tin cậy, thường ban khen luôn. Hai chú cháu Miên Dần và Hồng Hưu, một bên ngang tàng phóng túng, một bên tề chỉnh chỉn chu; một bên luôn bị quở phạt, một bên luôn được khen thưởng; một bên luôn bất mãn, một bên rất tự hào về tôn tộc của mình. Hai con người ấy thực hoàn toàn trái ngược về tính cách cũng như số phận, nên mỗi lần chạm mặt nhau lại ít nhiều bực bội.
Mấy hôm sau, Văn Lãng công là Hồng Dật từ Kim Long cỡi ngựa về phủ Gia Hưng, rủ Hồng Hưu về Nam Phổ chơi.
Hồng Hưu cười thoái thác:
- Nam Phổ thì có gì hay mà chơi, chỉ có mấy cây cau với một nồi bánh canh đó thôi!
- Bữa này huynh khác trước nhiều! Coi chừng, nhác chơi là sắp già rồi đó! Nhớ hồi trước, anh em ta cùng với Mệ Út vẫn rủ nhau về Nam Phổ câu cá ăn bánh canh, tháng nào cũng đi mà không biết chán.
Mệ Út, tức là Đồng Xuân công chúa Gia Phúc. Những chuyến đi chơi hồn nhiên ngày xưa, thấm thoắt đã mười lăm năm qua rồi. Đúng, Hồng Hưu không còn như khi còn niên thiếu. Tâm trí ông đang chứa chất những suy tư khác.
- Hoàng tộc ta có nhiều việc rất cần thay đổi. Thời Thánh Tổ Minh Mạng, ngài đặt lệ không cho hoàng thân quốc thích tham gia chính sự. Cũng bởi vậy mà con cháu hoàng gia quá nhàn rỗi, ăn no mặc đủ không phải lo lắng, sinh ra phá phách chơi bời xấu mặt với dân gian. Cổ nhân đã nói, nhàn cư vi bất thiện, quả đúng lắm! - Hồng Hưu tâm sự với em trai.
- Cũng chỉ là số ít hư hỏng thôi, huynh không nên quá nghĩ. Các hoàng thân giỏi giang cũng rất nhiều. Nam Sách quận công Miên Ôn là bậc phong lưu tao nhã, nổi tiếng về tài chế tác âm nhạc. Tuy Lý công Miên Trinh, Tương An quận công Miên Bửu cùng với Tùng Thiện công khi trước thì văn hay chữ tốt, đã lừng danh là Nguyễn Phúc Tam Đường! Tuy không cầm quyền cai trị, nhưng tài hoa như vậy, cũng là đóng góp cho quốc gia nhiều lắm chớ bộ. À phải kể thêm, phong độ cao quý như huynh đây, và trạng mạo phong lưu như thằng em này, thì cũng xứng mặt con vua lắm chớ!
Hồng Hưu lắc đầu:
- Năm bảy ngôi sao tỏa sáng, không che giấu được một sự thực là cả bầu trời đang càng lúc càng âm u! Theo ta, mười mấy năm nay Tây tặc lộng hành, các đại thần lúng túng như gà mắc tóc. Trong khi đó, con cháu nhà Nguyễn lại phải bó tay đứng nhìn, thấy giang sơn của tổ tiên càng lúc càng hao hụt mà không làm gì được!
- Thì biết làm sao? Nề nếp từ xưa đã vậy, khó thay đổi lắm huynh ơi! Vua chúa dùng người ngoài không dùng anh em, vì người ngoài có giỏi giang đến đâu cũng không có cái quốc tính Nguyễn Phúc, không ngồi vào ngai vua được. Chứ anh em tuy là máu thịt, nhưng cho cầm quyền to rồi một ngày đẹp trời nổi hứng ngồi thử vào cái ngai, thì mới thật là họa lớn!
- Đệ nghĩ cũng đúng. Nhưng vào thời thịnh trị, ngai vua là chỗ êm, ai cũng thèm ngồi. Sợ anh em nổi lòng tham là phải! Còn nay là thời loạn, ngai vua chính là chỗ gai góc nhất, hà tất phải lo tranh cướp! Nói anh em không đáng tin hơn người ngoài, thì đời Trần các vua Thái Tôn, Nhân Tôn chống được Nguyên Mông cũng chính là nhờ cả họ Trần một lòng đó thôi? Anh em dựa vào nhau, sao lại chẳng hơn là giao quyền cho người xa lạ?
Hồng Dật tính vốn ưa nhàn. Hồng Hưu càng sôi nổi, cảm khái, Dật càng thấy nhức đầu.
- Thôi, huynh đừng buồn tình đời, cứ đi chơi với đệ cho khuây. - Thấy mặt ông anh vẫn dàu dàu, Hồng Dật cười: - Phải chi đệ được làm vua, nhất định sẽ phong huynh làm phụ chính!
Hồng Hưu cau mày:
- Đừng nói vậy, không phải phép!
- Đệ chỉ giỡn chơi thôi! Làm chi có chuyện thằng út này làm vua? À này, mình không đi Nam Phổ, thì lên phủ Đồng Xuân thăm Mệ Út đi. Lâu nay Út sống ra sao, huynh có thường gặp không?
Hồng Hưu bùi ngùi:
- Không. Từ lúc đưa được Út về kinh, mỗi tháng huynh đều cho nguyên cơ sang phủ hỏi thăm. Rất thương hắn, nhưng thấy hắn khổ quá, cứ nhìn lại đau lòng, nên thực sự không muốn gặp.
- Làm chi đến nỗi? Phò mã mất cũng đã sáu bảy năm rồi. Nghe nói Hoàng thượng đã sai lập miếu thờ cho cả ba cha con chú cháu nhà Nguyễn Tri Phương, lại tự đích thân viết bài thơ tế, ban thưởng cho con cháu rất hậu. Vậy cũng là danh giá cho Út lắm!
- Đệ nghĩ vậy sao? Vậy anh em ta cũng nên đến thăm hắn một chút!
Hai vị hoàng thân cỡi ngựa song song, ngược từ Gia Hội lên Dương Xuân.
Đi đến chỗ có một con hói nhỏ, Hồng Dật cho con ngựa ô của mình rẽ lên cầu gỗ bắc ngang dòng nước. Hồng Hưu ghìm cương, ngạc nhiên:
- Đệ đi đâu vậy? Lối này chứ?
Hồng Dật quay lui, cười:
- Lối đó ngang qua phủ Trấn Tĩnh của chú Miên Dần. Mình tránh qua lối này, tuy có xa một chút nhưng… tiện hơn.
Hồng Hưu ngạo nghễ:
- Ta đường đường chính nhân quân tử, việc gì phải tránh mặt?
- Vì chuyện xảy ra hôm tế Thu hưởng, mà chú Miên Dần bị thu áo mũ quận công, giáng xuống làm đình hầu. Lương bổng mỗi năm mất hẳn hai trăm hộc, trong khi số phủ thiếp và đằng thiếp phải nuôi đến mười mấy mụ. Khỏi nói thì huynh cũng biết cả phủ ấy hận huynh tới chừng nào.
Hồng Hưu cười mũi:
- Chú Miên Dần bị tội vì lỗi cẩu thả của chú, Bộ Lễ đàn hặc tâu vua, chứ đâu phải ta? Chú làm sai ai cũng thấy, nếu ta không lên tiếng cũng có người khác lên tiếng thôi!
- Đành vậy, nhưng khi mà người ta trượt chân, thì ai cũng oán cái vỏ chuối, chứ có ai trách mình đi xớn xác đâu?
“Hừ, ta cứ đường cái ta đi, coi ai làm gì được cho biết?” Hồng Hưu nói, rồi ra roi thúc con ngựa bạch của mình chạy tới. Hồng Dật thấy vậy, đã lên cầu đành quay lại, thủng thỉnh đi theo. “Huynh cứ đi trước, đệ theo sau. Hoàng thượng tháng trước đã ban lệ cấm không cho các hoàng thân chạy ngựa song song choán đường của thiên hạ.”
“Thằng em này nhát gan thật, hắn sợ dính đòn thay ta, nên mới nhớ lời vua dạy vào đúng lúc này.” Hồng Hưu vừa oai vệ quất ngựa tiến lên trước, vừa tủm tỉm nghĩ thầm.
Phủ Đồng Xuân cổng đóng im ỉm, tên gia binh gác cửa ngồi ôm ngọn giáo ngủ gật. Tiếng ngựa hí làm y sực tỉnh, cuống quýt mở cổng, đi báo chủ nhân.
Hai vị hoàng thân ngồi chờ khá lâu mới thấy công chúa từ nhà trong bước ra. Sở dĩ lâu, là vì vú Nhự bắt nàng thay áo và trang điểm một chút cho đỡ nhợt nhạt. Dù vậy, trong mắt hai người anh đã lâu không gặp, Gia Phúc vẫn khác trước nhiều quá! Họ cứ ngồi khựng như vậy cho đến khi công chúa mở miệng chào. Khi nàng nói cười, họ mới thấy lại những nét quen năm xưa.
- Hôm nay trở trời hay sao, hai ông anh lại nhớ tới em út mà đến thăm?
Hồng Hưu bùi ngùi:
- Muội khỏe không? Thường mỗi tháng huynh cho nguyên cơ đưa mật ong, nấm hương qua cho, muội có dùng không?
- Dạ có! Chị dâu đem cho muội toàn thứ ngon bổ, nên muội đã khỏe lên nhiều.
Hồng Dật thấy Gia Phúc tuy miệng trả lời mà hai mắt ngơ ngác, dường như thần trí đang ở đâu đâu. Chàng thật thà buột miệng:
- Muội thay đổi quá, suýt nữa ta không nhận ra! Không khỏe đâu, còn xanh xao lắm.
Gia Phúc nghe, chỉ nói “Vậy à?”, mặt chẳng lộ mảy may vui buồn. Mà quả thực, ai nói gì nàng cũng chỉ nghe văng vẳng bên tai.
Hồng Hưu lấy trong đãy gấm ra một hộp vuông màu sặc sỡ:
- Huynh có hộp kẹo, thứ này ngày trước muội thích lắm, lâu nay vẫn để dành cho muội đây.
Gia Phúc nhìn. Hộp kẹo nằm trên bàn trà, màu đỏ bóng nhoáng, trên nắp là hình một kỵ sĩ Tây phương cỡi ngựa, với con ó săn đậu trên tay.
- Sao? Muội thích không? - Hồng Hưu hỏi.
Gia Phúc đờ đẫn nhìn. Bỗng nhiên nàng sợ hãi đưa hai tay che mắt.
- Sao vậy? - Hồng Dật ngạc nhiên.
Gia Phúc đưa ngón tay run run chỉ vào hình vẽ: một kỵ sĩ tóc vàng với bộ ria mép vểnh cong. Nàng gạt tay, hộp kẹo rơi xuống đất, một tiếng vang chát chúa. Ôm mặt, công chúa lảo đảo như người say.
Vú Nhự đang đứng hầu vội chạy đến ôm lấy, dìu nàng vào phòng khuê.
Hồng Hưu và Hồng Dật hoang mang nhìn nhau. Hồi lâu sau, vú Nhự se sẽ bước ra:
- Xin hai vị Đức ông tha lỗi. Công chúa từ lâu tính tình thất thường, nên già không dám cho đi đâu, gặp ai. Cứ bước lên xe, lên kiệu là lên cơn sợ hãi vô cớ. Rồi thấy cái gì liên quan đến thằng giặc Tây lại nhớ đến việc dữ ở Hà Nội, tinh thần khủng hoảng không kiềm chế được. Nãy giờ á khẩu, cứng cả người, già vừa cho uống Liên Tâm Thảo, giờ đã hơi ổn rồi, xin các Đức ông yên tâm!
Hồng Hưu thở dài:
- Ta sơ ý quá, thật đáng trách.
Hai hoàng thân khiến vú Nhự dẫn vào trước cửa phòng khuê của em gái. Gia Phúc nằm dài dưới tấm chăn thêu, ánh mắt yếu ớt nhìn về phía hai anh.
- Gia Phúc, tha lỗi cho huynh! - Hồng Hưu nói, trong lòng quặn thắt.
Gia Phúc mắt rướm lệ, gật đầu cố gượng cười.
Trên đường về, Hồng Dật bảo:
- Đệ cũng biết Út đau ốm buồn bã, nhưng không ngờ đến mức như vậy! Không khéo thì thành bệnh khùng, khó chữa lắm!
- Đó, huynh không muốn đến gặp Út là vì vậy! Giờ mới hiểu vì sao người xưa gọi người đàn bà góa là vị vong nhân, nghĩa là người chưa chết.
- Tuổi Út hai mươi chín, đời còn dài lắm. Huynh thường được yết kiến Thái hậu, sao không tâu xin người tìm chỗ tốt gả đi, để em ấy có người thương yêu chăm sóc?
- Huynh đã tâu rồi! Nhưng Thái hậu nói một nhà Nguyễn Tri cha con, chú cháu hy sinh vì nước. Đồng Xuân là quả phụ của quốc gia, danh giá rất lớn, trăm người trông vào. Quả thật rất khó nghĩ!
- Mà sao đệ thấy cái phủ vắng lạnh quá vậy? Nghe nói Gia Phúc còn có thằng con mà?
- À, Nguyễn Tri Kiểm, thằng cu Quắc đó hả? Hiện giờ dinh Nguyễn Tri đã được lệnh Hoàng thượng giữ làm phủ thờ. Trưởng nam là Nguyễn Ngọc lại đang được bổ Tuần phủ Quảng Nghĩa. Thằng Quắc là đích tôn dòng Nguyễn Tri, nên phải thường xuyên qua dinh thờ để lo hương khói.
- Hương khói gì, theo đệ nhớ thì thằng nhãi con ấy mới hơn mười tuổi?
- Mười một mười hai tuổi gì đó, đang tuổi hiếu động nên hắn thích qua bên dinh, có người chơi đùa. Ở phủ thì Gia Phúc đang ở góa nên đa số là hầu gái với bõ già, có ai cho hắn chơi.
Hồng Dật sốt sắng:
- Ôi, tưởng gì khó! Đệ sẽ tìm cho Tri Kiểm một đứa tiểu hầu lanh lợi, để cho hắn có bạn ở phủ. Cái chuyện quá dễ, mà không ai nghĩ ra để giúp cho Gia Phúc, thật tội cho em ấy!
Hồng Hưu nghĩ thầm: “Đúng. Sao mình lại không nghĩ đến việc này. Thằng nhỏ Tri Kiểm lớn rồi, nó làm sao chịu nổi cái phủ buồn thiu ấy.” Nghĩ vậy, Hồng Hưu bảo em trai:
- Đệ nói phải. Vừa may, phủ Gia Hưng mới mua lại của gánh xiếc Đồng Lợi một đứa tiểu hầu, mặt mũi dáng dấp cũng khá, chắc cũng khoảng tuổi thằng nhỏ nhà Gia Phúc. Thôi, đệ khỏi lo việc đó, đã có huynh.
Hồng Dật vui vẻ gật đầu ngay. Năm sáu năm nay chinh chiến tạm yên, việc cày cấy cũng như buôn bán có khá hơn trước. Đời sống ở quê không đến nỗi quá ngặt, nên việc kiếm mua một đứa trẻ trai cũng không phải dễ. Về khoản tiền nong, thì Hồng Dật tuy cũng là một hoàng thân nổi tiếng phong lưu, nhưng làm sao so được với Hồng Hưu.
Chương 41
Cậu bé Hãn Mã
“Hãn Mã! Đỡ đòn đây!” Tri Kiểm vừa hét to, vừa vung thanh gươm gỗ chém xuống. Đứa tiểu hầu tên là Hãn Mã hứng trọn đường gươm vào vai, ngã lăn quay ra sân.
Mặt nhăn nhó vì đau, nhưng Hãn Mã nhanh chóng vùng dậy, cũng quơ thanh kiếm gỗ của mình lao tới, thọc vào bụng Tri Kiểm.
Võ sư đứng bên cạnh vội trở ngược sống gươm, gàn mũi đâm của Hãn Mã. “Chát!” Tiếng va chạm tóe lửa vang lên. Võ sư túm tóc Hãn Mã kéo giật lại, quát:
- Không được phạm vào công tử! Mi chỉ được đỡ thôi, không được phép tấn công!
Hãn Mã mím chặt môi, uất ức. Tri Kiểm chạy tới, xoa vào vai Hãn Mã, giọng vỗ về:
- Ta ra đòn độc, sao ngươi không đỡ? Không biết cách đối phó sao?
- Tôi đâu có được học võ như công tử. - Hãn Mã lầm lì, khẽ gạt tay Tri Kiểm ra.
Tri Kiểm nắm lấy bàn tay Hãn Mã, kéo đến trước mặt võ sư:
- Sư phụ, từ nay xin người dạy cho cả hai chúng con.
- Hãn Mã thân phận thấp hèn, sao có thể học chung với công tử? Hắn chỉ được hầu công tử học thôi!
- Con muốn hắn có võ để giao đấu với con, vậy mới thích. Đấu với cái bao cát, cái bị thịt thì đấu làm gì?
- Việc này lão phu phải hỏi ý công chúa có ưng không mới được. Công tử quả là niên thiếu anh hùng, còn nhỏ tuổi mà dũng cảm lắm! - Võ sư không quên tán dương một câu vuốt đuôi.
Tàn buổi học, Hãn Mã lặng lẽ bước về phía góc sân, trật vai áo ra, tự mình xoa những vết bầm.
- Trời, ta đánh ngươi thâm tím như vậy sao?
Hãn Mã ngước lên, thấy tiểu chủ đã đến gần bên. Kiểm mở to cặp mắt ngây thơ nhìn, rồi cúi xuống, sờ vào những chỗ rướm máu:
- Có đau không?
- Còn hỏi. Chắc là không đau, mà êm lắm? - Hãn Mã cười nhạt.
- Ta sẽ thưa với mẫu thân, từ mai ngươi cùng học với ta.
- Không cần đâu. - Hãn Mã cộc lốc.
- Sao vậy? Nam nhi phải biết võ nghệ chớ?
- Không bao giờ tôi gọi cái lão ấy là sư phụ. Hồi còn theo gánh xiếc đi giang hồ, gặp đủ thứ cô hồn các đẳng, mà cũng chưa thấy ai hèn hạ như lão.
Tri Kiểm nghe Hãn Mã nói hằn học về thầy mình như vậy, cậu nhăn mày suy nghĩ, buồn rầu:
- Sư phụ tệ với ngươi thật. Thôi, ta lỡ tay làm ngươi đau, để ta gọi vú Nhự xoa thuốc cho!
- Thôi, khỏi. Công tử cứ đi nghỉ, để mặc tôi. Một lát hết đau tự khắc tôi bò dậy.
Tri Kiểm gật đầu, nhưng vẫn không chịu đi. Cậu ngồi xuống bên cạnh, bùi ngùi im lặng. Một lúc, chợt cậu tò mò:
- Té ra hồi trước ngươi đi với gánh xiếc. Thích quá. Chắc được đi chơi nhiều nơi, và xem xiếc cả ngày?
- Đi nhiều thì có, nhưng chơi thì không. Hết diễn trò lại đến luyện quyền, cả ngày nhào lộn múa men đến hộc mật.
- Hở? Luyện quyền?
- Chứ sao? Các bài Hạc lập bất quần, Kim kê tảo địa, tôi thuộc hết. Có điều võ của gánh xiếc là võ phỉnh phờ, múa may biểu diễn cho đẹp mắt thôi. Khi gặp địch tấn công thì chỉ có một môn dùng được, là môn “Bảy chọ”.
- Bảy chọ là võ gì? - Tri Kiểm ngơ ngác.
- Là “bỏ chạy” đó!
Tri Kiểm há lên một tiếng, cả hai đứa trẻ cùng cười hinh hích, quên hết mọi chuyện.
- Vậy là ngươi sinh ra trong gánh xiếc hả?
- Không. Cha tôi bán tôi cho gánh xiếc, khi ấy tôi mười ba tuổi.
Hãn Mã bây giờ đã mười lăm tuổi, nhưng vóc người nhỏ thó nên không nhỉnh hơn Tri Kiểm mười hai tuổi bao nhiêu.
- Ủa vậy là cha ngươi không thương ngươi, không thích ở với ngươi? Hay ngươi làm điều gì có lỗi nên mới bị đem bán?
- Không, cha tôi thương tôi lắm…
“Sao lạ vậy?” Tri Kiểm nhíu mày thắc mắc. Nhưng cậu không hỏi gặng thêm, vì thấy Hãn Mã rơm rớm nước mắt. Bất giác cậu cũng rưng rưng nhớ lại cha mình, Phò mã Lâm ngày trước. Ngày gặp cha lần cuối, Tri Kiểm chỉ là đứa trẻ lên năm, vừa bắt đầu có ký ức. Cậu còn nhớ, cha thường nhấn mạnh mấy tiếng với giọng vang vang: “Phò vua, giúp nước”.
- Hãn Mã, nhà ngươi xúi công tử rong chơi, bỏ bê học hành, tội ngươi phải trị thế nào đây? - Gia Phúc bực tức.
Đã mấy hôm rồi, Tri Kiểm không chịu học võ. Lần nào võ sư Trương đến dạy, cậu bé cũng trốn chui trốn lủi.
- Chỉ vì con không thích học với thầy Trương thôi. Có liên quan chi đến Hãn Mã đâu? - Tri Kiểm giẫy nẩy lên.
- Võ sư Trương dạy giỏi nhất trong kinh thành, các phủ đệ đua nhau mời mà không được đó! Con chê thầy Trương, thì mẫu thân biết kiếm ai cho hơn?
- Con thích qua học bên lò võ An Cựu, nghe Hãn Mã nói bên đó có lò võ lớn lắm!
- Ai cha, con là công tử danh gia vọng tộc, sao lại đi học chung với mấy gã bình dân, không được đâu! Nhà ta đang yên đang lành, bỗng dưng tên Hãn Mã này đến làm loạn cả lên, ta ghét hắn quá đi thôi.
- Mẫu thân nói nhà ta yên lành, con có thấy yên lành gì đâu. Nhà ta buồn thiu, mẫu thân thì buồn rầu đau ốm, cáu gắt quanh năm. Từ khi Hãn Mã đến vui lên bao nhiêu.
- Con không được nói xàm. Vui cái gì, bỏ học, ham chơi, đáng phải đánh đòn!
Tri Kiểm nổi tự ái:
- Con nghe nói hồi mẫu thân còn nhỏ ở trong cung, đi học với Tiệp dư Phu tử, cũng trốn học đi chơi hoài. Vậy mà bây giờ rầy la con.
- Ai da, ta không dạy nổi thằng con cứng đầu này rồi. Vú Nhự, mau đi lấy roi ra đây cho ta. Quản gia, lập tức sang phủ Gia Hưng mời Đức ông sang đây.
Vú Nhự chạy đi lấy roi, mà roi đâu có sẵn, nên vú phải ra bụi dâu sau vườn tước lá lấy cọng làm roi. Vú cố ý đi rề rà loanh quanh rất lâu, đến khi lấy được roi về thì Gia Phúc đã hạ hỏa, không còn khí hung hăng nữa, mà chuyển sang cảm giác đau lòng than thân trách phận. Nàng ôm mặt khóc, cây roi đặt ngay bên cũng không buồn nhìn.
“Ôi dào, lại khóc!” Tri Kiểm thấy nước mắt, vừa thương mẹ, vừa đồng thời cảm thấy vô cùng khó chịu. Trong lòng muốn chạy lại an ủi, nhưng Kiểm lại bỏ ra sân. Thấy Hãn Mã đang đứng bên thềm nghe ngóng, Tri Kiểm xụ mặt, bảo:
- Tránh đi, trời đang mưa, coi chừng sấm sét nổ trên đầu ngươi.
Nhưng Hãn Mã cứ lên thềm, đi thẳng vào như không nghe thấy.
Trưa hôm ấy, Gia Hưng công Hồng Hưu được quản gia của Gia Phúc sang bẩm báo: công chúa đòi gửi trả tên tiểu hầu vì hắn đang làm loạn cả phủ Đồng Xuân. Vội vàng, ông lên ngựa chạy thẳng đến xem tình hình thế nào.
Hồng Hưu qua cổng, đi thẳng vào trong.
Một cảnh tượng bất ngờ đập vào mắt ông: đám đông người hầu trong phủ đang vây thành vòng tròn trên cỏ. Một cây tre cao dựng thẳng trong sân. Trên ngọn tre, đứa tiểu hầu của ông đang nhào lộn, làm đủ thứ trò xiếc.
Tiếng cười rộ lên từng chập, từng chập, trong khi Hãn Mã trổ tài nói giễu. Hồng Hưu đến gần. Gia Phúc ngồi ở ghế chính giữa, bên cạnh là cậu bé Tri Kiểm đang đứng hẳn lên, hăng hái cổ vũ.
Mải ham xem xiếc, nên khách đã vào sát gần rồi, gia nhân mới phát hiện, vội chạy đến bẩm công chúa. Gia Phúc quay ra, thấy anh trai, nàng đứng dậy chào, mặt vẫn còn hớn hở:
- Gia Hưng huynh! Thằng hầu của huynh đem cho thật là hay. Thường ngày cái mặt nó tối tăm như vậy, ai ngờ nó biết diễu hài cực giỏi, nãy giờ muội cười đứt cả ruột!
Hồng Hưu tủm tỉm cười. Cái tính sớm nắng chiều mưa của cô em út, ông đã biết quá rành từ khi nàng còn nhỏ. Tội nghiệp, ông thầm nghĩ, lâu lắm rồi mới thấy vẻ vui tươi hào hứng trên mặt Gia Phúc. Khuôn mặt còn gầy xanh hốc hác, mà nhờ có nụ cười chiếu sáng, bỗng bừng lên như nắng.
Kết quả là không phải Hãn Mã, mà võ sư Trương bị Gia Phúc trả về cho phủ Gia Hưng.
- Gã Trương này là võ sư bậc nhất của kinh thành, muội còn chê thì biết tìm ai cho hơn?
- Con muội nó không thích, nếu bắt học thì nó lại bỏ về bên dinh, muội sợ lắm! - Gia Phúc nhăn nhó.
- Ai da, coi chừng con hư tại mẹ. Nay phò mã đã khuất, muội phải dạy con thật nghiêm mới được. - Mới nói đến đó, thấy Gia Phúc đã hơi mếu, Hồng Hưu vội dịu giọng: - Thôi, huynh chỉ nói vậy, còn thì tùy muội.
- Dạ. - Gia Phúc gật đầu, môi vêu ra, mắt vẫn còn rưng rưng: - Nước mình bình yên cũng khá lâu rồi, hay là muội thôi đừng cho con học võ nữa? Nghĩ tới đánh giết, muội sợ lắm!
Hồng Hưu đứng dậy ra về, gõ nhẹ lên đầu em gái:
- Không bình yên mãi được đâu, muội đừng có nghĩ ngắn như vậy! Biểu thằng Kiểm lo học hành cho tử tế đi!
****
Chuông nhà thờ đang rung ngân. Hôm nay là ngày Anna Thắm lấy chồng. Lễ cưới theo nghi thức Ki Tô giáo được cử hành trong nhà thờ Nước Nhỉ. Chú rể là con một gia đình theo đạo từ đời chúa Sãi vương Nguyễn Phúc Khoát.
- Cha! Xơ Theresa đã dặn, khi hành lễ, cha là người dẫn con đến trước linh mục, cha nhớ nghe! - Thắm ngước đôi mắt đen to nhìn cha nuôi, đầy vẻ yêu thương.
Chí gật đầu:
- Nhớ lúc cha bồng con về đây, dọc đường bị con ỉa đái khắp người. Thật khi đó cha không tưởng tượng nổi lại có ngày uống rượu cưới của con.
Anna Thắm cười bẽn lẽn, đôi má đỏ hồng.
Bõ già đến cạnh Chí. Nay bõ đã yếu đi nhiều, đến chỗ đông người phải có hai đứa cháu kèm đi. “Xong lễ, cậu nhớ nói với cô dâu chú rể, đừng quên đi thăm Ngài.” Ý bõ muốn nói thăm mộ cha Tuấn trong nghĩa trang giáo xứ. Ngôi mộ nay đã thành một nơi thiêng liêng, những đôi tân hôn đều đến viếng để xin ban phúc.
Khi đám đông xôn xao về cả rồi, Chí ngồi nán lại trên tảng đá lớn bên mộ.
Gió chiều thổi man mác qua chốn vắng. Xa xa, những vườn trại xanh tươi nối tiếp nhau. Bõ già vừa chống gậy đi một vòng thăm những ngôi mộ quen, quay lại ngồi xuống bên chàng.
- Cậu Hai, cậu đã băm tám tuổi rồi! Già rồi đó, hồi tuổi cậu, bõ đã để râu ba chòm, đã có cháu nội. Sao cậu vẫn chưa vợ con?
Chí cười:
- Con nhỏ Thắm nay đã yên bề ấm chỗ, giờ là lúc tôi phải đi, bõ ạ!
- Trời đất, cậu còn đi đâu? Từ lúc triều đình bãi bỏ lệnh cấm đạo, dân yên tâm sinh sống, làm nhà lập trại, ăn nên làm ra. Cậu đi đâu cho hơn chỗ này?
Chí chỉ cười lắc đầu. Ngày mai lại, bõ già chống gậy buồn rầu tiễn chàng ra đầu ngõ:
- Bõ nhớ ra rồi, hồi trước bõ giặt áo cho cậu thấy trong túi có cái khăn thơm lắm. Có phải cậu đi tìm cái cô tiểu thư gì ấy, phải không?
Chí ngồi trên mình ngựa, cúi xuống ân cần từ biệt bõ già.
- Không phải đâu. Cháu đã nói rồi, cô ấy là tiên, cả đời cháu cũng không thể đụng đến, chỉ ngửi được mùi hương thôi!
Lòng Chí bỗng nao nao. Công chúa về lại kinh đô, từ ấy đến giờ nàng sống ra sao? Đời góa phụ chắc là buồn lắm!
Bõ già không chịu thôi:
- Không đụng đến thì cậu lặn lội ra đó làm gì?
- Có việc, bõ ạ. Cháu ra Phú Xuân lần này là vì lời hứa với một người…
- Người nào?
Chí không nói, siết chặt tay bõ già, rồi ra roi cho ngựa phóng đi.
Đến Phú Xuân một trưa nắng gắt, Chí không bỏ lỡ một phút, vội rẽ về làng An Truyền. Chàng mở tờ giấy của Đoàn Châu: một sơ đồ dẫn vào ngôi nhà ngói ba gian bên cạnh cái giếng cổ.
“Bác tìm ông tộc trưởng Đoàn Khanh hả? Lính vừa về bắt đi rồi! Bác muốn biết thì chạy lên phủ đường mà hỏi.” Người hàng xóm thì thụt nhô ra, vừa mách vừa nhìn quanh.
Trước sân công đường phủ Thừa Thiên, dân chúng đang xúm lại đông nghịt. Những tiếng kêu rú vang lên, tiếng thở hổn hển, tiếng khóc, tiếng gậy nện, cùng với tiếng đếm dõng dạc:
- Chín mươi! Chín mươi mốt, chín mươi hai! Chín mươi ba…
Chí tái mặt, cố chen vào. Tộc trưởng Đoàn Khanh mình bị lột trần, quần dài bị kéo xuống dưới mông, tay chân bị buộc vào bốn cái cọc lớn trên sân. Đội công sai cầm gươm đứng một vòng chung quanh. Một tên lính cầm cây gậy to giáng xuống. Viên đội trưởng đứng giám sát, đếm từng gậy một.
Đã chịu đến hơn chín mươi gậy, Đoàn Khanh không còn sức kêu la, cứ mỗi gậy giáng xuống lại hộc lên một tiếng. Đến gậy thứ chín mươi bảy thì im bặt. Đầu tội nhân ngoẹo qua một bên, mắt trợn ngược. Người thân đứng quanh khóc rống thảm thiết.
- Lạy các ông, xin các ông làm phúc tha cho…
Người lính cầm gậy dừng tay. Một tên lính khác cầm gàu nước tạt vào mặt người bị tội. Đoàn Khanh thở mạnh, đưa lưỡi liếm vài giọt nước, mắt hơi hé nhìn.
- Đánh tiếp! - Viên đội trưởng ra lệnh.
Đủ trăm gậy, tốp lính mới bỏ đi vào trong công đường. Thân nhân xúm lại, người cắt dây buộc, người lấy áo xống đắp cho tội nhân, vực dậy dìu đi.
Người đàn ông tội nghiệp bước đi không nổi, đầu gục xuống lắc lư trước ngực. Mọi người vội đi lấy cáng, cáng ông đến thẳng nhà cụ lang gần đó.
Nguyễn Hữu Chí cũng góp một tay khiêng cáng. Vừa đặt cáng xuống, chàng ghé sát mặt Đoàn Khanh:
- Bác Đoàn! Bác có nhận ra tôi không?
Đoàn Khanh nhướng đôi mắt lờ đờ nhìn. Bằng ánh mắt, ông ra hiệu nhận biết.
Chí lại cúi sát, thì thầm…
Cụ lang bước ra, bắt mạch, gọi người mau mau lấy thuốc hồi dương. Thấy mạch quá yếu, cụ thở dài:
- Có việc gì quan trọng, có nhà cửa ruộng nương cần thu xếp, thì ông hãy nói với người nhà đi!
Người thân nghe vậy, ai nấy ôm mặt khóc.
Đoàn Khanh yếu ớt đưa mắt ra hiệu ra ngoài cả, rồi thều thào nói với Chí:
- Lại đây…
Trong trí nhớ bỗng sáng rực lên của người sắp chết, cái buổi chiều hôm ấy lại hiện ra.
Tộc trưởng Đoàn Khanh gọi đứa con trai út lại gần, bảo:
- Đoàn Hữu Ngạo, thật ra ta không phải là cha ruột của con. Cha con là Đoàn Hữu Trưng, người đã bị xử lăng trì trong vụ loạn Chày Vôi hơn mười năm trước…
- Trời ơi, cha…
- Khoan, hãy nghe cha nói hết. Theo án tru di, lẽ ra con cũng phải chết, nhưng được tạm tha vì còn quá nhỏ. Quan trên giao con cho cha nuôi dưỡng, chờ đến mười lăm tuổi sẽ xét. Nay con đã mười hai tuổi, chẳng bao lâu nữa là đến hạn rồi. Đến lúc đó, khó nói trước được tha giết ra sao. Nên cha đã tính đường trước, con phải sớm trốn đi mới được!
Cậu bé nghe đến đó, trời đất như đổ sụp, nước mắt chảy ròng ròng trên má. Có lẽ nghịch cảnh làm người ta khôn ngoan trước tuổi, Đoàn Hữu Ngạo không tỏ ra hoảng loạn, chỉ cắn chặt hai hàm răng một lúc, rồi thốt lên:
- Con trốn đi, rồi đến hạn, triều đình hỏi đến, thì cha sao khỏi tội?
- Ta không sợ tội với triều đình, chỉ sợ một mai về dưới suối vàng phải đắc tội với cha con, người nghĩa sĩ của làng An Truyền mà thôi!
Giờ đây, cầm tay Nguyễn Chí, Đoàn Khanh nói vội, như sợ không kịp:
- Đất dù rộng, trốn đâu cho thoát. Nên ta đã giao Ngạo cho gánh xiếc của người quen…
Chí hiểu ý Đoàn Khanh. Gánh xiếc không có căn cơ cố định như các cộng đồng làng phố. Gánh xiếc là một tập hợp người không gốc rễ, được gom lại một cách lỏng lẻo, thường xuyên thay đổi, thường xuyên di động. “Xin bác cho biết chủ gánh là ai, thường lưu diễn miền nào?”
Chí cúi sát miệng Đoàn Khanh, cố gắng nghe. Nhưng không kịp nữa. Tròng mắt vị tộc trưởng đã đờ ra, đứng lại.
Ông đã đi gặp Đoàn Trưng, bên cõi ấy.
Chương 42
Đụng độ với Rheinart
Chưa đầy nửa ngày sau, yết thị truy nã Đoàn Hữu Ngạo được dán ngay trong chợ Đông Ba. Bức hình phác họa một thiếu niên trán dô, lông mày chữ nhất, kèm tên tuổi và lời ghi chú:
“Ai biết tội phạm Đoàn Hữu Ngạo ở đâu, hãy bóc yết thị này đến báo với phủ Thừa Thiên, sẽ được thưởng ngay 10 lạng bạc.”
Mười lạng bạc đối với người dân là một số tiền quá lớn. Người trong chợ xúm nhau chỉ chỏ trầm trồ. Bọn du thủ du thực vô công rồi nghề xem đấy là cơ hội béo bở kiếm tiền, chúng kéo nhau đến ngắm nghía hình vẽ rồi châu đầu bàn tán, mách bảo lung tung.
Nguyễn Chí giả làm người bán thuốc cao bên rìa chợ, kín đáo canh chừng. Gần bảy ngày qua, không thấy manh mối gì. Tờ yết thị bắt đầu khô queo dưới cái nóng ngày hè, chuẩn bị bong ra; dân tình trong chợ cũng đã bắt đầu chán, không còn ngó nghiêng đến nữa.
Đến ngày thứ bảy, khi chợ chiều đã vãn, chợt có một bà dong dỏng cao gầy đi qua, dừng lại ngắm nghía. Ngắm một lúc, người đàn bà bước tới, đưa tay bóc tờ yết thị, quày quả bước đi.
Chí vội bám theo, định bụng sẽ tùy cơ ứng biến. Người đàn bà ra khỏi chợ, đi thoăn thoắt vội vã, chắc là nôn nóng lĩnh thưởng.
Nhưng bà ta không đi về phía phủ đường, mà thẳng lên ngả sông Bạch Yến. Chí giật mình nhận ra cái dáng khá quen thuộc: nhũ mẫu của công chúa Đồng Xuân.
Vú Nhự vào cổng phủ, băng qua vườn, thẳng ra bờ sông. Tiếng nô đùa ỏm tỏi vang lên trên bãi cỏ. Tri Kiểm và Hãn Mã đang đá cầu. Gia Phúc ngồi bên gốc bưởi, vừa xem vừa vỗ tay cổ vũ.
Vú Nhự dừng lại, lấy tờ yết thị trong tay áo ra, hết ngắm hình vẽ lại ngắm Hãn Mã. “Đúng rồi! Trán dô, lông mày chữ nhất, vành tai lại vểnh ra… Không thể nào lầm được!”
Vú chạy vào, vừa lúc Hãn Mã đá một cái rất mạnh, Tri Kiểm đỡ hụt, quả cầu làm bằng bong bóng lợn bọc vải thô lao về phía Gia Phúc. Công chúa bất giác cảm thấy hứng thú, quên phắt mình đã là người lớn. Nàng lao ra, vừa đỡ gọn quả bóng vừa cười như nắc nẻ. Tri Kiểm và Hãn Mã thấy công chúa bắt bóng dính ngay thì đồng thanh khen ngợi, vỗ tay bôm bốp.
Vú Nhự lao đến, cầm tay công chúa kéo vào nhà trong, đến chỗ kín đáo nhất.
- Hm…Vú làm gì vậy… Tức quá, ta đang chơi vui thế này!
- Công chúa còn nói chuyện chơi vui được sao? Hãn Mã chính là Đoàn Hữu Ngạo, con của tên nghịch Trưng! Hắn đang bị quản thúc, nay lại bỏ trốn thì tội càng chồng thêm tội. Chuyện mà vỡ lở ra thì vạ đến cả phủ ta đó!
Gia Phúc sợ hãi, cuống quýt:
- Trời, biết làm sao đây, vú ơi?
- Vú cũng thương thằng nhỏ lắm, nhưng tình cảnh này, chỉ có cách đi báo quan. Chứ để vỡ lở, quan quân đến bắt thì công chúa phải chịu tội oa trữ đó!
- Báo quan? Báo quan rồi họ sẽ làm chi thằng nhỏ? - Gia Phúc hoang mang, bấn loạn.
- Họ làm chi thì vú làm sao biết ? Nhưng công chúa mà bị tội thì ít nhất cũng bị phạt cắt bổng, rồi công chúa sẽ không có lương mà ăn, không có tiền mà nuôi công tử, lại có thể mất cả ấm phong chức tước của công tử sau này nữa!
Nghe nói tới con trai, Gia Phúc lo lắng. Lời vú Nhự dội vào tai nàng: “Rồi công tử lớn lên sẽ oán trách, sao công chúa là người lớn hiểu biết mà để thiệt thòi đến tương lai của con!”
Đầu óc Gia Phúc rối bời. Hình ảnh Thể Cúc hiện ra… Người thiếu phụ ôm con, tóc xõa rũ bay trước gió lạnh, quỳ chịu tội trước cửa Chính Đông… Thương Cúc biết bao. Gia Phúc vẫn nhớ, mình đã khóc rất nhiều khi nghe tin Thể Cúc hóa điên hóa dại, rồi chết mòn trong cô độc.
- Hắn cũng là cháu ta, đành lòng nào đem giao nạp? - Gia Phúc ứa nước mắt.
- Vậy chỉ còn cách trả tự do cho hắn, bảo hắn đi đâu thì đi. Thế cũng chưa chắc khỏi lụy, nhưng ít ra còn đỡ đôi phần.
- Thả hắn ra? Hình ảnh hắn đã được dán khắp kinh thành. Thả ra cho người ta giết sao?
- Công chúa nói vậy, giờ vú biết làm sao? - Vú Nhự bứt tóc kêu lên.
Chợt “sạt” một tiếng, Gia Phúc và vú Nhự giật bắn mình, quay đầu nhìn ra. Nãy giờ Nguyễn Chí nằm ép người trên mái ngói, nghe đến đây chàng nhún chân nhảy xuống ngay trước cửa.
Gia Phúc và vú Nhự hoảng kinh, rồi nhận ra vị gia tướng trước kia, cả hai như thấy người trời giáng thế.
- Trời ơi, ông Hai, mấy năm nay ông đi đâu? Nói không phải, chứ già cứ tưởng ông không còn nữa! - Vú Nhự cả mừng.
Gia Phúc thấy Nguyễn Chí, chợt nhớ lại cả chuyến đi gian khổ năm nào.
Nàng cố giấu cảm xúc trong lòng, làm ra vẻ hách dịch:
- Gia tướng, hồi đó ta vẫn định về tới kinh đô sẽ hậu thưởng cho ngươi! Ai ngờ xong việc ngươi lại trốn luôn. Lấy cái tội ấy bù qua cái công, coi như ta chẳng còn gì nợ ngươi cả.
Giọng nàng lúc này đúng là giọng “Các Mệ”, một thứ giọng mũi rất đài các, cứ như được buông từ trên cao xuống. Một thoáng, Chí bỗng nhớ lại lúc ở trong hầm tối, Gia Phúc run rẩy quắp chặt lấy lưng chàng khi qua địa đạo, tội nghiệp như một con mèo ốm.
- Công chúa không bắt tội, vậy là may mắn cho kẻ dưới lắm rồi. - Chí tủm tỉm cười, chàng biết là Gia Phúc cũng đang nhớ lại.
Câu chuyện nhanh chóng trở lại với vấn đề làm sao xử trí số phận của Hãn Mã, tức Đoàn Hữu Ngạo. Vú Nhự dè dặt:
- Già nghĩ như thế này, ông Hai là hảo hán giang hồ, biết cách đối phó xoay xở, không dễ gì ai động đến được! Hay là ông đưa Đoàn Hữu Ngạo đi trốn? Vậy vừa trọn cái tình với vợ chồng Đoàn Trưng, vừa gỡ thế nguy cho công chúa!
Chí lắc đầu:
- Với một người đang trốn truy nã, thì nơi nguy hiểm nhất, chính là nơi an toàn nhất. Phủ đệ của các thượng công quý chúa, dù sao vẫn ít người ra vào, cũng không dễ gì bị lùng sục. Vậy xin cứ để Hữu Ngạo ở đây với thân phận chú hề xiếc, sẽ không ai ngờ tới. Chí xin bảo đảm, hễ có động Chí sẽ lập tức đem Ngạo đi trốn an toàn, không để liên lụy cho quý phủ.
Gia Phúc nghe nói thở phào. “Được rồi, vậy ta mới yên tâm. Ngày trước, phò mã vẫn có ý định sau này sẽ nhờ ngươi dạy võ nghệ cho con trai. Nay ngươi quay lại, vậy là Tri Kiểm đã có thầy, khỏi tìm đâu xa nữa!”
Hãn Mã cũng như Tri Kiểm không hề biết những chuyện ấy. Khỏi nói, hai cậu bé quá sung sướng vì có thầy dạy mới, giỏi hơn võ sư Trương rất nhiều. Thích nhất là, thầy mới này không ác như thầy Trương, bắt đứa trẻ nghèo làm bị thịt cho đứa trẻ giàu đánh đấm.
©©©©©©©
Tại triều đình, dù đã chờ nhiều năm, Nguyễn Văn Tường không nản lòng, vẫn kiên trì đề bạt tôn Thất Thuyết vào chức vụ Thượng thư Bộ Binh.
- Tâu Hoàng thượng, thần xin lấy tính mệnh đảm bảo cho Thuyết. Tình thế này, không có Thuyết, không xong. Hoàng Tá Viêm tuy giỏi đánh, nhưng không có tầm nhìn chiến lược, lại cứng đầu cứng cổ, rất khó điều khiển. Nếu Viêm không có cái tính gàn, cái tầm nhìn hẹp, thì còn phải tìm ai khác nữa!
- Trẫm biết. Viêm hết lòng ái quốc, trải thân chiến trường, không quản nặng nhọc. Nói thật lòng, tuy hắn ngang ngạnh nhiều lần nói nghịch ý trẫm, nhưng trẫm không để tâm chỗ ấy. Trẫm chỉ ngại ở chỗ trước đây Viêm dính líu quá chặt với quân Cờ Đen, nay lại dọn đường cho quân nhà Thanh của Phùng Tử Tài. Mà Cờ Đen với quân nhà Thanh hại dân còn quá giặc Tây!
- Tâu đúng vậy! Như vụ quân Thanh bức hãm Bắc Kạn của ta, khiến Phó đề đốc Thừa Duyệt phải tự đốt đồn mà chết, rốt cuộc ta cũng nhờ quân Pháp đánh dẹp mới lui được. Thần không câu nệ là phương tiện của Tây hay ta, cái quan trọng là sự trị an cho dân chúng! Chỉ ngại là…
- Ngại gì? Khanh cứ nói!
- Thần chỉ ngại là, Thống sát Philastre đã mãn nhiệm về nước. Philastre rất quý thần, rất tử tế với ta. Hiện giờ Rheinart qua thay, chưa biết rồi có được như Philastre không…
Nghe nhắc đến Rheinart, nhà vua khẽ cau mày, nhớ lại việc xảy ra mấy hôm trước.
Hôm ấy ngài ngược sông Hương lên thăm Hiếu lăng. Thuyền Ngự đi từ bến Phu Văn Lâu đến bến Me thì gặp Khâm sứ Reinart đi thuyền xuôi từ Bạch Hổ về. Lính Ngự Lâm cỡi thuyền nhẹ tiến lên ngăn lại, bảo rằng vua đang du hành, không ai được lộ diện trên sông.
Viên quan Tây bực mình:
- Không ai được lộ diện? Kể cả ta?
-Vâng, kể cả ngài. - Viên đội trưởng Ngự Lâm cương quyết.
Nghe thông ngôn dịch lại, Rheinart tức giận, một bên râu mép vểnh hẳn lên.
- Theo ta nghĩ, lệnh này chỉ áp dụng cho dân Đại Nam. Túc hạ nên nhớ, ta không phải là thần dân của ông vua đó!
- Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ. Xuất thổ chi dân, mạc phi vương thần. Dưới trời, không nơi đâu không phải đất của vua. Trên đất, không ai không phải là dân của vua! - Hết sức cương quyết, đội trưởng Ngự Lâm dõng dạc đọc một câu đã thuộc lòng trong nghi thức.
Rheinart buông ra một tiếng cười đầy chế giễu. Hai viên đại úy tháp tùng đứng hai bên cũng quắc mắt, tiến lên một bước, tay đặt lên đai súng.
Quân Ngự Lâm trên thuyền tuần tiễu lập tức nghiêng chếch mũi giáo ra phía trước. Mặt viên đội trưởng Ngự Lâm vẫn không đổi sắc.
Lúc ấy thuyền rồng đã đến sát gần. Tiếng nhã nhạc trên thuyền dừng lại.
Rheinart nhìn lên mũi thuyền, thấy một người cao lớn, vẻ mặt phương phi, mình khoác áo chẽn gấm thêu. Dù đang tức giận, viên Khâm sứ không khỏi ngưỡng mộ vì vẻ uy nghi của người ấy. Lâu nay, ông ta có ấn tượng rằng người Đại Nam nhỏ thó, gầy yếu và không đẹp. Đây là lần đầu ông gặp một người khác hẳn.
- Vua của ngươi đấy ư? - Rheinart hỏi.
Đội trưởng trả lời:
- Không phải đâu, Hoàng thượng đâu dễ gì để ai thấy được long nhan. Đó là Đức ông Hoàng đệ Gia Hưng công!
Đẹp người và thông minh nhanh nhẹn, nên Hồng Hưu được nhà vua yêu mến; trong các dịp lễ lược hay tuần du, ông đều được đi theo. Lúc này nghe nói có rắc rối xảy ra, Hồng Hưu vâng lệnh vua anh, bước ra xem xét. Thấy quan chức người Pháp, Hồng Hưu lịch sự thi lễ.
Rheinart cũng nghiêng mình chào:
- Chào Các hạ! Bản chức là khâm sứ đại diện nước Pháp. Theo tinh thần hòa ước 1874 thì bản chức được toàn quyền đi lại trên đất Đại Nam. Hôm nay bỗng nhiên bị cản trở, thực lấy làm bất bình. Nếu người Nam không tuân thủ hòa ước, thì người Pháp cũng chẳng có lý do gì để giữ lời.
Hai thuyền kề sát mũi nhau, một cuộc đàm phán nhanh chóng diễn ra. Hồng Hưu nhìn qua sự thể, sợ e đốm lửa dễ cháy rừng, nên hết sức đĩnh đạc từ tốn:
- Việc như thế này, thực sự chưa từng có tiền lệ. Từ trước đến nay, theo tục của bản quốc, Hoàng thượng là chí tôn chí kính, không ai được thấy mặt, mỗi lúc ra đường thì tất cả mọi người đều phải ẩn tránh. Đấy là một điều đã trở thành thiêng liêng trong tâm tưởng người dân của chúng tôi.
- Sao kỳ vậy? Một vị Hoàng đế được tôn thờ yêu mến, mà lại không ai dám nhìn mặt hay sao? Bên nước chúng tôi, mỗi lần nhà vua xuất hành, thì tất cả thần dân đều đổ ra đường, tung hô chào đón, thậm chí người ở trên lầu cũng chạy ra bao lơn, ném hoa, tấu nhạc để chào mừng! Vậy mới là long trọng, mới là chí tôn chí kính chứ! Một vị vua mà đi đến đâu dân phải trốn chui trốn nhủi như chuột, thì có gì là vẻ vang đâu? - Rheinart vừa nói vừa cười mũi.
Nghe dịch lại câu nói khiêu khích của Rheinart, Hồng Hưu không khỏi nổi xung, mắt rực lên lửa giận. Ông còn đang tìm lời đáp trả, thì từ trong khoang thuyền, một phụ nữ xinh đẹp bước đến gần. Đó là nguyên cơ của ông, đang cùng chồng theo hầu đạo Ngự.
Thông thường, các nguyên cơ phủ thiếp đều được chọn trong hàng danh gia vọng tộc, riêng vợ chính của Hồng Hưu lại xuất thân dân dã. Một cô gái thường dân, mà đánh bạt được bao nhiêu thiên kim tiểu thư của kinh thành; tất nhiên ngoài sự may mắn, cô gái ấy cũng phải có nhan sắc và phong cách trội bật hơn người. Lúc bấy giờ nguyên cơ đã chạm tuổi trung niên, nhưng vẫn còn vẻ đẹp đằm thắm. Vẻ đẹp ấy, hiện ra vào đúng lúc ấy, đã làm dịu hẳn vẻ mặt cau có của Rheinart.
Hồng Hưu cũng đã lấy lại được bình tĩnh. Ông điềm đạm, nhưng rất cương quyết:
- Phong hóa mỗi nơi mỗi khác. Dù sao, cổ nhân có câu “Nhập gia tùy tục”. Chúng ta đang đứng trên đất Đại Nam, xin đại viên thông cảm, giữ cho người dân Đại Nam khỏi bị tổn thương. Hôm nay mong đại viên chịu tránh đường cho vua theo phong tục chúng tôi. Biết đâu ngày nào đó, Hoàng đế Pháp ngự giá đến thăm, thì dân chúng cũng sẽ vui lòng chào đón theo phong tục nước Pháp!
Rheinart khẽ vuốt lại ria mép, mỉm một nụ cười uy nghi và duyên dáng. Hình ảnh mà Hồng Hưu vẽ ra, chỉ là cách nói để tranh thủ sự đồng tình, nhưng thực sự đã khiến Rheinart cảm thấy vui lòng. Y nán lại một chút, trao đổi mấy câu lịch sự xã giao, rồi oai vệ khoác tay ra hiệu. Hai viên đại úy đồng loạt lui bước, thuyền của Tây dang ra xa, áp sát vào bờ. Rheinart chấp nhận đi bộ về tòa Khâm sứ, sau khi giải thích với sĩ quan tùy tùng: “... Vì tình giao hiếu giữa hai nước Pháp Nam”.
Kèn trống lại nổi lên, đạo ngự tiếp tục đi.
Nghe nhà vua kể lại việc ứng biến của Hồng Hưu, Nguyễn Văn Tường có vẻ không vui:
- Hoàng đế Pháp đến Đại Nam! Dân Nam ra đường tung hô chào đón! - Tường khẽ khịt khịt như bị nghẹt mũi - Năm sáu năm qua, thần chịu mệnh làm việc với Philastre, cũng phải giữ gìn hòa khí, giao hảo thân tình với y, nhưng cũng chưa bao giờ phải nói một câu như vậy! Đức ông hoàng đệ đã quá lời rồi!
- Đấy chỉ là câu nói khéo để giải quyết tình thế thôi! Vả lại, cho là Hoàng đế Pháp có đến đây chăng nữa, cũng chỉ là thăm viếng bang giao, mà chắc chẳng bao giờ xảy ra! Nếu lúc ấy để xảy ra xô xát, thì càng phiền hơn nữa!
Vẻ mặt Tường vẫn không thoải mái:
- Rheinart chịu nhường, thật ra chẳng phải hắn sợ Đức ông hoàng đệ đâu! Chẳng qua vì hôm ấy chưa có chỉ thị của chính phủ Pháp, nên hắn không dám tự ý làm to chuyện thôi! Bằng chứng là hôm nay hắn gửi thư đến triều đình, thì lời lẽ chẳng có chút gì tử tế!
- Hắn muốn gì?
- Hắn đả kích việc ta đặt các lực lượng bố phòng ở Thuận An. Hắn cho rằng, ta không thật lòng hòa hảo với nước Pháp.
- Ai có thể thật lòng hòa hảo với kẻ đến cướp đất cướp nước của mình. Có điều, dân tộc ta trọng chữ tín, đã ký kết thì sẽ giữ lời. Ta chẳng làm gì sai, hắn sao có thể trách?
Hoàng đế Tự Đức là người hiền lương ngay thẳng, nên ngài luôn muốn xử sự mọi việc theo cách đàng hoàng trung tín. Nhưng những trò chính trị vốn đảo điên: Philastre thì tử tế, Rheinart thì giảo quyệt, những con người đó chẳng phải ngẫu nhiên mà xuất hiện trên bàn cờ Pháp - Nam. Philastre về, Rheinart sang, quân cờ này thay cho quân cờ khác, cũng chẳng qua vì đường lối của chính phủ Pháp đã thay đổi từ thế thủ sang thế tấn công.
Sự thay đổi ấy càng lúc càng lộ rõ qua thái độ của Rheinart. Từ mười mấy năm trước, triều đình đã bố trí mười hai đồn thủy dọc theo bờ biển, một dây xích lớn giăng ngang sông để chặn đường tàu địch, và một chiếc tàu cũ chứa đầy đá tảng được đánh đắm ngay cửa sông để làm chướng ngại vật. Vừa rồi, sau nhiều năm tháng, tàu đựng đá đã lún sâu xuống lòng sông, nên Nguyễn Văn Tường, đang phụ trách quan phòng cửa biển, đã sai người chở thêm đá đến đổ lên.
- Tâu Hoàng thượng, Rheinart giọng điệu rất mỉa mai, y cho việc phòng thủ của ta chỉ là trò trẻ, lại bảo ta không thật lòng hòa hiếu. Cách xử sự của y, thật tổn thương quốc thể của ta. Xem ra chưa biết còn định giở trò gì nữa, thật khó lường.
Hoàng đế nghĩ ngợi một lúc.
- Lẽ nào hòa hiếu nghĩa là không được phòng giữ bờ cõi? Cái ý lấn hiếp của hắn đã lộ ra rồi đó! Trẫm phải lo tính, kẻo lại như khi trước, trở tay không còn kịp!
- Tâu Hoàng thượng, đúng vậy. Ta phải mạnh hơn bao giờ hết. Triều đình cần một sự mạnh mẽ, mà chính thần cũng cảm thấy không có đủ…
Nhà vua gật đầu. Sự mạnh mẽ cần thiết ấy, nhà vua biết, Tường không có đủ, các quan Cơ mật không có đủ, và chính ngài, Hoàng đế, cũng không có.
Mười hôm sau Tôn Thất Thuyết đã có mặt ở kinh đô, sẵn sàng nhậm chức.
Chương 43
Giấc mơ tội lỗi
Đặt Thuyết vào chức vụ trọng yếu nhất trong triều, thực ra Hoàng đế cũng miễn cưỡng trong lòng lắm. Trước đây, ngài đã nhiều lần xuống dụ khuyên răn Thuyết: “Phải sửa đổi nhiều để cho xứng là bậc nho tướng, trí tướng”. Dụ như vậy, nhưng ngài cũng biết thừa, với bản tính hiếu thắng bất chấp của Thuyết, với tính lạm sát đã thành một phần trong máu thịt, thì chuyện sửa đổi là rất xa vời.
Về phía triều thần, việc Tôn Thất Thuyết xuất hiện làm cho nhiều người cảm thấy yên lòng, lại cũng làm cho nhiều người cảm thấy lo âu.
Những người cảm thấy yên lòng là Ông Ích Khiêm, Trương Văn Để, Phạm Thận Duật, Trần Xuân Soạn… những triều thần lâu nay bất bình với đường lối hòa hảo của Nguyễn Văn Tường, họ nôn nóng muốn bày tỏ một thái độ quyết liệt hơn.
Những người cảm thấy lo âu đa số là thành viên hoàng tộc, mà người dám nói ra miệng chính là Hồng Hưu. Ông nói với Hồng Dật trong cuộc gặp riêng ở phủ Văn Lãng:
- Thuyết là người hữu dũng vô mưu, hậm họe ở chiến trường thì tốt, chứ nắm chính sự trong tay e là hỏng! Thế nước ta yếu, rất cần sự mềm dẻo linh động. Cổ nhân đã dạy “Mạnh dùng lực, yếu dùng chước”. Đã yếu lại muốn dùng lực, tính chuyện phồng mang trợn mắt với cái thằng to khỏe, trước sau không sứt trán cũng mẻ tai mà thôi!
Hồng Dật cười:
- Đành vậy! Thôi thì chỉ biết trông vào phúc của Hoàng thượng! Nhưng nói thật tình thì đệ cũng ghét Tây, nếu đánh được tụi nó đệ cũng đánh.
Hồng Hưu vỗ vai em trai:
- Đệ vẫn còn tức cái chuyện năm trước chứ gì?
Cũng vì cái “chuyện năm trước” ấy mà phủ Văn Lãng bị phạt bổng mất nửa năm, nên Hồng Dật vẫn còn bực. Hôm ấy Hồng Dật tổ chức lễ mừng thọ cho mẹ, thuê người về hát tuồng mua vui, mở cổng cho dân vào xem. Bỗng có hai gã hăm hở chen lên phía trước, đầu lại đang bịt khăn trắng. Gia binh ở phủ thấy vậy cho là cố tình đem sự xui xẻo đến cho chủ nhân, liền bắt trói - và cũng nhân dịp, lột sạch tiền bạc cũng như đồ vật trên tay hai gã ấy.
Không ngờ, đó là hai gã viên chức người Nam Kỳ, đang làm việc với sứ Pháp. Tòa Khâm sứ trình vụ việc lên quan Thương bạc, việc chuyển sang Bộ Hình xét xử, ba tên lính phủ Văn Lãng đều bị đánh gậy và đền trả lại tiền bạc. Hồng Dật bị Tôn Nhân phủ hạch về việc không nghiêm dạy thủ hạ, cũng bị phạt lương.
- Khi không lại nẩy nòi ra cái tụi theo Tây, hở một tí là đụng chạm, bực cả mình. Nghe nói từ khi Tôn Thất Thuyết lên ghế Thượng thư Bộ Binh, y lo sắp đặt lực lượng, đặt súng gom quân, chắc cũng không đến nỗi vô mưu đâu! - Hồng Dật nói.
Hồng Hưu cười, nhún vai:
- Nếu Thuyết có mưu, thì cũng là cái mưu của kẻ vũ dũng thôi. Ai tin, chứ ta chẳng tin!
- Huynh quả quyết như vậy?
- Đúng. Vì chính Hoàng thượng cũng than phiền, Thuyết không bỏ được cái tính lạm sát. Sở dĩ không bỏ được tính ấy, là vì không kiềm chế được sự nóng giận của mình. Người đã không kiềm chế được mình, lẽ nào chế ngự được thiên hạ? Ta nghe nói từ ngày Thuyết về đóng trong tư dinh ở Vân Thê, đêm đêm dân chài qua lại trên sông Lợi Nông không dám hò mái đẩy lớn tiếng. Có mấy lần nửa đêm nghe tiếng hát hò, Thuyết đã cho gọi mấy đứa vào chém bay đầu! Đệ xem, ngay Hoàng thượng là người có quyền sinh sát, cũng chưa bao giờ giết người khi chưa qua xử án!
Hồng Dật tính thật thà mềm mỏng, nghe anh nói vậy, dè dặt:
- Chuyện đó thật là bậy, nhưng lời kể của dân gian cũng chưa chắc đã hẳn đúng. Anh em ta là hoàng thân, theo lệ không được tham gia triều chính, có góp lời bàn cũng chẳng tới đâu.
Tuy không lãnh chức trong triều, nhưng năm ấy Hồng Dật là Hữu tôn nhân, Hồng Hưu là Tả tôn nhân, điền hành hết mọi việc của Tôn Nhân phủ. Bởi vậy, thái độ của hai vị hoàng thân này có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ của hoàng tộc.
Nhưng Tôn Thất Thuyết chẳng hề quan tâm, vì trong mắt ông lúc ấy, hoàng tộc chẳng là cái thá gì cả, chỉ là một gánh nặng đeo bám vào ngai vàng.
©©©©©
- Bẩm, đây là vật phẩm quý lạ bên phủ Gia Hưng đưa sang, xin trình báo lên công chúa. - Hai người lính gác dâng lên chiếc mâm đồng, trên có gói nhỏ bằng giấy bìa vẽ hoa văn lạ mắt.
- Được rồi, để đấy cho ta, rồi vào bẩm với vú Nhự phát tiền thưởng cho người mang thư.
Gia Phúc nói rồi cầm thư, mở đọc:
“Hiền muội, lâu nay huynh nhiều việc, nên không sang thăm muội được! Muội hãy khá giữ gìn sức khỏe. Có món quà phương xa gửi cho, huynh dành phần cho muội. Tên gia nhân của huynh sẽ chỉ dẫn về cách dùng. Muội sẽ thấy rất đặc biệt!
Cẩn bút: Hồng Hưu”
Hà, cái gì mà lạ thế này, Gia Phúc tò mò, chăm chú nhìn, trong khi vú Nhự đặt chiếc lò nhỏ xíu bằng đồng lên mặt bàn cẩm thạch. Trong chiếc vạc sành nhỏ đặt trên than hồng, nước đang sôi lăn tăn. Vú cẩn thận nhẹ nhàng mở cái hộp bìa cứng, bên trong có lót giấy bạc.
Giấy bạc vừa bóc, một mùi thơm nhẹ nhàng tỏa ra, thật dễ chịu. Gia Phúc lim dim hít một hơi. Trong gói là một thứ bột màu nâu sẫm. Vú Nhự nâng niu vốc lấy một ít, cho vào trong chiếc túi nhỏ được khâu chằng hai lớp vải dày, dùng chỉ thêu buộc kỹ lại rồi cho vào vạc nước sôi.
Chờ nước trong vạc chuyển sang màu nâu óng, vú nghiêng rót vào chén tống. Lót tay chiếc khăn vải sạch, vú đặt chén nước sóng sánh trước mặt công chúa.
Lúc này mùi thơm thật khó cưỡng. Gia Phúc bưng chén lên, khẽ nhấp. Lập tức nàng nhăn mặt, bưng miệng, ý muốn phun ra.
Thị tỳ đứng cạnh vội vã chạy đi lấy ống nhổ bằng đồng. Nhả ra rồi, Gia Phúc kêu:
- Đắng quá! Đắng không sao nuốt được! Vú cho ta uống cái gì thế này?
- Bẩm, vú chỉ biết theo lời chỉ dẫn của người mang thư. Trên hộp có ghi chữ, công chúa đọc chắc sẽ biết!
- Chữ này là chữ gì? Ta không đọc được. Gọi ông Hai Chí lên đây, ông ấy đi ngao du bốn biển, chắc biết cái bột này là gì.
Nguyễn Chí vừa nhìn qua, tủm tỉm cười:
- Bẩm công chúa, đây là bột cà phê. Ở nước ta còn hiếm, nên ít người biết dùng, giá cũng vô cùng đắt.
- Thật sao? Đức ông hoàng đệ có nói là vô cùng đặc biệt. Sao ta thấy đắng không nuốt nổi.
Chí không trả lời, quay sang bảo vú Nhự đi lấy đường phèn đem đến.
Gia Phúc vẫn còn rụt rè:
- Cái thứ này... Có phải là của giặc Tây không?
- Thưa không. Cà phê vốn là sản vật của Tân thế giới, tức là bên châu Mỹ. Người Pháp chỉ mua lại rồi chở sang đây bán thôi.
- Vậy ta có dùng cũng không sao? - Gia Phúc vừa hỏi, vừa đảo mắt về phía bàn thờ Nguyễn Lâm.
- Bẩm, tại hạ nghĩ là không sao. Ví như xà phòng, thuốc cảm, thưốc ho mà hiện nay chợ nào cũng bán, như nhà chụp ảnh mà triều đình mới dựng trong kinh thành. Đó là cái văn minh do con người làm ra. Chúng có lợi cho ta, chứ không có hại, vậy cũng chẳng cần phải câu nệ.
Gia Phúc thấy yên lòng, liền bưng chén lên nhấp, quả nhiên lần này thơm ngon đến tận chân tơ kẽ tóc. “Ông Hai, sao ông giỏi thế, cái gì ông cũng biết?”
Lúc ấy, cà phê đã len lỏi vào các dinh thự, phủ đệ của kinh thành Huế, thành một cái thú tao nhã và mới mẻ của giới thượng lưu. Công chúa mỗi buổi sáng đều sai nấu cà phê đem ra đình Phong Nguyệt. Vừa thưởng thức món đồ uống thời thượng, nàng vừa xem con học võ dưới sân.
Thấy Chí dạy khinh công, nàng hứng chí cũng nai nịt gọn ghẽ xuống sân tập. “Ngày xưa ta học với phò mã hơn năm trời mà vẫn không nhảy được lên thềm. Nay thử học lại xem sao!”
Gần mười năm đã qua, những chấn thương đã dần lắng xuống trong lòng nàng.
Trong bộ võ phục màu hồ thủy, làn da trắng trẻo của nàng rực sáng hơn bao giờ hết. Cố tỏ ra nhanh nhẹn, nàng bặm môi nhảy cho bằng được lên khỏi miệng hố.
- Dù sao ta cũng đã từng thoát khỏi sào huyệt quân cướp, cũng anh hùng hảo hán đâu có thua ai! - Gia Phúc nói, mặt vênh lên đắc chí.
Chí cười. Có can gì đâu, để cho nàng tự mị một chút. Lâu lắm rồi nàng mới vui như thế, mới nói nhiều như thế.
Gia Phúc thấy mình bước đầu thành công, trong lòng càng thêm hăng hái, nàng lại lao vọt lên, quyết tâm nhảy qua bức tường thấp là là trước mặt. Hãn Mã, Tri Kiểm còn nhỏ, chúng nó đều nhảy qua được hết rồi. Lẽ nào ta chịu thua.
- Công chúa! - Nguyễn Chí thấy Gia Phúc hụt chân ngã ngửa, chàng hét lên, tung mình vừa kịp chộp lấy nàng.
Gia Phúc mở mắt. Nàng đang nằm gọn trong vòng tay Chí.
Trong mấy giây, một dòng điện chạy khắp thân thể nàng. Dòng điện ấy cũng đang chạy khắp thân thể Chí. Chàng vội vã buông ra, dìu công chúa đến ngồi bên hiên. Cả hai nhìn nhau, không ai bảo ai, chợt nhớ lại cái ôm lần đầu trong phủ Tùng Thiện, hơn hai mươi năm về trước.
Nghe tiếng hét, Tri Kiểm và Hãn Mã đã ra chơi sân trước vội chạy vào. Thị tỳ cũng rối rít chạy tới, lấy dầu mộc dược xoa gót chân cho chủ.
Tối hôm đó, vú Nhự vừa quạt màn vừa cự nự:
- Công chúa! Công chúa đã ở tuổi nào rồi, mà còn tung tẩy như thuở hai mươi?
- Chẳng qua múa may một chút cho đỡ buồn thôi! Có gì mà vú cứ rầy rà mãi!
- Sợ là không đỡ buồn, mà lại sinh sự buồn thêm đó, con à!
Thỉnh thoảng vú Nhự vẫn gọi Gia Phúc bằng con, đó là những lúc có chuyện quan trọng nhất. Bởi vậy, Gia Phúc cảm nhận được ngay thâm ý, nàng nắm lấy tay nhũ mẫu:
- Vú ơi, dù sao người mất đã mất rồi. Người còn thì vẫn phải sống...
- Hả? Công chúa có nghe người ta gọi đàn bà góa là gì không? Là vị vong nhân, tức là người chưa chết đó!
- Cái gì? Cả vú nữa, vú cũng muốn chôn sống ta sao?
Nói đến đó bao nhiêu nỗi đau khổ âm thầm của đời góa phụ chợt hiện lên, Gia Phúc bất giác ôm mặt khóc rấm rứt.
Vú Nhự cả kinh, vội vàng ôm Gia Phúc, vỗ về:
- Thôi thôi, vú không nói nữa! Con nín đi, nín đi!
Nói rồi vú buồn rầu: “Nay công chúa đã lớn rồi, tự biết mình là ai, tự biết giữ thể thống của mình, đừng để vú phải nhắc hoài nữa!”
©©©©
Một luồng sáng từ đâu lan đến, chênh chao như biển…
Chí đang tung cước ra đòn “Song hạc tề phi”, bỗng đau nhói dưới hạ thể, hai chân cứng đờ. Chàng ngã ngồi xuống cỏ.
Trong thứ ánh sáng chạng vạng đang bao bọc lấy chàng, lờ mờ một bóng nữ nhân từ trên tường cao văng xuống, đè lên người Chí.
Chí giang tay đỡ gọn người nữ vào lòng. Một cảm giác êm dịu, mềm mại như bông nõn. Chàng ôm siết lấy cái cơ thể đang tỏa ấm, lăn một vòng, đè xuống cỏ. Mê mẩn, ngấu nghiến, chàng mút chặt lấy bờ môi tròn, thơm, ngọt như viên kẹo dẻo.
Hai tay Chí nắm chặt đôi vú dầy nhọn thơm nồng mùi hoắc hương, lúc này đang căng như sắp vỡ tung. Chàng dập dồn bật nhún như đang cỡi sóng, rồi bỗng thấy mình nứt toác ra, một luồng nhiệt rần rật thoát ra ngoài hạ thể.
Chí rung giật toàn thân, thở hộc lên, mở mắt. Chiếc khố của chàng đã ướt. Thì ra mình lại mơ. Mở mắt nhìn quanh, té ra vẫn đang ngủ trong gian nhà gỗ nhỏ ven sông.
Trời vẫn chưa sáng. Chàng ngồi dậy, nhìn qua cửa sổ. Đang mùa thanh trà ra hoa, một mùi thơm dịu nhẹ tỏa lan trong đêm yên lặng. Bên kia vườn thanh trà là nhà chính ba gian. Một ngọn đèn lồng màu vàng nhạt treo ở đầu hồi, chỗ phòng ngủ của công chúa.
Chí bước ra, đi bách bộ dưới tàn cây, bồi hồi nhớ lại mùi hoắc hương trong mộng. Trong lòng chàng lâng lâng một cảm giác khó tả: hạnh phúc, thảng thốt, ray rứt, ăn năn.
Người nữ trong mơ không hiện rõ mặt mũi. Nhưng cái cảm giác say đắm tê dại khi mút chặt đôi môi dày mềm đã ngầm ám thị cho chàng biết người ấy là ai. Chàng không thể chối rằng nhiều lần chàng tưởng tượng ra mình được ngậm mút đôi môi ấy.
“Tội lỗi!” Một tiếng nói vang lên trong lòng chàng.
Chí nghĩ đến Giám mục Hậu, Giám mục Tuấn, cả hai ngài nay đều đã mất.
- Cha ơi, hãy cứu con khỏi sự cám dỗ, xin hãy thêm sức cho con…
Vừa khấn thầm đến đó, bất chợt chàng dừng lại vì một ý nghĩ kỳ cục cứ chen ngang vào tâm trí: liệu các vị cha tinh thần có bao giờ bất chợt rơi vào những giấc mơ hoan lạc như vậy không? Vì các vị cũng có thân xác, và nhựa sống cũng chảy tràn trong thân xác ấy. Liệu họ có phải chịu tội về những giấc mơ không thể nào cưỡng tránh?
Ngày mai lại, Chí cố tình tránh lại gần công chúa. Thay vì dạy tiếp bài quyền Liên hoa sinh châu, Chí cho hai môn sinh đọc sách võ trong nhà ngang, thác cớ là mình phải dẹp cây xoài đổ gục ở vườn sau để mở rộng sân tập.
Gia Phúc từ nhà trên xuống, thấy Chí đang vung rìu chém thân cây thành từng khúc. Mặt trời đã lên cao, nắng nóng gay gắt chiếu xuống. “Sao không gọi gia binh ra dẹp, mà lại phiền đến võ sư?” Công chúa hỏi.
Chí dừng tay, quay lại. Mặt chàng nhễ nhại ướt, hai cánh tay bóng lên từng khối cơ cuồn cuộn.
Gia Phúc bỗng thấy rung động trong lòng. Nàng bước lại gần, cầm khăn thêu ân cần chấm mồ hôi trên mặt Chí.
Cử chỉ quá thân mật, làm Chí điếng người mất vài giây. Chàng không thể kiềm chế được cảm giác lâng lâng, sung sướng đến tận cùng da thịt. Sực tỉnh, Chí đảo mắt nhìn quanh. May quá, vườn thanh trà tuy thưa lá nhưng cũng đủ che phần nào tai mắt người đời. “Nam nữ thọ thọ bất thân, xin công chúa thận trọng.”
Gia Phúc vẫn cười, gương mặt tuổi hồi xuân như đóa hải đường đượm sương, đỏ ửng, long lanh:
- Thọ thọ bất thân cái gì? Hồi trước ngươi cõng ta đi suốt đoạn đường dài, thì sao?
- Tình cảnh lúc ấy khác, bây giờ khác. - Chí bậm môi, bỏ cái rìu trên tay xuống.
Gia Phúc vẫn xàng xê tấm thân đầy đặn trước mắt chàng:
- Khác là sao, ngươi nói thử ta nghe!
- Trăm lạy công chúa, xin đừng trêu kẻ dưới này nữa. - Chí nói rồi vội vã bước đi.
Tối hôm ấy Chí trằn trọc mãi không dám ngủ. Chàng sợ lại thấy giấc mơ mà chàng cho là tội lỗi.
Nhưng lúc không ngủ, giấc mơ vẫn hiện ra, rõ mồn một trong tâm trí. Chí ngồi đờ đẫn trên bậc cửa, nhìn xuyên qua vườn thanh trà. Dưới mái hiên bên kia, ngọn đèn ở đầu hồi cứ khắc khoải sáng thâu đêm.
Chợt có tiếng chân động khẽ trong yên lặng.
Chàng giật mình: vú Nhự đang đi tới, khẽ ho lên đánh tiếng:
- Ông Hai đấy ư? Mụ nhiều tuổi khó ngủ, canh tư đã dậy uống trà. Còn ông, sao thức khuya vậy? Nhớ quê phải không? Nếu không ngủ thì vào nhà ngang uống với mụ chén trà cho tỉnh người.
Vú Nhự rót trà vào chén. Câu chuyện bắt đầu từ chỗ nhớ quê hương, rồi gợi lại nhiều kỷ niệm. Vú kể những câu chuyện ở làng quê mình gần bên sông Đáy.
- Khi ấy mụ còn nhỏ nhưng đến giờ vẫn nhớ rõ ràng lắm. Người đàn bà ấy mới độ hai mươi tuổi. Bị làng néo chân trên bè chuối, cái néo chắc lắm không thể nào rút ra được. Trên bè còn đặt một mâm cơm và một ô trầu cau…
- Chi vậy vú?
- Để cho dâm phụ khỏi làm ma đói. Vì bè chuối nó trôi nổi vài ngày mới ngấm nước đủ chìm. Vú nhớ mãi cái tiếng khóc rền rĩ thảm thiết khi làng cho đẩy bè ra giữa sông…
- Cô ấy đã làm gì, mà bị gọi là dâm phụ?
- Có chồng rồi, mà còn léng phéng với người đàn ông khác thì gọi là dâm phụ.
- Nếu người chồng đã chết thì sao?
- Chồng chết mà có con trai, chưa tái giá, thì cũng xem như chồng còn sống. Ông Hai ở trong Nam, chắc không biết luật bản triều có nói về tội “hòa gian”…
- Hòa gian là sao?
- Hòa gian là đàn ông đàn bà không cheo không cưới mà tự ý ăn ngủ với nhau, cả nam lẫn nữ đều phải chịu phạt 80 gậy. Nếu là kẻ dân dã mà hòa gian với đàn bà con gái nhà sang thì tội càng nặng hơn, phải chịu đến án thắt cổ.
Chí hiểu ngay, vú Nhự có ý nhắc nhở mình. Chắc là dạo này Gia Phúc tự nhiên vui lên, cử chỉ bất cẩn hồn nhiên, tất cả đã không lọt qua khỏi đôi mắt canh chừng của vú.
Chí lẳng lặng uống hết chén trà thơm, không nói. Vú Nhự vỗ vai chàng, cười hiền lành, làm như vẻ vô tư:
- Vú thương ông Hai lắm, có chuyện gì vui buồn cũng muốn nói với ông Hai.
Cuộc trò chuyện làm Chí hiểu ra hoàn cảnh của mình. Chàng nghĩ thầm: “Có lẽ mình phải đi.”
Nhưng nếu chàng đi, thì Hữu Ngạo sẽ ra sao? Ai sẽ bảo vệ cậu bé nếu lỡ xảy ra chuyện?
Tình thế khó xử khiến Chí băn khoăn mãi.
Trong lúc đó Gia Phúc rất vô tâm, nàng chẳng để ý gì mọi chuyện chung quanh. Trong cơ thể cũng như tâm hồn nàng, mùa xuân đang trở lại, nhựa sống cứ cồn cào bừng dậy. Nàng bị dẫn dụ bởi một niềm vui mới mẻ và mê đắm, như đứa trẻ vui thích đuổi theo con chuồn chuồn đỏ, không mảy may để ý vực sâu dưới chân mình.
Chương 44
Để phước cho hoàng tôn
Tôn Thất Thuyết vào triều nắm quyền ở Bộ Binh, lập tức tăng cường quân đội, mua thêm vũ khí. Bốn mặt thành đều được trang bị súng lớn, đặc biệt là hai khẩu đại bác chĩa thẳng về phía Tòa Khâm sứ - nơi ở của Rheinart.
Động thái của Thuyết khá lộ liễu, khiến ngay cả Nguyễn Văn Tường cũng không khỏi e ngại. Bởi vậy, bên phía Pháp đang rục rịch phản đối, thì phía triều đình đã triệt thoái hai khẩu pháo mà theo lời Rheinart phàn nàn với Hồng Hưu, “đã được bố trí vô cùng khiếm nhã”.
- Tâu Hoàng thượng, Gia Hưng công đã tâu lại với Hoàng thượng như vậy sao? Tại sao Gia Hưng công lại có mối liên lạc với sứ Pháp?
Hỏi câu đó, Nguyễn Văn Tường lộ rõ vẻ không vui. Bởi trước đây, chỉ duy nhất Tường có giao dịch với Thống sứ Philastre, tất cả quan hệ Pháp - Nam đều ở trong tay hai người. Năm sáu năm trời, việc đó đã thành một định lệ. Nhưng có lẽ Hoàng đế đã bắt đầu dè chừng sự độc quyền ấy. Mấy tháng trước, ngài hạ chiếu cho phép các hoàng thân được giao dịch bình thường với giới chức Pháp tại kinh thành: ý ngài muốn có thông tin từ nhiều nguồn hơn. Từ ấy, các quan Pháp thỉnh thoảng vẫn đến thăm Thọ Xuân công Miên Định, còn riêng Rheinart thì rất thích đến thăm phủ Gia Hưng, trong mắt khâm sứ thì đôi vợ chồng chủ nhân ở đây thực sự là “tinh hoa ưu tú nhất của người Đại Nam”.
Thiện cảm có phần lộ liễu của Rheinart dành cho Hồng Hưu, tất nhiên Nguyễn Văn Tường nắm được rất rõ. Tường làm ra vẻ vô tình:
- Gia Hưng công nắm quyền ở Tôn Nhân phủ, tiếng nói của Đức ông chi phối cả hoàng tộc. Nay sứ Pháp lại cầu thân, ý định cũng rõ lắm!
Mũi kiếm ngôn từ của Tường quả thật vi diệu. Hoàng đế Tự Đức hơi khựng lại. Nhưng rồi ngài khẽ lắc đầu, ôn tồn:
- Trẫm lấy lòng thương yêu đối đãi với anh em, và tin tưởng ở cốt nhục của mình.
- Tâu, Đinh Bảo, Đinh Đạo trước đây cũng là anh, là cháu của Hoàng thượng. Đoàn Trưng là rể của hoàng thúc. Xin Hoàng thượng chớ quên.
Nhà vua nhăn mặt như nuốt phải vật gì rất đắng. Không phải vì sự hoài nghi mà Nguyễn Văn Tường muốn gieo vào lòng ngài. Chỉ là vì câu nói ấy nhắc ngài phải nhớ lại những việc bất đắc dĩ trong đời.
- Đúng, một người anh ruột, một người cháu ruột, một người cháu rể. Bởi vậy trẫm đau lòng lắm, đã từng tìm mọi cách tha giảm cho họ. Trẫm chỉ đành lòng dùng hình pháp khi họ quả tang phạm pháp. Chưa bao giờ trẫm ngược đãi anh em mình, chỉ vì sự hoài nghi.
- Hoàng thượng thật nhân từ, hiếm vị quân vương nào sánh kịp. - Như mọi lần, Nguyễn Văn Tường luôn nhạy bén thối lui khi va phải thứ gì đó không thể xuyên qua.
Hoàng đế Tự Đức mỉm cười hài lòng:
- Trẫm tin tưởng tài trí của khanh. Trẫm tin tưởng đạo đức của Trần Tiễn Thành. Trẫm tin tưởng tình máu mủ của Hồng Hưu. Đó là ba chỗ dựa vững chắc của trẫm. Riêng về Tôn Thất Thuyết, trẫm để hắn nắm quyền cao là do tin ở khanh. Khanh đã bảo cử cho hắn, thì phải chế ngự được hắn.
- Tâu, thần hoàn toàn có thể chế ngự được Thuyết, xin Hoàng thượng yên lòng. Vừa rồi, thần đã bảo Thuyết tạm thời ẩn giấu hình tích, để chờ di chuyển thêm tài vật ra căn cứ Thành Hóa. Đồng thời, cũng chờ người của ta cử sang Anh về báo tin tức xem ra sao…
- Được lắm. Trẫm đang nóng lòng trông tin. Việc lập căn cứ Thành Hóa, Tân Sở, ta lo nghĩ cũng lâu rồi mà sao thành quả lại quá chậm. Còn việc giao lưu với Anh Cát Lợi, Tây Ban Nha, Xiêm La, hầu như cũng chưa có kết quả gì!
- Tâu, thần vẫn hết sức lo lắng đôn đốc. Việc ở Thành Hóa, Tân Sở, phải làm kín đáo hết sức vì nằm trên tuyến đường mòn sang Lào, mà mấy năm qua Pháp đã hầu như chiếm trọn xứ này, quan sát sang phía ta rất gắt. Còn việc giao thông với các nước, bọn Pháp cũng không vừa, chúng làm mọi cách ngăn cản không cho sứ thần, doanh nhân các nước tiếp cận với ta.
Nhà vua gật đầu, ngài cũng biết điều đó. Hiện giờ, ngài cũng đang chờ mật sứ từ Hoa Kỳ về báo cáo tình hình, mà vẫn chưa thấy. Trong lúc ấy, sứ Tàu là Đường Đình Canh vừa đích thân đến thăm, hé lộ tin mật: Chính phủ Pháp đang thay đổi đường lối tại Đại Nam, không còn muốn hữu hảo như những năm qua nữa. Họ đang nhòm ngó những mỏ khoáng ở Bắc Kỳ.
Tin tức của Đường Đình Canh có chính xác không? Nhà vua bán tín bán nghi, bởi quân nhà Thanh cũng đang lan tràn từ biên giới miền Bắc đến tận trung du. Chúng đang bắt tay với quân Cờ Đen, vốn cùng dòng máu cùng quê quán. Hoàng Tá Viêm vừa chống chọi với quân Thanh, lại vừa nhập nhằng với quân Cờ Đen, tình thế vẫn đang rối.
Nguyễn Văn Tường lui rồi, ngài quay về Càn Thành, băng qua vườn Ngự, trong lòng nặng trĩu suy tư.
- Hoàng thượng! Hoàng thượng! Con chắp tay lại, ra mắt Hoàng thượng đi!
Nghe tiếng cười trong trẻo râm ran, Hoàng đế ngửng lên. Thái hậu cùng đoàn cung nữ đang bước đến gần, ai nấy đều có vẻ hoan hỉ lắm.
Một đứa bé khoảng lên ba đang bước đi lững chững, hai tay vung vẩy, miệng cười toe.
Hoàng đế nhìn. Hình như ngài chưa từng thấy đứa trẻ này trong hoàng cung. Thái hậu thấy vậy, quay lui gọi:
- Phan cơ, con hãy bồng hoàng tôn dâng lên Hoàng thượng đi!
Một thiếu phụ xinh đẹp tiến lên, ẵm đứa bé đến trước nhà vua, quỳ xuống:
- Tâu phụ hoàng, con là nguyên cơ phủ thiếp ở nhà Dục Đức. Đây là con trai đầu lòng của chúng con, lúc chào đời đã được Tôn Nhân phủ ban tên đẹp là Bửu Lân.
- Vậy a? - Hoàng đế ngạc nhiên.
Thái hậu bước đến, vui vẻ:
- Hoàng trưởng tử Ưng Chân lâu nay khó khăn đường con cái, nhiều lần hữu sinh vô dưỡng. Bởi vậy sinh thằng nhỏ này đã lâu nhưng vẫn cẩn thận nuôi giấu trong phòng khuê. Đến nay ba tuổi, trời cho khỏe mạnh mới dám cho ra mắt Hoàng thượng!
Hoàng đế đang lo nghĩ nhiều việc, ngài thừ người ra một lúc. Thực lòng, việc Ưng Chân có con trai, ngài không thấy có gì quan trọng! Lâu nay càng lúc ngài càng thương mến Hoàng tử Ưng Đăng, dù chưa nói ra nhưng đã có ý sau này sẽ lập Đăng làm con kế vị.
Dù sao ngài cũng hài lòng vì mẹ mình hân hoan như thế.
- Mẹ! Con mừng lắm vì mẹ lại có cháu nhỏ chơi đùa. Con biết lâu nay hoàng cung quạnh quẽ lắm!
Thái hậu vào đình lục giác, ngồi xuống ghế cẩm thạch, kéo hoàng tôn bé nhỏ cho ngồi trong lòng:
- Con ạ, mẹ vui vì nhiều lẽ lắm!
Lâu nay, Hoàng đế không sinh con cái đã đành, Hoàng trưởng tử Ưng Chân nổi tiếng hiếu sắc, vợ nhiều mà cũng chẳng được mụn con nào. Thái hậu nhiều lần đốt hương khấn trời: Chúng con đã làm gì để Trời trách giận?
Bây giờ, hoàng tôn nhỏ xíu đã lên ba, mạnh khỏe khôi ngô. Thái hậu nhẹ lòng như cất được cả gánh nặng. Bà nhìn Hoàng đế, cười dịu dàng:
- Tháng này hoàng tôn đủ ba tuổi, tháng sau lại là tiết Thánh Thọ, sinh nhật của mẹ. Mẹ muốn làm một việc để tạo phước cho hoàng tôn, không biết ý con thế nào?
- Xin mẹ cứ nói! Miễn là không can hệ gì đến việc lớn của xã tắc, còn thì bất cứ gì mẹ mong muốn, con đều nhất nhất tuân theo.
Thái hậu ra hiệu cho con trai ngồi xuống cạnh mình:
- Trời đã thương mà ban ơn cho mẹ con ta, cũng nên báo đáp bằng cách rộng ân cho người trong thiên hạ. Mẹ vẫn nhớ mười mấy năm trước, trong vụ nghịch Trưng khởi loạn…
Nhà vua vừa nghe đến đó, lập tức cau mày, một nếp nhăn sâu như vết dao hằn rõ trên trán. Thái hậu thấy vậy, liền cầm tay Hoàng đế, nắm thật chặt rồi mới nói tiếp:
- Sau vụ ấy, triều đình xử tội tru di, nhưng còn hoãn thi hành với một số tội phạm…
- Thưa mẹ, con vẫn nhớ. Lúc ấy, mẹ đã xin cho những đứa còn nhỏ, khoan phải chịu tội theo cha anh chúng.
- Vâng, có tất cả mười lăm đứa trẻ, cuối cùng quan Bộ Hình cho tạm hoãn đến mười lăm tuổi sẽ xét. Mẹ vẫn hằng để tâm, biết một số đứa đã bị lưu đày, một số thì bỏ trốn…
- Thưa mẹ, con đã hiểu ý mẹ rồi. Vậy con sẽ ban lệnh tha cho những đứa đang bị đày hoặc bị phát làm nô bộc. Còn những đứa tự ý bỏ trốn thì không thể tha, bởi tha chúng còn gì là phép nước. Người xưa đã có câu “Bậc minh quân phải đặt pháp luật lên hàng đầu, hơn cả đức hạnh và hơn cả người hiền trí.” Con nghĩ câu nói ấy rất đúng!
Thái hậu lặng im một lúc, rồi nhẹ nhàng:
- Con nói chí phải. Phép nước là trọng. Có điều, mẹ nghĩ, pháp luật cũng không phải bất di bất dịch. Con thấy đó, so án tru di ở thời Thánh Tổ Minh Mạng, với án tru di ở thời con trị vì, tuy cùng một hình án mà sự thi hành đã thay đổi rất nhiều, khoan nới hơn nhiều lắm…
©©©©©
Lệnh ban ra trên khắp cả nước: nhân dịp tiết Thánh Thọ sinh nhật Hoàng Thái hậu, triều đình ra lệnh đại xá thiên hạ. Trừ các tội phản vua hại cha, còn thì tất cả tội phạm đều được giảm một bậc. Những người chịu tội theo, tức bản thân không phạm tội mà phải can án vì liên lụy thân nhân, cũng được tha hết, dù đang thụ án hay đang trốn tránh.
Cái tin ấy với Gia Phúc, vừa là tin vui, vừa là tin buồn. Nàng ngồi trong đình Phong Nguyệt, nhìn xuống vườn thanh trà đang ra hoa. Nguyễn Chí và Hữu Ngạo cùng lên thềm, đến trước ghế công chúa.
Hữu Ngạo lúc bấy giờ mười sáu tuổi, đã trở thành một thanh niên rắn rỏi. Cậu chắp tay cung kính:
- Lâu nay công chúa không sợ nguy hiểm, đã hết sức che giấu bảo trợ cho con. Nay được triều đình ân xá, con xin bái biệt để ngày mai lên đường. Ơn đùm bọc của công chúa, con không bao giờ quên.
Tri Kiểm đứng cạnh mẹ, bùi ngùi:
- Đoàn huynh! Huynh sắp đi rồi, vậy hãy ghé qua thư phòng của đệ. Đệ muốn huynh chọn một món đồ quý để làm kỷ niệm. - Từ lâu, Tri Kiểm đã xưng hô huynh đệ, từ khi biết thân phận thật của “tên hề xiếc”.
Tri Kiểm đưa Hữu Ngạo đi rồi, Nguyễn Chí bước lên. Chàng chỉ nói được mấy tiếng: “Xin từ biệt.”
Gia Phúc nhìn xoáy vào Chí. “Ngươi nữa, ngươi cũng bỏ ta đi sao?”
- Công tử đã mười bốn, nay mai hưởng phúc ấm, sẽ được nhận vào trường Anh Danh Giáo Dưỡng của triều đình, có võ quan rèn dạy. Chí không phải làm võ sư nữa. Hữu Ngạo đã được tha tội, Chí không phải lo bảo vệ nữa. Bây giờ Chí ở lại, thì chẳng qua là ăn hại, làm gánh nặng cho công phủ mà thôi!
Gia Phúc lắc đầu. Nước mắt nàng tươm ra, rồi rụng xuống trên đôi má. Chí cúi đầu bặm môi, chàng đứng trân ra, chịu đựng.
Gia Phúc quệt nước mắt, rồi bỗng như người khùng, nàng vớ lấy các thứ đồ quý trên bàn, ném choang choang xuống đất. Chí hoảng hốt, sợ người trong phủ nghe thấy, chàng vội giữ tay Gia Phúc, bất giác ôm choàng lấy nàng. Trong khoảnh khắc hết sức ngắn ngủi, thấy da thịt nàng nóng ấm dưới làn áo lụa... Chàng run bắn người, vội buông ra. “Công chúa, công chúa hãy cẩn trọng!”
Gia Phúc ném thẳng cái dĩa sứ trên bàn vào người Chí:
- Cẩn trọng cái gì? Thôi cút đi! Cút ngay đi!
Chí đưa tay bắt lấy dĩa để tránh cho nó khỏi rơi vỡ gây tiếng động. Vội vàng, chàng xuống thềm như bỏ chạy, quên cả cái lễ thoái lui ba bước.
Đêm cuối cùng, lẽ ra phải ngủ một giấc để mai đi sớm, Chí lại ngồi đến khuya trên thềm. Chàng không dám ngủ, sợ giấc mơ tội lỗi lại đến, sợ nó sẽ cản đường chàng.
Đêm càng khuya càng vắng lặng. Chí đi vào vườn thanh trà. Cây trong vườn đang ra hoa, tỏa thơm.
Chợt một bông hoa vụt tới trúng vào má Chí. Chàng giật mình dừng lại.
Dưới bóng ngọn đèn lồng treo trên cành cao, Gia Phúc ngồi đó, trên phiến đá. Nàng đang chìm đắm trong một vẻ buồn câm nín.
Chí ngập ngừng một lúc, rồi dợm bước lại gần. Chàng nhớ lại cơn giận của công chúa lúc ban sáng, e rằng nàng lại nổ tung lần nữa. Nhưng nàng chỉ lặng lẽ nhìn, đôi mắt lóng lánh vẻ hờn trách chưa nguôi.
Chợt Gia Phúc nhìn thấy bàn tay Chí.
- Tay ngươi bị thương hay sao? Có đau nhiều không?
Nàng nhớ ra, lúc sáng Chí dùng tay bắt cái dĩa sứ nàng ném. Cái dĩa đã vỡ trên tay chàng, mảnh sắc cứa rách thịt. Nàng nhè nhẹ xoa vết thương, ủ nó giữa hai tay mình, rồi đưa lên miệng ngậm. Nàng thấy vết thương mặn, rồi nước mắt nàng nhỏ vào, càng mặn hơn.
Chí quỳ xuống bên nàng. Giờ phút ấy, khoảng cách tưởng như không thể lấp đầy giữa quý tộc và bình dân đã không còn nữa. Chí ôm chặt Gia Phúc, cố lấp tiếng khóc thút thít của nàng trong lồng ngực mình.
Chàng nhặt bông thanh trà, ném ngược lên, ngọn đèn lồng phụt tắt.
Hai thân thể nóng bừng hối hả quấn riết lấy nhau trên cỏ... Quên cả lo sợ, quên cả cảm giác tội lỗi, Chí miết tay lên đám lông tơ mềm mượt, chạm vào phía dưới xương mu tròn đầy, ở đấy có một “nụ hồng” nho nhỏ…
Chí xát mạnh tay lên nụ hồng của nàng. Gia Phúc oằn người, rung giật, trong lúc mê man nàng bấu vào lưng, cắn vào ngực chàng mà không biết.
Phút giây này Gia Phúc đang sống bù cho cả mười mấy năm cô đơn. Nghĩ vậy, Chí cố trân người chịu đau, trong lòng thấy thương nàng vô hạn.
Một lúc sau, dường như sung sướng đến cực điểm, nàng rên lên một tiếng dài, rồi lịm đi.
Chí một tay đỡ công chúa, một tay tự chà sát thân mình... Chàng không quên câu chuyện trong Kinh Thánh: Onan bị trừng phạt vì để cho tinh khí của mình rơi xuống trên đất, chứ không chịu gieo vào lòng người nữ. Nhưng hoàn cảnh này, chẳng còn cách nào khác.
Công chúa mở mắt, trời đã mờ sáng. Chí cài lại áo cho nàng. Chàng thầm thì:
- Đành chỉ vậy thôi. Chút nữa tôi đi rồi… Tôi thà mang tội với Chúa Trời chứ không đành để khổ cho nàng đâu.
Chương 45
Bữa cơm muộn
Hữu Ngạo ruổi ngựa theo bên Chí. Thấy thầy có vẻ trầm tư, Ngạo cũng lặng lẽ đăm chiêu. Vẻ mặt lầm lì này, Ngạo vốn đã có từ nhỏ. Kể cả những lúc đang làm hề diễu, cậu cũng hầu như không bao giờ mỉm cười.
Đường đi càng lúc càng khúc khuỷu, nhấp nhô, khiến hai thầy trò phải dắt ngựa đi bộ nhiều chặng.
- Đây là đường thượng đạo trên núi. Tuy vất vả, nhưng nhanh hơn đường thiên lý dưới xuôi nhiều lắm! - Chí bảo Hữu Ngạo.
Sở dĩ nhanh hơn, là vì lúc ấy vẫn còn mùa nắng, các sông suối trên nguồn cạn hẹp, cỡi ngựa vượt qua không khó. Cũng những sông ấy khi chảy về đồng bằng lại trở nên sâu rộng, chỉ chờ đò ngang cũng hết hơi.
Ngồi nghỉ dưới chân đèo Minh Cầm, Nguyễn Chí vừa thả cho ngựa uống nước, vừa băn khoăn nghĩ đến tương lai của Hữu Ngạo. Giữ lời hứa, mình sẽ đưa Ngạo an toàn về với Đoàn Châu. Rồi sao nữa? Chắc nàng vẫn ở với quân Cờ Đen. Rồi có thể Ngạo cũng sẽ trở thành một tên Cờ Đen? Liệu có đáng không?
- Thưa thầy, thầy sẽ đi đâu? Thầy có ở lại miền Bắc với con không? - Hữu Ngạo chợt hỏi.
- Đại trượng phu bốn biển là nhà. Nơi nào có việc cần đến thầy, thì thầy đi đến đó.
- Vậy xin thầy ở lại miền Bắc với con.
- Con muốn vậy sao?
- Ngày trước con thường nghĩ đến thù cha, trong lòng cứ ám ảnh muốn có ngày giết lão Hoàng đế để báo thù. Nhưng những năm ở với thầy, thầy dạy con: người Đại Nam với người Đại Nam vốn thực không phải kẻ thù của nhau, cái thù lớn nhất, sâu nhất là thù Tây…
- Đúng vậy. Thầy hiểu ý con rồi. Tây đang đổ bộ vào miền Bắc. Chúng cứ bảo vào Bắc Kỳ để dẹp giặc Cờ Đen...
- Con nghĩ, chắc chắn đấy chỉ là cái cớ.
Chí im lặng một lúc, rồi hỏi thẳng:
- Vậy con có theo Cờ Đen không?
- Khi thầy kể về người cô của con, con đã suy nghĩ nhiều lắm. Con hiểu cô. Nước mình nhỏ, nghèo, yếu. Không bị người này cũng bị người kia thao túng. Tất muốn chống bên này phải dựa vào bên kia, chẳng có cách nào khác.
- Nhưng bản chất Cờ Đen là cướp. Chúng không bao giờ có kết cục tử tế đâu con. Cô Đoàn Châu của con phải theo, cũng là bất đắc dĩ.
- Con biết. Nhưng dân mình vẫn có câu “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Thầy tin con đi, dù ở trong cảnh nhá nhem, con nhất định sẽ giữ cho mình trong sạch, thầy ạ!
Chí im lặng nắm tay Hữu Ngạo, thầm ngạc nhiên: không ngờ Hữu Ngạo suy nghĩ già dặn như vậy. Chàng tự nhủ, hắn đúng là đứa con của Đoàn Hữu Trưng: trong mắt chàng, Trưng có thể đúng, có thể sai, nhưng không bao giờ nghĩ nhỏ.
Chí quyết định ở lại Hà Nội. Quê hương Sài Gòn đã thuộc về quân Pháp, chàng vẫn nhớ lời dặn của Phan Thanh Giản khi sắp mất: đừng về miền Nam nữa.
Xóm Đạo ở Nước Nhỉ đã bình yên. Anna Thắm lấy chồng, đã yên nơi ấm chỗ.
Kinh đô, nơi có phủ Đồng Xuân, nay là một kỷ niệm mà chàng không dám đối mặt. Dù là tay kiếm dũng cảm bất bại, chàng cảm thấy khó mà chiến thắng chính mình.
Trong lúc hai thầy trò rong ruổi dọc đường, thì ở Phú Xuân, trong cung đình, câu chuyện đang được cân nhắc trên ván cờ thời cuộc, cũng không ngoài vấn đề: Tàu và Tây.
- Tâu Hoàng thượng! Nói Pháp là kẻ địch của ta, vẫn chưa thật đúng. Nói cho đúng, ta có hai kẻ địch, Tàu và Pháp. Liệu ta có đánh được một lúc hai kẻ thù hay không? Chắc chắn là không. Vậy phải chọn, mà cách hay nhất là mượn tay kẻ thù này tiêu diệt kẻ thù kia… - Gia Hưng công Hồng Hưu tâu riêng với Hoàng đế, nhân dịp gặp ngài sau tiệc sinh nhật Thái hậu.
Việc hoàng thân bàn xen vào việc nước như vậy là vượt ngoài quy lệ của triều Nguyễn từ thời Thánh Tổ đến nay. Bởi vậy, Hoàng đế Tự Đức liền vẫy tay ra hiệu. Trung Lương và những thái giám khác lập tức lui ra ngoài. Còn lại hai anh em, ngài ân cần cầm tay Hồng Hưu:
- Hoàng đệ nói lời tâm huyết, trẫm rất hiểu lòng. Lúc này trẫm suy nghĩ lung lắm. Trẫm cố gắng lắm mới duy trì được hòa bình gần chục năm nay. Bây giờ nhiều điềm dữ xảy ra, e không bao lâu nữa tình hình sẽ khác, trẫm lấy làm lo!
Hồng Hưu nhìn kỹ dung mạo Hoàng đế, đúng là nỗi âu lo làm ngài thay đổi rất nhiều. Lúc này Hoàng đế để đầu trần, không vấn khăn, lộ ra mái tóc đã bạc gần hết.
- Tâu Hoàng thượng, xin ngài giữ gìn long thể. Còn vua mới còn nước, nếu Hoàng thượng thương lo cho xã tắc, trước hết phải thương lo cho mình trước đã. Lúc nãy, trong tiệc, thần để ý thấy Hoàng thượng không thời một món nào…
- Trẫm đang uống thuốc, nên phải kiêng các món sơn hào hải vị, và cũng không dùng ngự thiện trước giờ Dậu. Thôi, trở lại việc hoàng đệ vừa tâu, ưu tiên đánh Tàu hay đánh Pháp…
- Tâu Hoàng thượng! Pháp hay Tàu đều chẳng đứa nào thương ta. Nhưng thực tình mà nói, Tàu đáng sợ hơn! Chắc Hoàng thượng cũng biết, miền Nam gần chục năm nay thuộc Pháp, dân tình buôn bán thịnh vượng, thành Sài Gòn hiện nay nhà cửa dinh thự san sát rất sầm uất. Cái thịnh vượng đó, một ngày kia trời xoay đất chuyển, cơ hội tới, thì cũng sẽ trở lại thuộc về ta…
Mải sôi nổi trình bày, nên Hồng Hưu không kịp nhận ra một nỗi đau đớn lướt qua trên mặt Hoàng đế, khi ngài nghe đến mấy tiếng “Miền Nam gần chục năm nay thuộc Pháp”. Ông vẫn thao thao tiếp tục:
- Trong khi đó, miền Bắc thì quân Tàu do Đô đốc Phùng Quang Thanh đưa qua, nói là để giúp ta trừ quân cướp Cờ Đen, mà thực ra lại tàn ác còn quá quân Cờ Đen nữa. Chúng bắt dân ta đi phu, hành hạ đánh đập, có người bị đánh đến chết…
Hoàng đế cố nén nỗi nghẹn ngào.
- Trẫm biết hết. Trẫm đã cho người đưa thư phản đối đến tướng Phùng. Nói cho đúng thì Pháp cũng hung tàn mà Tàu cũng hung tàn. Hai cái hung tàn nó áp chế ta, vậy mới đau, mới khó…
- Tâu Hoàng thượng, vì thế ta khó, nên ta phải tìm cách bớt khó. Người Tây dương có câu rất hay, ấy là khi có một việc không thể giải quyết nổi, thì hãy bẻ nhỏ nó ra thành những mảnh có thể giải quyết được. Giữa cái hung tàn văn minh và cái hung tàn man rợ, nên trừ cái nào trước, chắc Hoàng thượng cũng thấy rất rõ!
Hoàng đế gật đầu:
- Hoàng đệ nói đúng. Từ nay hoàng đệ hãy luôn ở bên ta. Đôi khi ở trên ngai vàng thực sự rất cô đơn. Riêng việc đối phó với Tàu, đã rất nhiều ý kiến. Nhất là ý kiến của Hoàng Tá Viêm ở chiến trường miền Bắc…
- Tâu, ý Hoàng Tá Viêm ra sao?
- Trước kia Pháp gây hấn với ta, Tá Viêm dựa vào Tàu để đánh Pháp đã đành một lẽ. Nay Tàu đang xâm nhập từ thượng du đến trung du, coi giang sơn ta như chiếc áo rách. Pháp rục rịch đưa quân ra để đánh Tàu. Trẫm đã dụ bảo Tá Viêm án binh theo kế sách “trai cò đánh nhau, ngư ông đắc lợi.” Nhưng Viêm không chịu nghe, vẫn khăng khăng theo Tàu đánh Pháp. Hắn dâng biểu nói tướng ngoài biên ải từ xưa vẫn được quyền quyết định chiến trường. Trong triều, Tôn Thất Thuyết nắm Bộ Binh, ủng hộ lập trường của Tá Viêm…
- Tâu Hoàng thượng, vậy còn Nguyễn Văn Tường?
- Nguyễn Văn Tường trước kia là tâm phúc của trẫm, mọi việc bàn bạc đều tâm đầu ý hợp. Nhưng từ khi có Tôn Thất Thuyết, thì hắn với Thuyết tuy hai mà một! Trẫm có cảm tưởng hắn đã rời xa trẫm nhiều lắm!
- Tâu, còn Trần Tiễn Thành, còn Phan Đình Bình?
- Trần Tiễn Thành đúng là tôi trung của trẫm. Nhưng quả thật, chỉ có lòng trung chưa đủ. Còn Phan Đình Bình, thôi đừng nhắc nữa…
- Sao vậy, tâu Hoàng thượng?
- Phan Đình Bình thì đúng là một cái bình đậy nắp. Hoàng đệ đã nghe câu “Thủ khẩu như bình” rồi chớ? Lúc nào xảy ra tranh cãi, hắn đều im lặng, chắc là sợ nói hớ lụy đến thân. Chờ cho đến khi hạ hồi phân giải, hắn mới chịu khai khẩu.
Nhà vua nói rồi khẽ nháy mắt, hai anh em trao đổi một nụ cười nhiều ẩn ý. Phan Đình Bình, tuy thế lực đứng thứ tư trong triều, nhưng lại đóng vai rất khiêm nhường trong bộ máy quyền lực. Thế lực của ông phần lớn đến từ cô con gái xinh đẹp được hoàng cung chấm chọn: trưởng nữ họ Phan là nguyên cơ của Hoàng trưởng tử Ưng Chân, đã sinh được đệ nhất hoàng tôn được Thái hậu yêu quý.
Các quan trong triều rất nể Phan Đình Bình, ai cũng nghĩ chắc chắn ông sẽ trở thành bố vợ ông vua tương lai. Ít ai biết được những ý nghĩ âm thầm trong lòng Hoàng đế Tự Đức.
Nhưng chính ngay tối hôm đó, ý định sâu sắc của Hoàng đế đã bắt đầu lộ ra.
Hồng Hưu lui ra rồi, Hoàng đế lững thững đi từ Duyệt Thị đường về điện Càn Thành, nơi đội ngự thiện đang chờ ngài để dâng cơm như thường lệ. Sau một ngày khá bận rộn, lại nán lại đàm đạo với hoàng đệ khá lâu, nhà vua bắt đầu mệt và đói. Ngài đang thèm hớp một chén nước sâm, trước khi dùng món cháo ngũ sắc mà ngài yêu thích.
Lạ chưa, trong điện lặng phắc, vắng tanh, mặt bàn trống trơn. Hoàng đế vừa ngạc nhiên vừa bực mình, nhưng ngài chỉ im lặng cau mày, ngồi vào bàn.
Trung Lương hoảng hốt, vội hô thái giám:
- Mau mau gọi người dâng cơm, giờ Tuất Hoàng thượng đã phải vào ngự thư phòng phê tấu chương!
Đội trưởng ngự thiện hớt ha hớt hải chạy đến, quỳ trước thềm, dập đầu cồm cộp đến sầy cả trán:
- Tâu Hoàng thượng xin tha tội cho thần. Do trên chánh cung không có lệnh dâng cơm tối nay, nên tiểu thần mới đắc tội. Quả thật không phải tiểu thần dám chểnh mảng.
Hoàng đế Tự Đức ngày thường vốn rất khoan dung đối với kẻ hầu người hạ. Có lần một thái giám mồi lửa cho ngài hút thuốc, sơ ý để tàn lửa rụng ngay vào tay ngài. Thái giám sợ xanh cả mặt, nhưng ngài chỉ tự phủi cho tàn lửa rơi, không quở mắng. Lần này cũng vậy, ngài cũng chỉ khẽ phẩy tay, ra lệnh cho đội trưởng lui.
Nhưng sai lầm về bữa cơm không thể khắc phục nhanh như sai lầm về cái tàn lửa. Đội trưởng, dù huy động hết sức người, cũng phải mất thời gian ít nhất nửa canh giờ để dọn bữa cơm vua. Trong thời gian ngồi đợi, Hoàng đế thấm mệt, nỗi bực dọc cũng tìm ra được đúng người để trút xuống.
- Gọi Hoàng quý phi đến đây! Bà ấy làm gì mà lơ đễnh như vậy?
Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên, hôm ấy quán xuyến công việc tiệc tùng suốt ngày, giờ ấy đang nghỉ ngơi. Trên sập cẩm hương, bà nằm nghiêng duỗi chân cho cung nữ xoa bóp. Cùi chỏ chống vào gối thêu, bà đang chơi “bài tới” với một cung nữ khác quỳ cạnh sập. Dập quân bài “Ôn Ầm” xuống chiếu, Hoàng quý phi cười lên khanh khách, đắc thắng.
Giữa lúc ấy có lệnh vua gọi. Vũ Thị Duyên lật đật khoác áo, vấn tóc ra chầu.
- Hoàng quý phi! Khanh quản nhiếp công việc sáu cung, sao sơ suất, chểnh mảng như vậy?
- Tâu Hoàng thượng, xin tha tội cho thần thiếp. Bởi hôm nay sinh nhật Thái hậu, thiếp cứ ngỡ Hoàng thượng đã dự tiệc với hoàng gia rồi, nên không cho lệnh ngự trù nấu riêng ạ!
- Trẫm đang dùng thuốc, chưa tới giờ Dậu thì chưa ngự bữa tối. Việc đó khanh làm vợ mà không biết sao? Có xứng là chính thê không? Sao ở địa vị mẫu nghi, mà lòng dạ bất trung làm vậy?
Hoàng quý phi nghe tới hai chữ “bất trung” thì điếng hồn chết lặng. Vốn chậm mồm chậm miệng không biết biện bác làm sao, bà chỉ lạy phục xuống đất, nước mắt dầm dề.
Mấy hôm sau, có chiếu chỉ quở trách nặng nề, kể hết lỗi lớn lỗi nhỏ từ trước đến nay. Hoàng quý phi bị giáng xuống làm Trung phi, tức là lại trở lại ngôi vị cũ từ mười hai năm trước.
Vũ Thị Duyên bị giáng một đòn quá nặng, tưởng chừng bại xuội cả người. Như mọi lần, bà chẳng dám mở miệng than trách với ai, bởi trong cung này, dám tin ai mà than với trách.
Bà chỉ dám khóc với Thái hậu:
- Mẹ ơi xin mẹ thương con. Mười hai năm phụng sự nay đã trôi sông đổ biển, chỉ vì dâng trễ một bữa cơm. Oan ức này thiệt kêu trời không thấu.
Thái hậu thở dài:
- Nay Hoàng thượng mới xuống chiếu, ta cũng không tiện bác đi. Con cứ cầm lòng, siêng năng phụng sự, dần dần có cơ hội, ta sẽ nói giúp cho con!
Vì đâu mà Vũ Thị Duyên bị cái nạn lớn, mất tước, mất quyền, chịu bẽ mặt với tất cả phi tần? Với nhiều quan chức đang chăm chăm nghe ngóng từng tiếng hít thở từ hậu cung, việc này không đơn giản là do một bữa cơm muộn. Vũ Thị Duyên mất tước vị Hoàng quý phi, tức là Ưng Chân cũng mất địa vị đích tử, việc nối ngôi không còn chắc chắn nữa.
Mùa thu năm ấy, Hoàng đế cho xây nhà riêng cho hoàng tử nhỏ Ưng Đăng, đặt tên là nhà Dưỡng Thiện. Thường thì hoàng tử mười lăm tuổi mới được ra ở riêng, mà Ưng Đăng lúc ấy mới có mười hai tuổi.
Trước sự kiện này, người hài lòng nhất chính là Nguyễn Văn Tường. Đã từ lâu, Tường ôm ấp ý định lót đường cho tiểu Hoàng tử Ưng Đăng, con nuôi của nàng Nguyễn Thị Hương trẻ đẹp. Còn gì thuận lợi hơn, khi Học phi Nguyễn Thị Hương cũng là người đàn bà đang được Hoàng đế sủng ái nhất trong cung.
- Nhiều vị trong triều xì xầm với nhau rằng vì một bữa cơm muộn mà giáng chức của nguyên phi, hình phạt quá nặng! Chẳng qua họ không hiểu thấu cái ý định sâu xa của Hoàng thượng đó thôi! - Nguyễn Văn Tường nói với Tôn Thất Thuyết trong buổi gặp riêng ở tư dinh.
Tôn Thất Thuyết cười gằn:
- Mẹ kiếp! Vợ nọ con kia, chọn lọc tính toán cho lắm vào. Mai đây ai ngồi đó mà chẳng như nhau? Giặc Tây đánh đến bên sườn thì chẳng lo, toàn lo chuyện viển vông!
Nguyễn Văn Tường đã quen tính cách thô ráp của Thuyết, vốn là dấu ấn khó phai mờ của hơn mười năm lăn lộn ngoài chiến trận. Đáp lại câu nói cộc cằn, Tường chỉ mỉm cười ôn hòa:
- Nói gì thì nói, dân Đại Nam ta vẫn tôn quân, coi vua là Con Trời. Chúng ta muốn làm việc lớn, không thể không thông qua ngôi vua! Tiểu hoàng tử Ưng Đăng này có ý nghĩa với ta chính là vì vậy đó!
Tôn Thất Thuyết “hừm” một tiếng, giọng hoài nghi:
- Thuyết nghe Nguyễn Thuật, sư phó của thằng nhỏ đó bảo rằng hoàng tử học một buổi nghỉ mười buổi, xem ra cũng không khá gì hơn hai gã Hoàng anh. Theo Thuyết, nếu có hơn, thì chỉ hơn ở chỗ…
- Chỗ nào? - Tường hỏi, vẻ quan tâm.
- Ở chỗ… thằng nhỏ đó có mẹ trẻ đẹp hơn!
Nguyễn Văn Tường nghe trúng tim đen, lập tức gượng cười, nói lảng sang chuyện khác. Mấy hôm nay Thuyết đang bực tức vì lệnh vua bắt triệt thoái hai khẩu pháo lớn chĩa sang hướng tòa khâm sứ. Ông cứ mong về triều sẽ làm nên đại sự, nhưng thật ra vẫn là múa tay trong bị, nên lòng không khỏi bất bình!
Nguyễn Văn Tường luôn đứng làm trung gian giữa nhà vua và Thuyết:
- Ông phải bình tĩnh, đừng nôn nóng quá! Hoàng thượng phán rằng súng thần công của ta độ chính xác không cao, nếu đặt ngay trong kinh thành, e bắn chưa trúng Tây mà lại rớt nhằm dân chết uổng. Vì vậy sẽ tìm chỗ thích hợp để bố trí sau.
- Chưa khai pháo đã sợ đủ thứ, thì còn đánh giặc sao được. Lại nữa, giặc Pháp đang đổ bộ lên miền Bắc, mà Hoàng thượng không chịu cho Hoàng Tá Viêm chặn giữ, Thuyết thật lấy làm uất ức lắm.
- Hoàng thượng chỉ ngại Tá Viêm chặn đánh Tây lại dùng đến quân Cờ Đen. Mà Cờ Đen hại dân quá lắm. Miền Bắc đã bị quân nhà Thanh và quân Cờ Đen làm cho rách bươm như cái áo nát. Ngài muốn dùng kế ngư ông đắc lợi, để cho Tây diệt Cờ Đen, rồi sẽ tính sau!
- Cờ Đen dẫu hung tàn, nhưng cũng đã là đồng minh của ta. Dẫu sao cũng là người da vàng mũi tẹt, cũng thờ Trời cũng lạy tổ tiên như mình. Ta biết cách đối phó với chúng, biết cách lợi dụng chúng. Chúng nó là cướp nhỏ, đâu đáng sợ bằng Tây là thằng cướp lớn! Quan bác nghĩ kỹ mà xem, Thuyết nói chẳng sai đâu!
Lúc này Nguyễn Văn Tường với Tôn Thất Thuyết rất tin tưởng nhau, những lúc riêng tư trò chuyện chẳng cần tránh né điều gì. Bởi vậy Tôn Thất Thuyết vẫn thường công khai bày tỏ sự khinh mạn đối với hoàng gia. Trong mắt vị võ quan đã trải qua trận mạc, thì cả cái hoàng tộc này thật vô tích sự, chỉ có ăn hại cơm của nước.
Chương 46
Khi Hoàng thượng phải năn nỉ
Mắc kẹt giữa Tàu và Tây, triều đình nhà Nguyễn lúng túng xoay xở, cố tìm giải pháp cho cục diện miền Bắc. Đánh một lúc cả hai thì không đánh nổi. Mà ngả về bên nào thì cũng rất tai hại.
Ngả về Tây, thì triều đình sẽ mất dần chủ quyền. Ngả về Tàu, tình trạng ly loạn sẽ kéo dài, lan rộng.
Nhà vua trằn trọc rất nhiều vì việc ấy. Dựa vào Tàu thì càng lúc dân tình càng nát. Dựa vào Tây thì càng nguy hơn: có vẻ như sau gần chục năm đóng vai bằng hữu, giờ đây khuôn mặt người “bạn” ấy đang có vẻ nhăn nhó và dọa dẫm hơn bao giờ hết.
Tháng hai, ngày Đinh Tỵ, giữa ban trưa mặt trời bỗng tối sầm. Học phi Nguyễn Thị Hương đang đi dạo thơ thẩn trong vườn Thiệu Phương - nàng vẫn thích ra đây một mình để được lặng lẽ ngắm hoa ngọc giao nở. Bất chợt thấy tối sập, nàng hoảng hốt nhìn lên: mặt trời đã biến thành một hình vành khăn khổng lồ, chói rực giữa bầu trời u ám. Vành khăn ấy chầm chậm biến thành hình lưỡi liềm, rồi từ từ mỏng đi và biến mất. Chỉ còn một màu xám tím mịt mùng bao trùm tất cả.
Cả đời chưa bao giờ gặp chuyện như vậy, Học phi cảm thấy tối tăm mặt mũi. Sợ hãi vì đang chơ vơ giữa vườn, nàng lính quýnh, bất giác kêu lên:
- Hoàng thượng! Hoàng thượng!
Nhìn một lúc mới thấy rõ đường đi giữa hai luống hoa, nàng cứ thế bỏ chạy một mạch đến ngự thư phòng. Thái giám, thị vệ đều đang nhốn nháo, thế là nàng chạy thẳng đến chỗ vua.
Không thấy Hoàng đế sau án thư, Học phi hoảng hốt, loạng choạng một lúc mới thấy ngài đang ở trên sập rồng, ngồi dựa vào đống gối thêu. Nàng chạy ào tới, gục đầu vào lòng Hoàng đế như cầu che chở. Bàn tay vua đặt lên đầu nàng, khẽ vỗ về:
- Ái khanh đừng sợ… Đừng sợ!
Nghe giọng nói của nhà vua, Học phi không những không bớt sợ, mà còn thêm hoảng kinh:
- Hoàng thượng! Hoàng thượng làm sao vậy?
Trong bóng tối mờ mờ, giọng nhà vua có vẻ đang nghẹn lại, nghe như giọng một người xa lạ.
Vừa lúc ấy Trung Lương bưng giá nến mới thắp đến gần. Học phi ngước lên, nàng thấy gương mặt xanh xao của Hoàng đế. Có vẻ như ngài đang ngậm một vật gì rất đắng.
Trung Lương nói nhỏ:
- Hoàng thượng vừa thổ huyết, xin lệnh bà tạm lui để thái y vào.
Học phi đã choáng càng thêm choáng. Nàng bật khóc, không hiểu chuyện gì đã xẩy ra. Ngoài hành lang, tiếng chân thái y đã đến gần, ánh đèn lồng soi đường đã hắt tới ngưỡng cửa. Mấy ngón tay nhà vua trên tóc nàng lại khẽ vỗ về, ý như muốn bảo nàng cứ an tâm lui gót.
Ngày hôm ấy là một ngày rất nặng nề với Hoàng đế Tự Đức. Cùng lúc hai sự kiện ập xuống, đầy ám ảnh. Ngài vừa nhận được tin cấp báo: chiến hạm của Pháp đã kéo cờ tiến vào cảng Hải Dương, chỉ cách Hà Nội có mấy mươi dặm. Cùng lúc, nhật thực xảy ra: theo quan niệm đương thời, nhật thực, nguyệt thực là những điềm rất xấu.
“Lẽ nào Trời sắp dứt ta chăng?” Câu hỏi đầy ám ảnh vang lên trong lòng Hoàng đế. Lồng ngực quặn đau, ngài bỗng linh cảm một cách hết sức rõ ràng: rất có thể ngài phải ra đi, trước khi dứt điểm được ván cờ rối ren này.
Thái y về rồi, Hoàng đế nằm trên sập, gọi Trung Lương:
- Lấy bút giấy lại gần đây, trẫm đọc cho ngươi thảo chiếu chỉ. Có hai việc cần làm gấp. Việc thứ nhất là đối phó quân Pháp, lệnh cho quan trấn thành Hà Nội và Hải Dương phải cho một võ quan, một văn quan ra đóng bên ngoài thành, ngày đêm tuần tiễu xem động tĩnh của giặc. Việc gấp thứ hai, là việc trong nội cung: khanh soạn chiếu phục chức Hoàng quý phi cho Vũ phi, đưa cho trẫm ký và đóng ấn.
Trung Lương nghe vậy không khỏi bỡ ngỡ đưa mắt nhìn.
Nhà vua không để ý đến ánh mắt ấy. Ngài lẩm bẩm:
- Vậy là trẫm đành phải cắt tình riêng, không thể lo cho mẹ con Học phi được nữa!
Mấy hôm sau Trung phi Vũ Thị Duyên trở lại ngôi chủ tể hậu cung. Nàng mừng đến sững sờ. Lạy nhận chiếu tạ ơn xong, nàng vội vã đến ngay cung Gia Thọ ra mắt Thái hậu:
- Con nhờ mẫu hậu che chở nên mới sớm được trở về tước cũ. Ơn sâu của mẫu hậu và Hoàng thượng, con ghi khắc trong lòng, nguyện đem hết tim óc để báo đền.
Thái hậu không nói gì. Bà hiểu thâm tâm nhà vua nghĩ gì. Đưa Vũ Thị Duyên trở lại ngôi chính cung, tức là đưa Ưng Chân, người con lớn nhất vào ngôi đích tử. Dù Ưng Chân chưa phải một người kế thừa lý tưởng, nhưng dù sao, vẫn phải có người trưởng thành sẵn sàng gánh trách nhiệm, nếu lỡ ra xảy chuyện “bất tường”. Sức khỏe càng lúc càng tệ, nhà vua đã nghĩ tới viễn cảnh mình đột ngột ra đi.
Thái hậu ngồi lặng lẽ, quay mặt vào trong màn, nước mắt âm thầm chảy.
©©©©©©
Nguyễn Chí thắt lại khăn gói, buộc chặt lại đai kiếm. Đoàn Châu bước đến gần, vẻ mặt buồn rầu:
- Anh đi đâu lúc này? Cả thành Hà Nội đang xôn xao, mấy nhà giàu lớn đang lo chở người, chở của vô Nam Định tránh nạn. Lúc này đi đường vất vả lắm!
- Anh đã đưa Hữu Ngạo về cho em rồi. Phận sự của anh vậy là đã xong. Anh nói thật, trong lòng anh băn khoăn về hắn rất nhiều. Thực tình anh nghĩ được ân xá rồi, lẽ ra hắn nên về lại An Truyền cày cấy sinh sống, hơn là ra đây đi theo đảng cướp.
- Anh nghĩ cô cháu em là cướp thật sao? Không cướp của nhà giàu, làm sao có tiền chia cho nhà nghèo? Làm sao có tiền đánh Tây, cứu nước? - Đoàn Châu cự lại.
- Cướp nào cũng là cướp, cũng đều xấu xa tội lỗi. Vả lại, cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo chỉ là cái nhãn hiệu để phỉnh phờ những người có lòng như cô cháu em mà thôi. Còn ngoài kia anh đã nhiều lần tận mắt thấy, nghèo giàu gì chúng cũng lột sạch, chẳng chừa ai.
- Vậy bây giờ anh tính đi đâu? Cụ Phan đã dặn, anh đừng về miền Nam nữa.
- Anh nhớ chứ. Anh hiểu, cụ biết anh về Nam, sẽ bị Tây chèo kéo ra làm việc cho chúng, rồi tay sẽ nhúng chàm. Anh sẽ về Bình Định, về xóm Nước Nhỉ, ở đó anh có một trại nuôi ong. Anh sẽ mở lại trường võ, trồng hoa, nuôi ong lấy mật, sống một đời lương thiện.
- Lương thiện cái gì? Tây đang hăm dọa ngoài kia, không chừng nước sẽ mất nhà sẽ tan. Người giỏi như anh lại rút đầu co chân ở nơi hẻo lánh, thế có hèn không?
- Ái chà… Dù em nói gì, anh cũng không muốn em tiếp tục nuôi anh bằng tiền ăn cướp đâu.
- Nếu anh không muốn ăn cơm ở chùa này, thì em chỉ cho anh một chỗ làm thích hợp! Anh vừa kiếm được tiền để sinh sống ở Hà Nội, mà còn giúp được việc đánh Tây!
- Em à, nếu được như vậy, thì còn gì hơn nữa. Em cũng biết là hiện giờ trên đời anh còn ai nữa đâu, ngoài em và Hữu Ngạo. Phải rời xa hai cô cháu, cũng là bất đắc dĩ mà thôi.
Câu nói của Chí làm Đoàn Châu lặng đi một giây vì hạnh phúc.
Nàng xích đến gần, nói nhỏ vào tai Chí.
Chí hơi nhíu mày, mặt nhăn lại một lúc. Châu vội vàng nói như nài ép:
- Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Anh đừng có nói chuyện về Bình Định nuôi ong. Em mà nghe lần nữa là em từ mặt, không anh em chi nữa hết.
Dứt lời, nàng vớ cái tay nải trên vai Chí, đem đi cất. Chí nhìn theo, lắc đầu. Trong lúc Châu hăm hở, cái dáng đi nữ tính lộ ra trong bộ y phục nhà sư, khiến chàng không khỏi mỉm cười.
Chí cúi đầu, nhớ tới công chúa. Đêm nào Chí cũng trằn trọc nhớ tới cái thân thể mềm ấm, nhớ tới đôi môi dày tham lam, nhớ tới nụ hồng cưng cứng ẩm ướt trong chỗ kín đáo nhất của nàng. Chàng quyết định ở lại Hà Nội cũng một phần vì vậy. Đường vào Nước Nhỉ phải đi ngang kinh đô. Chí không dám chắc ngang qua đó có thể kiềm chế nổi mình không, hay lại bị nỗi khao khát thôi thúc quay ngược về công phủ.
Ở phủ Đồng Xuân, tối tối Gia Phúc một mình thơ thẩn trong vườn thanh trà. Mùi nhựa tươi mát tỏa ra từ những thân cây bong vỏ. Nàng thấy nhựa sống trong cơ thể mình cũng đang tuôn trào: một cảm giác rạo rực và bí bách, còn mãnh liệt hơn thời mới lớn.
Quay về phòng, nàng nằm dang tay, dang chân trên nệm. Nàng thấy hình ảnh Chí, thấy thân hình vạm vỡ và hai cánh tay dũng mãnh. Lăn lộn trên gối chăn, Gia Phúc tự liếm ướt đôi môi dày đang khô khát. Nàng bật khóc tấm tức, rồi bất giác một tay quờ lấy chiếc gối ôm, một tay tự giật đứt dải áo lụa mỏng. Rũ hết, tuột hết. Trần truồng, nàng nằm úp trên chiếc gối cứng, chà xát, chà xát. Nụ hồng của nàng đã chạm siết vào chỗ cứng nhất của chiếc gối. Nàng rung giật, thỏa mãn, miệng ú ớ rồi vuột ra một tiếng kêu dài sung sướng.
Gia Phúc không biết vú Nhự đang núp bên ngoài, dí mắt vào khe cửa. Đến đó, vú xô cửa bước vào, tay cầm roi mây, vụt lấy vụt để vào đôi mông tròn trắng vẫn còn nhấp nhổm:
- Khốn nạn! Công chúa mà như vậy hả? Quỷ ám con tôi rồi! Này, này, ám này, cút ngay đi! Quỷ sứ hãy cút đi!
Mông Gia Phúc hằn lên những vết đỏ tía. Nàng thất kinh, vừa hoảng hốt vừa xấu hổ, chỉ biết luống cuống kéo chăn che thân.
Cây roi vú Nhự cầm là cây roi được Thái hậu ban, nên Gia Phúc không dám phản ứng, chỉ biết bập bệu năn nỉ:
- Đừng… Đừng mách Thái hậu. - Rồi nàng chắp tay, van lơn: - Đừng nói với ai.
Vú Nhự đặt roi lên bàn, vái roi mấy vái, rồi ôm lấy Gia Phúc. Vú khóc, xoa những vết bầm trên thân nàng, mặc lại áo cho nàng. “Tội nghiệp cho con! Ma dẫn lối, quỷ đưa đường, nguy quá rồi con ạ!”
Gia Phúc không nói gì. Thấy vú Nhự dịu xuống, nàng đã thôi lo sợ. Mặc cho vú Nhự loay hoay chăm sóc, nàng nằm ườn ra, nhắm mắt. Cái đau rát trên mông tuy vẫn còn, nhưng không thể dập tắt sự thỏa mãn đang tràn trề trong từng thớ thịt. Nàng tận hưởng cảm giác đó, và dần chìm vào giấc ngủ, như một đứa trẻ vừa được bú no.
©©©©©©©
Tháng 3 năm 1883, Đại tá Henri Rivière đặt chân lên miền Bắc, phần đất mà người Pháp vẫn quen gọi là xứ Tonkin. Ông phóng một cái nhìn rộng ra phía trước: từ bến cảng trở đi, những nếp nhà xác xơ buồn tẻ, con sông nước đục chảy cuồn cuộn, khiến ông thấy toàn cảnh có vẻ nhếch nhác dơ bẩn. Nhưng, tất cả những thứ lụi xụi đó lại nổi lên trên một cái nền cây cỏ xanh tươi - một màu xanh chói rực dưới ánh nắng.
“Quỷ tha ma bắt! Một vùng đất không tồi chút nào. Không nghi ngờ gì nữa, sự nghiệp của ta sẽ ghi dấu ở đây.” Henri nghĩ thầm. Như hầu hết sĩ quan, ông bị ám ảnh bởi khao khát chiến công. Ông hiểu, muốn có một chiến công tầm cỡ, cần một vùng đất đáng giá, và một cơ hội lịch sử.
Thống đốc Nam kỳ Le Myre de Viller, người cử ông đến đây đã có chỉ thị: “Nhiệm vụ của ông là tìm mọi cách kiểm soát sông Hồng, bắt hết quân Cờ Đen, nhưng không giết chúng, mà giải về Nam để tôi cho chuyển chúng ra Côn Đảo.”
Nhanh chóng, Henri cho quân chia làm hai mũi, chiếm đóng Hòn Gai và Nam Định. Quân Pháp như một gọng kềm, ép đồng bằng sông Hồng vào giữa. Lập tức, quân triều đình và quân Cờ Đen đều phản ứng, cùng rời vùng trung du tiến về Hà Nội.
- Thưa Đại tá, lệnh của thống đốc Nam kỳ là diệt Cờ Đen, nhưng phải tránh xung đột với quân của triều đình Huế. - Viên sĩ quan tham mưu nhắc Henri.
Henri nhếch một nụ cười kiêu mạn:
- Đạo đức giả. Ông ấy chỉ muốn tránh trách nhiệm, nhưng sẽ không từ chối bất cứ thứ gì chúng ta đạt được ở đây. Thực tế rất rõ ràng: quân triều đình Huế với quân Cờ Đen tuy hai mà một. Cái thành Hà Nội, hiện giờ đã thành một mối nguy hiểm trước mắt.
- Thống đốc đã dặn, chúng ta chỉ được sử dụng vũ lực trong trường hợp không thể tránh khỏi.
- Paul, tôi rất tiếc phải nhấn mạnh lần nữa: tôi chưa thấy cái gì đạo đức giả hơn bản chỉ thị vừa rồi của thống đốc. Tôi tin rằng tôi hiểu ý ông ấy hơn anh, vì vậy anh hãy tuyệt đối nghe lệnh tôi. Tên tuổi tôi - Henri dằn mạnh giọng ở tiếng “Tôi” - sẽ mãi mãi gắn liền với thành Hà Nội. - Henri vừa nói, vừa vứt cây bút trong tay xuống bàn, mặt đầy vẻ khinh mạn. Cây bút ấy, ông vừa dùng để ký vào bức tối hậu thư gửi quan tổng đốc thành Hà Nội.
Tổng đốc Hà Nội là Hoàng Diệu nhận thư, mở đọc trước tất cả quan chức dưới quyền. Bên ngoài, quân Pháp đã áp sát, hạ trại cách cổng thành chưa đầy nửa dặm.
“Hạn từ đây đến 8 giờ sáng ngày 25 tháng 4 dương lịch, phải thân hành đến doanh trại của quân viễn chinh Pháp để đầu hàng.”
Hoàng Diệu nhếch cười, mặt không đổi sắc:
- Sĩ khả sát bất khả nhục. Kẻ sĩ thà chết không chịu nhục, đời nào ta lại theo ý chúng bay.
Đúng 8 giờ lẻ một phút, súng Tây bắt đầu nổ. Chỉ hai tiếng đồng hồ sau, thành Hà Nội chỉ còn là bình địa.
Tin chiến sự từ miền Bắc truyền đến kinh đô, trong lúc Hoàng đế Tự Đức đang bệnh nặng. Trần Tiễn Thành vốn giỏi y thuật, đang hết sức đốc thúc thái y chạy chữa. Dù sức khỏe càng ngày càng kém dần, nhà vua vẫn là linh hồn của đất nước, là sự kết nối giữa các phe nhóm trong triều đình và hoàng tộc.
- Tình hình ngoài Bắc sao rồi? Hãy nói rõ cho trẫm biết! - Hoàng đế nằm trên long sàng, cất tiếng hỏi. Chung quanh ngài, mùi nhựa trắc bá và các vị thuốc khử gió tỏa ra đậm đặc.
- Tâu Hoàng thượng, việc đâu còn có đó, lúc này Hoàng thượng đang se mình, xin hãy tạm thư tâm. - Trần Tiễn Thành khuyên lơn.
- Trẫm là vua, một ngày không biết việc quốc gia, chẳng khác chi một ngày không ăn không ngủ. Sao có thể thư tâm cho được? - Hoàng đế vừa nói, vừa cố nén cơn ho rũ rượi. Đàm kéo lên chận cổ, khiến tiếng ngài nghe vừa như ra lệnh, lại vừa như năn nỉ.
Nhưng có năn nỉ, thì Trần Tiễn Thành cũng không dám hé răng. Nói dối thì mang tội khi quân. Mà nói thật thì không thể, vì ông đã hội ý với Nguyễn Văn Tường, cùng đồng tình giấu kín sự thực để tìm cách cứu bệnh cho vua.
Tiễn Thành ra rồi, Hoàng đế nằm một mình mở mắt, thở nặng nhọc. Ngài cảm thấy cô đơn, bất lực và uất ức.
- Trung Lương… - Thấy Trung Lương tiến lại gần, nhà vua gọi.
- Tâu Hoàng thượng, có thần.
- Trung Lương, trẫm chỉ còn cậy vào ngươi mà thôi. Ngươi hãy thương trẫm. Đừng để trẫm sống như mù, như điếc. Hãy nói cho trẫm biết, việc gì đang xảy ra.
- Hoàng thượng… - Trung Lương xúc động, quỳ bưng mặt nghẹn lời.
- Ngươi hãy thương ta. Hãy nói với ta.
- Tâu Hoàng thượng, hạ thần không phải đại thần, không thể biết chuyện chính sự, làm sao dám nói gì? Hạ thần chỉ nghe chuyện trong dân gian, xin biết gì tâu lại ấy ạ! - Trung Lương nghẹn ngào.
- Chuyện trong dân gian, là chuyện trẫm muốn biết nhất. Sống chết có số, mà dù có chết, trẫm cũng không muốn chết như một loài vô tri vô giác.
- Hoàng thượng…
Trung Lương nhìn ngoái ra sau, rồi nhích lại sát bên long sàng. Vua khẽ đưa tay cầm lấy tay thái giám:
- Hãy nói đi! Đừng sợ, đừng nghĩ ta là vua. Ta biết, ngươi luôn thương ta như thương một con người.
Trung Lương ghé sát tai, đọc nho nhỏ cho nhà vua nghe những câu thơ đang được chuyền tai vào đến tận kinh đô, đem theo cả không khí tang tóc, loạn ly đang ngự trị khắp thành Hà Nội…
Chương 47
Gã bồi Tây
“Giờ Thìn mồng tám tháng ba,
Hạ thành này nữa, ấy là thứ hai.”
- Vậy là, thành Hà Nội đã mất? - Hoàng đế thều thào hỏi.
- Tâu Hoàng thượng, đúng vậy!
Một vẻ đau nhói hiện ra trong đôi mắt nhà vua.
- Các quan tướng giữ thành, đối phó ra sao?
- Tâu Hoàng thượng, Tây đưa thư ép phải đến trại giặc đầu hàng. Tổng đốc Hoàng Diệu không chịu nhục quốc thể, đã cho họp hết tướng sĩ, thề sẽ chiến đấu đến cùng. Giặc dùng đại pháo bắn thành, lãnh binh Đường cho khai hỏa đáp lại, nhưng chỉ được một canh giờ thì hỏa lực ta cự lại không nổi… Dạ, thần xin đọc tiếp bài thơ:
“Quan Hoàng tổng quyết bài nhất chiến.
Lãnh binh Đường xử biến hoả công.
Đang khi súng bắn đùng đùng.
Lãnh binh, quan bố thế cùng trút ra.
Quan đốc bộ đường xa ngó thấy,
Cả tức mình vào lậy hành cung.
Rồi sau ra miếu Vũ công,
Buộc khăn tự tử vào vòng quyên sinh.”
- Vậy là Tổng đốc Hoàng Diệu đã chết theo thành? - Giọng Hoàng đế nghẹn lại.
- Tâu Hoàng thượng, đúng vậy. Thấy thế trận đã nguy, quan quân bỏ chạy tan tác, quan thủ thành Hoàng Diệu liền vào hành cung lạy vọng về kinh đô rồi thắt cổ tự vẫn, không chịu sa vào tay giặc. Lần trước có Nguyễn Tri Phương, lần này có Hoàng Diệu, cả hai đều tận trung báo quốc, đều xứng đáng mãi mãi ghi tên cùng với thành Hà Nội.
Nhà vua lặng người, thấy trong lòng bỏng rát, hai dòng nước mắt chảy xuống hai bên khóe. Trung Lương đang còn sôi nổi với những ý nghĩ về khí tiết, danh dự, nhưng nhà vua thì chỉ nghe vang lên một câu hỏi cấp thiết: “Sự thể đã đến nông nỗi này, bây giờ làm sao đây?”
Ngài ngồi bật dậy, lớn tiếng:
- Gọi Nguyễn Văn Tường cho trẫm. Trẫm phải bàn việc ngay, nhanh lên, không trễ một giây.
Vừa dứt lời, một tiếng “Ọc” vang lên trong lồng ngực, máu ứa ra trên miệng ngài, chảy thành giọt xuống chiếc áo trắng.
Trung Lương hoảng kinh bật dậy, vừa đỡ nhà vua nằm xuống, vừa kêu:
- Thái y! Mau mau, gọi thái y!
Trong khi chờ thầy thuốc, Trung Lương quỳ, lạy lia lịa, đầu dập côm cốp xuống nền gạch.
Nhà vua vừa ngậm môi cho máu khỏi rỉ, vừa đưa một tay ra, như muốn ra hiệu với người thái giám trung thành: cứ yên tâm, không phải lỗi tại ngươi.
- Thái hậu đến!
Nghe tiếng hô ngoài cửa, nhà vua cố giữ đầu ngay ngắn trên gối, mở to mắt để giữ vẻ tinh anh trên mặt. Bất giác ngài nhớ đến hồi còn nhỏ, đọc sách trong thư phòng. Mỗi lần nghe tiếng chân mẹ đến, lúc nào cậu bé Hồng Nhậm cũng lập tức ngồi ngay người lên, mặt mũi tươi tỉnh để mẹ bước vào nhìn thấy mình trong trạng thái đáng yêu nhất.
Ngày ấy mẹ mới ngoài hai mươi tuổi, trẻ đẹp dịu dàng. Thấm thoắt đã gần năm mươi năm qua, giờ mẹ ta đã ngoài bảy mươi. Lúc ấy ta là đứa bé tám tuổi được cha yêu mẹ quý, đặt vào biết bao nhiêu hy vọng. Còn bây giờ…
Thái hậu bước vào, đến bên giường. Bà cố giấu đôi mắt mờ lệ bằng cách úp mặt vào lớp chăn gấm phủ trên giường rồng.
“Mẹ…” Hoàng đế khẽ nhích tay, định nói một lời ân cần nhưng không thể. Một chút máu ứa nhẹ ra bên mép khi ngài vừa mở miệng.
Thái y đã tới, cho Hoàng đế ngậm một ít hạn liên thảo. “Tâu Hoàng thượng, xin ngài cố giữ im lặng cho được nửa canh giờ, để máu kịp cầm lại.”
Trong lúc ấy, Nguyễn Văn Tường đang trên đường vội vã vào cung.
Ngoài thềm điện Càn Thành, ba bà phi đứng đầu nội cung nghe tin Hoàng đế mệt nặng liền vội đến chầu chực, dẫn theo ba hoàng tử con nuôi: Ưng Chân, Ưng Thị, Ưng Đăng. Nhưng thái giám đã bước ra, tuyên báo rằng không một ai được phép vào điện.
“Không ai được vào? Kể cả mình?” Học phi thầm nghĩ, bất ngờ và hụt hẫng.
Dù đã có lệnh bất nhập, nhưng cả ba bà phi vẫn không ai chịu về. Ba vị hoàng tử cũng đứng sau lưng mẹ nuôi của mình, chờ đợi.
Khoảng giữa buổi, Nguyễn Văn Tường ngồi võng tới nơi. Ông bươn bả vào điện sau khi cúi đầu vái ba bà phi, không quên ngừng ánh mắt hơi lâu ở khuôn mặt buồn bã của nàng Học phi Nguyễn Thị Hương trẻ tuổi.
Bước lên thềm, Nguyễn Văn Tường không đi thẳng đến chỗ vua, mà trước hết rẽ sang mé bên phải, chỗ quan thái y đang chầu chực.
Hỏi han cặn kẽ rồi, ông mới vào tẩm điện. Mắt nhà vua sáng lên, ngài đang trông từng phút.
- Hãy nói cho trẫm biết, việc đối phó ở Hà Nội, triều đình sắp đặt sao rồi? Khanh có chước gì không?
Nghe Hoàng đế nhắc đến việc nước, Thái hậu dợm đứng lên, định bước ra. Nhưng Nguyễn Văn Tường đã ngăn lại:
- Xin Đức bà cứ ngồi. Tâu Hoàng thượng, thần nghĩ lúc này Hoàng thượng chưa nên vội bàn về Hà Nội, mà trước hết…
- Trước hết sao, khanh nói đi. - Thấy Văn Tường ngần ngừ tìm lời, vua phán.
- Tâu Hoàng thượng, xin người hãy lo định đoạt di chúc của người trước đã!
Dù đã thường xuyên nghĩ về cái chết, Hoàng đế cũng bất giác rợn người. Đúng rồi, dù Hà thành còn hay mất, ngài cũng không làm gì hơn được nữa. Mọi việc rồi sẽ phải giao cho người khác. Việc của ngài bây giờ là thu vén cho gọn gàng những gì mà không ai làm thay ngài được: lăng mộ, người mẹ, những đứa con, và quan trọng hơn hết, chiếc ngai vàng.
- Trẫm hiểu. Hãy cho gọi Thọ Xuân công và Tuy Lý công đến đây.
Thọ Xuân công Miên Định và Tuy Lý công Miên Trinh là hai bô lão uy tín của hoàng tộc. Trong ngày hôm ấy, nhà vua sắp đặt việc nhà, trước hết phong tước công cho hai hoàng tử Ưng Chân và Ưng Kỵ. Nguyễn Văn Tường khéo léo nhắc đến Ưng Đăng, nhưng nhà vua gạt đi. “Ưng Đăng còn nhỏ, tước công chưa nên bàn đến.”
Tuy sức khỏe kém đi từng phút, Hoàng đế Tự Đức vẫn đủ sự sáng suốt để nhận ra thái độ nôn nóng của Nguyễn Văn Tường. Ngài chưa nói gì về việc kế vị, chỉ dặn dò rất cặn kẽ việc nhà và việc tang lễ về sau.
“Tang lễ, lăng mộ phải làm tiết kiệm, không được trái ý trẫm. Trẫm có tội với tổ tiên, không dám thờ vào Thế miếu, trước đã nói rồi, chỉ mong quan và dân lượng thứ cho. Miếu hiệu sau này hãy đặt với chữ Tông, vì trẫm không có công to, không được xưng là Tổ như các tiên đế. Đấy là phép của người xưa, hãy theo thế mà làm.”
Đấy chỉ là bản Di chúc. Cái Tường thực sự nóng lòng chờ là tờ Di chiếu, cái tờ giấy định đoạt ai sẽ nối ngôi, và ai sẽ cầm quyền phụ chính.
Nhưng ngày hôm ấy, chỉ có thế. Tối hôm đó, khi Tôn Thất Thuyết hỏi trong lúc gặp riêng, Nguyễn Văn Tường chỉ cười nhạt: “Trước sau rồi sẽ rõ. Đằng nào Hoàng thượng cũng không qua khỏi, nhưng dù gì, ngài cũng chưa chết ngay hôm nay đâu.”
©©©©©©©©
Trong lúc ấy, doanh trại của Henri Rivière tại Hà Nội đang tràn ngập tiếng nói cười rôm rả. Viên đại tá, sau khi liều lĩnh tấn công vào thành Hà Nội, bất chấp chỉ thị của thống đốc Nam Kỳ, đã công khai bày tỏ cái triết lý hành động của mình: không quan trọng gì cái chuyện Đúng - Sai, sự thành công sẽ trả lời tất cả.
- Thủ tướng Jules Ferry từ Paris đã trực tiếp điện cho tôi, chúc mừng chiến thắng. - Henri vỗ mạnh vào ngực khi dằn giọng ở tiếng “Tôi” - Hạ viện Pháp cũng đã ủng hộ chúng ta, ủng hộ luôn việc biến An Nam thành xứ bảo hộ.
“Bravo! Bravo! Vive La France!” Các sĩ quan thuộc cấp cùng reo hò. Viên sĩ quan tham mưu đứng im lặng, đảo mắt nhìn quanh. Rivière trỏ ngón tay về phía y:
- Giá mà tôi nghe theo sự cẩn trọng của ông bạn Paul này, thì chúng ta đã mất một dịp uống sâm banh đã đời! Paul, anh không nên làm tham mưu tác chiến, anh nên đổi việc về làm một viên chức văn phòng ngoan ngoãn thì hợp với anh hơn. Làm tác chiến, là phải chấp nhận liều lĩnh, nhưng một sự liều lĩnh có tính toán, une risque calculée!
Paul không đáp, chỉ nhún vai, thận trọng nhìn chằm chằm vào những người bồi bàn bản xứ đang bưng lên những dĩa thức ăn bốc khói. “Sale cochon! Ne touche pas ton poucet à la viande!”. Thấy viên tham mưu giận dữ thốt lên, viên thông ngôn tiến lại gần người bồi:
- Anh kia, đừng thọc ngón tay cái vào miếng thịt, ông đại úy vừa tức giận mắng anh là con lợn dơ bẩn đó! - Nói đoạn, anh ta quay về phía Paul, nói bằng tiếng Pháp: - Xin ông thứ lỗi, mấy người bản xứ này không biết tiếng Tây nên không nghe thấy mệnh lệnh của ông.
Paul cười nửa miệng. Ông ta đã cố ý chửi bằng một tiếng khá nặng, để thử xem người bồi có phản ứng gì không. Bây giờ, yên tâm, ông ta quay sang Henri, tiếp tục câu chuyện:
- Đại tá! Bây giờ tôi đã quyết định, trong chiến dịch sắp tới đây, tôi sẽ luôn đồng ý với ông. Napoléon Bonaparte đã nói rất đúng, trên chiến trường, sự may mắn rất quan trọng. Đại tá thực sự là người may mắn, tôi sẽ cùng đặt cược mọi thứ với ông!
- Paul, xin anh nhớ cho, sự may mắn không phải là ngẫu nhiên. Không phải vô căn cứ mà trên bàn tay con người, đường chỉ may mắn cũng chính là đường trực giác. Về khoản trực giác bén nhạy, tôi có thể tự hào tôi là nhất. Hồi còn ở trường Bộ binh, tôi luôn thắng các cuộc chơi bài ban đêm, thắng ngon lành dù chẳng cần tính toán gì nhiều.
- Đúng vậy. Hy vọng hôm nay ván bài của chúng ta ở Sơn Tây cũng sẽ ăn ngon như vậy.
- Tất nhiên, rồi anh sẽ thấy. Chiều mai thôi, tôi hứa chắc chắn, ta lại uống sâm banh ở thành Sơn Tây!
Henri Rivière lên ngựa, cùng với Paul kéo quân đi.
Cùng lúc ấy, Nguyễn Chí đã lột bỏ chiếc mũ và bộ đồng phục bồi Tây, chàng chạy vèo vèo trên đường cái quan dẫn về chùa Thanh Đình. Về đến chùa, chàng hối hả gọi Đoàn Châu.
Lập tức, Hữu Ngạo phi ngựa đưa tin mật đến trạm liên lạc với Hoàng Tá Viêm và Lưu Vĩnh Phúc.
Sáng hôm sau, Henri Rivière kéo quân đến ngang cửa ô Cầu Giấy, chợt con ngựa hí lên, chùn lại không chịu đi nữa. Ông quất mạnh roi, thúc ép con vật tiến bước. Paul đi bên cạnh, thận trọng nhìn quanh. “Đại tá! Hãy cẩn thận. Đây chính là nơi ngày trước Francis Garnier bị phục kích!”
“Tiến lên! Ta sẽ phục thù cho ông ấy!” Henri ngạo nghễ quát to.
Vừa lúc đó một đoàn người lăm lăm giáo mác hiện ra từ sau những lùm cây rậm rạp.
“Bắn!” Heri Rivière quát to. Quân Pháp khom người, nhắm bắn. Nhưng khoảng cách đã quá gần, và quân phục kích quá đông. Mấy tiếng đạn lẻ tẻ vang lên rồi im, thế trận chuyển sang cận chiến. Tốp lính Pháp gần như bị nhận chìm trong đoàn quân Cờ Đen hung bạo.
Một chiếc câu liêm móc vào chân ngựa của Henri, giật mạnh. Ngựa té, hất người cỡi văng nhào xuống đất. Henri đang còn lồm cồm ngồi dậy, một ánh thép đã lóe lên, chiếc đầu đẹp đẽ uy nghi của đại tá đã lìa khỏi cổ.
Đại úy Paul không khỏi hãi hùng, ông ta hét lên một tiếng, cũng đúng lúc ngựa bị giật quỵ. Paul té sấp, bị quân Cờ Đen xông lên, dùng gươm giáo bằm nát như tương.
Quân của triều đình cũng vừa kéo đến. Nguyễn Chí cỡi ngựa dẫn đường. Từ xa, chàng đã thấy đám người dồn vào nhau, trông như một đám ong đen kịt. Hoàng Tá Viêm thúc ngựa vọt lên, buột miệng:
- Ái chà, lần này tụi Chệt lại tranh công của ta nữa rồi, nhìn kìa!
Chí nhìn, thấy rõ hai ba cái đầu bê bết máu đã được xiên vào đầu cọc nhọn, vừa giỏng cao lên trên đám đông. Đám lính Tây khiếp hãi, bỏ chạy tứ tán. Quân Cờ Đen đang rượt theo, túm lấy từng người, vùi xuống dưới một cơn mưa gươm giáo. Tiếng hò la say máu ngất trời.
Quân triều đình xô tới, tiếp tay truy đuổi. Toàn bộ lính Pháp bị giết sạch, xác phơi ngang ngửa nghẹt cả đường đi. Tướng Lưu Vĩnh Phúc vẫy tay, hô lên mấy tiếng. Đang sục sạo lột giày, lột mũ từ các xác chết, lính Cờ Đen lập tức dừng lại, đứng nghiêm tăm tắp.
Tá Viêm thúc ngựa tiến ra chính giữa, nghiêm trang:
- Tướng giặc đã đền tội. Cảm tạ các vị, các vị đã giúp chúng tôi trả thù cho Tổng đốc Hoàng Diệu. Chiến công này sẽ được tưởng thưởng xứng đáng.
Nghe tới mấy chữ “tưởng thưởng xứng đáng”, viên thủ lĩnh quay ra sau, nói một tràng tiếng Tàu. Cả đoàn quân Cờ Đen reo vui vang dội.
Chí nhìn lại bãi cỏ nhàu nát tanh máu sau lưng. Cái xác không đầu của Rivière nổi bật lên giữa đám xác người vì chiếc áo sĩ quan chỉ huy màu đỏ. Chiếc áo không bị lột mất là vì nó đã rách bươm dưới hàng chục nhát mã tấu. Đôi bàn chân của đại tá thò ra, trần trụi, đôi ủng da đã biến mất.
Sau trận đánh, về lại chùa Thanh Đình, chàng giật mình. Một đôi ủng da nằm trong góc nhà ngang.
- Đôi ủng của Henri Rivière. - Chí thốt lên.
- Hữu Ngạo vừa đem về đó! Vừa y chân của cháu. - Đoàn Châu thản nhiên bảo.
Chí nhìn Châu, ngỡ ngàng. Nàng có vẻ y như vừa dẫn đứa cháu đi sắm giày ở một cửa tiệm nào đó trên phố Hàng Da.
Nàng đặt mâm lên bàn, xới cơm vào bát gỗ đàn. “Anh ăn đi, ăn trước kẻo đói. Hữu Ngạo còn đi mấy việc, chưa về ngay đâu.”
Cơm hôm nay rất ngon, có món giả cầy là món ngon miền Bắc mà Châu đã quen nấu qua mấy mươi năm ở đây. Nhưng Chí chỉ ăn được mấy miếng. Châu ân cần gắp thêm vào bát. Chàng lắc đầu, bảo Châu:
- Khi quyết định ở với Cờ Đen, Hữu Ngạo đã hứa với anh, dù ở gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Anh muốn đưa cháu đi khỏi nơi đây… Và cả em nữa.
Đoàn Châu thông minh, nàng hiểu ngay.
- Đi đâu? Về xóm Đạo Nước Nhỉ? Trồng rau, nuôi ong? Em ngậm hờn nuốt tủi, bôi mặt giả danh mấy mươi năm, chẳng lẽ cuối cùng lại bỏ hết?
- Vậy em muốn gì? Muốn Hữu Ngạo trở thành Lưu Vĩnh Phúc sao?
- Thì đã sao? Nếu hắn trở thành Lưu Vĩnh Phúc thì ta đã không phải phụ thuộc vào Lưu Vĩnh Phúc của Tàu! Trong lúc đánh nhau, quả đấm nào cũng là tốt cả. Anh đừng nói là anh không biết, quân triều đình bây giờ tệ lắm rồi, thấy Tây là chạy!
- Đúng vậy. Lính Nam triều không dám đương cự với súng ống của Tây, vì họ yếu, họ không đủ khí giới, không ai muốn cái chết chắc chắn. Ham sống, âu cũng là bản tính của con người! Chỉ có quân Cờ Đen, chúng được thúc đẩy bởi lòng tham, nên mới quên cả tính mạng, sức mạnh của chúng ở đó. Sự xấu ác bao giờ cũng có sức mạnh tàn bạo, nhưng đừng quên, nọc độc của xấu ác sẽ tai hại đến muôn đời!
- Dở hơi! Đã cầm gươm còn sợ ác sao?
Đoàn Châu tức giận quát to. Chí giật mình, vì chưa từng thấy nàng như vậy. Chàng vụt nhớ lại lời Nguyễn Văn Tường: “Ngươi không muốn chém giết, vậy ngươi học kiếm thuật để làm gì?”
Bất giác Chí hiểu, sự khác biệt về cách nghĩ có thể đẩy những người vốn thương mến nhau đến chỗ xa nhau mãi mãi. Chàng im lặng chống đũa nhìn mâm cơm một lúc, rồi bảo:
- Vậy anh đi đây. Anh em mình chẳng nên cãi nhau, chẳng được việc gì, chỉ tổn hại tình thân.
Đoàn Châu dịu nét mặt, vẻ buồn lộ hẳn trên đôi mắt. Nàng không giữ Chí lại như lần trước, chỉ lẳng lặng vào trong lấy ra một gói nhỏ vuông vức, đặt trước mặt Chí.
- Gì vậy em?
- Đây là số vàng thưởng công mà Đại tướng Hoàng Tá Viêm cho người đưa đến. Còn đây là tấm thẻ ghi công. Nhờ nguồn tin của anh mà ta giết được giặc, giữ được Sơn Tây. Số vàng này là của anh. Anh hãy giữ lấy.
- Vàng? Thứ này thật đáng giá, mà em trao cho anh cũng đúng lúc lắm.
Chí đứng dậy, cầm lấy tay nải trong góc nhà. Chàng lấy cái mũ bồi Tây ra, vứt vào một góc, rồi cầm thanh kiếm đang dựng bên tường tra vào vỏ.
- Nói đùa đấy, em hãy giữ lấy số vàng. Anh không dám chê, anh biết mình xứng đáng được hưởng. Nhưng có lẽ không nhận là tốt hơn. Chỉ tấm thẻ này là đủ lắm rồi. Thôi, anh đi đây!
Đoàn Châu nhìn theo Chí, mãi cho đến khi bóng chàng khuất sau góc phố hoang tàn.
Chí lầm lũi đi. Mãi khi đến truớc khúc quanh rẽ vào Nam, chàng ngẩng lên, giật mình: một bức hình treo trên thân cây đa cổ thụ.
Đó chính là hình của chàng, kèm theo lời ghi chú bằng chữ Hán viết sai hầu hết nét:
“Ai bắt được tội phạm này, hãy đưa đến đồn Tây, sẽ được thưởng một trăm quan tiền”.
Chí nhìn lui, thấy nhiều người nhìn mình, chỉ chỏ, bàn bạc.
Vàng, tiền, vàng, tiền. Những con số xoắn xuýt lấy nhau, đang chi phối tâm trí những con người túng thiếu, đói khát và hầu như chẳng còn hướng sống, trong một thời cực kỳ tao loạn.
Nhanh như cắt, chàng phi thân lên nóc nhà gần đó, rẽ vào những con ngõ rối rắm của phố cổ, tẩu thoát.
Có tiếng chân chạy theo. Chí càng chạy nhanh, tiếng chân càng bám theo bén gót. Đến một góc phố hẹp, Chí quay lại, rút kiếm, sẵn sàng chống cự.
- Thầy! Con đây mà! Con đây!
Chí hạ thấp thanh gươm. “Hữu Ngạo, con theo ta làm gì nữa?”
- Sống chết con cũng theo thầy. Con sẽ nghe lời thầy, không ở lại chùa Thanh Đình nữa.
- Con theo thầy… Thật sao? - Chí xúc động.
- Dạ! Nhưng giặc Tây đã yết thị bắt thầy, chúng lại đang chiếm đóng toàn tỉnh Nam Định, lục soát rất dữ. Thầy không thể về Nam được đâu! Xin thầy nghe con, thầy trò ta sẽ cùng đến một nơi khác. Không ở với Cờ Đen nữa, nhưng ta vẫn tiếp tục đánh Tây…
Chương 48
Ảo tượng trước long sàng
Cái chết của Henri Rivière làm chấn động cả thủ đô Paris. Những cái xác đẫm máu tan nát bị lột hầu hết chỉ còn lại đồ lót, mấy chục cái đầu xuyên xóc trên cọc nhọn, được ướp vào thùng muối rồi bị đám đông đưa đi diễu khắp các phố phường Hà Nội… Những hình ảnh ghê rợn ấy được vẽ lại qua những bức tranh chì, đưa ra trình bày trước phiên họp của nghị viện Pháp.
Thủ tướng Jules Ferry kêu gọi phục thù. Ông nhanh chóng được tán thành: Năm triệu rưỡi quan Pháp đã được nghị viện thông qua, chuẩn bị cho một cuộc chiến quy mô ở Viễn Đông.
Ở kinh đô, triều đình Huế không nắm được những tin tức ấy. Hoàng đế Tự Đức, trên giường bệnh, vẫn hy vọng lịch sử sẽ tái diễn những bước đi của mười năm về trước, khi thành Hà Nội lần đầu thất thủ. Nguyễn Văn Tường lại được phái vào Sài Gòn đàm phán với Pháp súy.
Tôn Thất Thuyết cực lực phản đối, ông nói với Tường:
- Đàm phán chi vô ích! Giờ này chỉ có đánh mà thôi! Ở miền Bắc vừa chém được tướng giặc, sĩ dân đang vô cùng phấn chấn. Ở miền Trung, việc chuẩn bị căn cứ ở Tân Sở đã tạm ổn, tiến lùi hai ngả đều không lo. Thời cơ của việc lớn là đây, còn đợi đến khi nào nữa?
Nguyễn Văn Tường vẫn điềm đạm. Ông biết, đối phó với ngọn lửa khi nào cũng cháy bùng bùng này, phải mềm mại linh động như nước mới được:
- Cơ sở ở Tân Sở, Thành Hóa là do ta đích thân gây dựng theo lệnh Tuy Thạnh Quận công Trương Đăng Quế, từ nhiều năm lắm rồi. Ta biết rõ tình hình ở đó lắm. Ngày trước, khi Lào còn thuộc Xiêm La bảo hộ, thì chỗ đó là căn cứ rất vững chắc cho ta. Nhưng mấy năm nay, người Pháp đã nhắm nhía đất Lào, đường sông Mekong bị chúng lấy cớ thám hiểm lên xuống luôn luôn. Vì vậy Tân Sở cũng chỉ là căn cứ tạm thời, không thể là chỗ dựa lâu dài được! Lâu nay giảm bớt việc chuyển vật tư, kho tàng lên đó là vì vậy!
Thuyết phản bác:
- Nhìn xa thì tốt, nhưng nhìn xa quá, e là chẳng làm chi được, rốt lại tự bó tay mình. Lào hiện nay vẫn là mảnh đất hỗn quân hỗn quan, người Xiêm người Pháp tranh giành ảnh hưởng, chắc gì mỉu nào cắn được mỉu nào. Khoan nói đến việc Tân Sở, hãy nói chiến cuộc ở nước ta. Việc binh quý ở thần tốc. Hiện giờ khí thế đang thịnh, ta rất nên lúc này nhất tề nổi dậy mà đánh một trận khắp Bắc Trung, nếu thuận lòng Trời thì quân nghĩa trong miền Nam tất sẽ hưởng ứng. Thuyết tin chắc như vậy!
- Quan Tướng xuất phát từ tấm lòng bồng bột yêu nước, ta rất thuận tình. Vậy đi chuyến này vào Nam ta sẽ xem xét tình hình sĩ dân trong ấy, rồi sẽ bàn định.
Nguyễn Văn Tường nói vậy, cốt để khỏi tổn thương nhuệ khí của người bạn tâm huyết, chứ lâu nay ông cũng biết tình hình trong Nam: Sài Gòn đang phát triển, nhà cửa dinh thự của người Pháp đang mọc lên, và tuy danh nghĩa là bị nô lệ nhưng người thường dân lại sinh sống làm ăn dễ hơn so với ngày trước. Tệ hơn thế nữa, cộng đồng Hoa kiều ở Chợ Lớn - những người nắm hết kinh tế của miền Nam - đã quay ra bắt tay với giới chức Pháp. Trong cái thế càng ngày càng mạnh, người Pháp đã dồn hầu hết những lãnh tụ chống Tây từ thời Nguyễn Tri Phương vào các bưng biền rồi cuối cùng tiêu diệt: Trương Định, Nguyễn Trung Trực cuối cùng đều đã chết, người trên chiến trường, người trên máy chém.
“Tâu Hoàng thượng, thần đi chuyến này, sẽ hết sức cố gắng, mong sao lại thành công như lần trước.” Nguyễn Văn Tường tâu vua trước giường bệnh, trước khi lên đường. Vua Tự Đức chỉ còn sức để khẽ gật đầu, hai mắt vẫn lấp lánh hy vọng.
Nhưng hy vọng ấy đã lịm tắt. Cái chết của Henri Rivière không khác gì cái chết của Garnier mười năm trước, nhưng tình huống năm nay rất khác năm xưa. Năm xưa, người Pháp đang tìm mọi cách tránh né một cuộc chiến tốn kém ở Bắc kỳ, vì vậy mới có Philastre xuất hiện sánh vai với Nguyễn Văn Tường trong màn diễn tương thân tương ái Pháp - Nam. Còn bây giờ, người Pháp đang nóng lòng muốn áp đặt cả nước Nam làm xứ bảo hộ, hòng tránh khỏi sự nhòm ngó của Anh, của Tây Ban Nha và cả của nước Trung Hoa tuy đang sứt mẻ tơi bời nhưng vẫn không từ bỏ tham vọng bá chủ…
Sự gây hấn của Henri Rivière thật đúng lúc, và cái chết của ông ta cũng rất đúng lúc.
Cùng ngày Nguyễn Văn Tường trắng tay về Kinh, Khâm sứ Rheinart đến thăm Hồng Hưu tại công phủ Gia Hưng.
Hồng Hưu theo phép đã định, tiếp Rheinart cùng người thông ngôn trong nhà khách ngay trước chính đường.
- Tôi được biết hai vị hoàng thúc lớn tuổi, Thọ Xuân công và Tuy Lý công, chỉ đứng đầu Tôn Nhân phủ trên danh nghĩa. Chính ngài mới là người quyết định mọi việc trong hoàng tộc? - Rheinart hỏi.
- Vâng, đúng như vậy, tôi và em của tôi, Hồng Dật.
Như định lệ, nhà khách của các thân công đều làm theo kiểu lập phương tứ diện, bốn bề chỉ có cột lim chạm trổ chứ không có vách che. Mọi giao dịch trong đó đều không thể nào bí mật. Hồng Hưu thận trọng, ông trả lời hết sức vắn tắt, để tránh khỏi bị thông ngôn dịch sai ý.
- Vậy ngài nghĩ thế nào về việc một vài vị trong hoàng tộc đã mộ người, tuyển quân, tích trữ vũ khí để chuẩn bị đánh lại người Pháp, ngay ở kinh thành này?
- Ai? Rất tiếc, tôi vẫn chưa được biết.
- Vậy tôi sẽ nói cho ngài biết. Đó là Phò mã Đặng Huy Cát, chồng của công chúa Huệ Phố và con trai ông ấy. Đó là Kỳ nội hầu Hồng Chuyên, đang cùng với Huy Cát mộ quân để gây rối ở kinh thành. Ngài biết đó, theo tinh thần hòa ước 1874 mà ông Quận công Nguyễn Văn Tường đã ký, thì Pháp - Nam hai nước chung sống đề huề, cùng làm lợi cho nhau. Sao có thể chấp nhận những chuyện như vậy?
Hồng Hưu nín lặng vài giây. Những việc Rheinart vừa nêu, thật ra ông cũng biết. Đấy là những hoạt động mà Tôn Thất Thuyết đã tổ chức, với ý định chuẩn bị bạo động. Mỗi lần nói chuyện với Hồng Dật, ông vẫn cực lực phản đối những dự tính của Thuyết, mà ông cho là manh động, cảm tính. Nhưng lúc này, đối diện với Rheinart, ông không muốn nói vậy.
- Có thể đấy chỉ là tin đồn. Ngài khâm sứ hãy nhìn trên thực tế, có hoạt động nào tổn thương đến quân đội của ngài đâu?
Rheinart cười, ngả hẳn người dựa vào tựa ghế:
- Vâng. Đúng thế. Họ chẳng có cách gì động đến người Pháp, tôi biết. Họ chỉ biết một cách để chống chúng tôi, đó là tàn sát những người giáo dân vô tội. Họ đẩy những người Việt có Đạo về phía chúng tôi, và bằng cách đó, càng chống chúng tôi họ làm chúng tôi càng mạnh thêm.
Hồng Hưu im lặng, trong lòng cảm thấy tổn thương sâu sắc. Dù sao, về điểm này, ông nghĩ Rheinart nói đúng.
Rheinart bỗng ngồi thẳng lên, nhìn xoáy vào mắt Hồng Hưu:
- Xin hỏi ngài, sức khỏe của đương kim Hoàng thượng hiện ra sao?
Hồng Hưu cũng nhìn thẳng vào mắt Rheinart:
- Sức khỏe của Hoàng thượng là một điều cơ mật. Tôi không thể nói với ngài. Tuy vậy, tôi nghĩ rằng ngài cũng biết rõ rồi.
Rheinart cảm thấy hài lòng với câu trả lời của Hồng Hưu.
- Thưa ngài, tôi biết rõ, nay mai Hoàng đế Đại Nam sẽ băng hà. Trong mắt tôi, trong hoàng tộc hiện nay, không ai xứng đáng với ngai vua hơn là ngài. Ngài nghĩ sao nếu tôi và nước Đại Pháp ủng hộ ngài vào vị trí ấy?
Câu nói của Rheinart như một tiếng sét nổ, nó đánh vào chỗ nhạy cảm nhất: khát vọng quyền lực. Viên quan Pháp biết rõ, khát vọng ấy thường trực trong tâm hồn hầu hết đàn ông, trong mọi hoàn cảnh mọi địa vị, ngay cả khi họ sắp tắt hơi, hay thế giới sắp sụp đổ.
Nhưng Hồng Hưu không phải người nông cạn. Với vẻ đề phòng, ông chỉ trả lời Rheinart một cách chừng mực:
- Hoàng thượng là chí tôn, và ai kế thừa ngôi vị của ngài, chỉ do một mình ngài quyết định mà thôi.
©©©©©©
Trong hoàng cung, những giờ phút cuối của Hoàng đế đã đến.
Hai hôm nay, thái y phải khó khăn lắm mới bắt được mạch cho ngài. “Tâu Đức bà, bệnh đã khống chế hoàn toàn hai huyệt Cao và Hoang, ngu thần đau lòng không còn thuốc gì để dâng lên được nữa.” Viên thái y khom mình, nghẹn lời.
Thái hậu lảo đảo bước vào tẩm điện. Hoàng đế mở mắt, gắng gượng mỉm cười:
- Mẹ… Con không lo cho mẹ được trọn đời rồi…
Thái hậu nắm tay con, không nói. Nước mắt cứ vậy lặng lẽ rơi xuống trên đôi má già nua.
Hoàng đế cảm nhận nỗi đau đang xé ruột mẹ mình. Bất chợt hình ảnh thời thơ ấu trong phủ Trường Khánh ngày xưa bỗng hiện ra. Tiếng cười, tiếng thưa gửi dạy dỗ, bao nhiêu âm thanh hạnh phúc giờ đây đã xa, xa lắm. Nhà vua chợt nghĩ thầm: “Kiếp sau biết ta có gặp người mẹ này nữa hay không?”
Cố cầm lòng, ngài nói với Thái hậu:
- Thường ngày mẹ con ta nương nhau mà sống, nay con ra đi, không được tống chung cho mẹ là con đại bất hiếu. Việc chăm sóc tuổi già của mẹ, con đã dặn dò rất kỹ trong di chúc rồi. Giờ còn việc lớn triều đình, xin mẹ cầm lòng, cho con tròn một phần việc cuối.
Nói rồi Hoàng đế đưa tay ra hiệu. Trung Lương liền mở ngăn tủ bí mật trong vách tường nội tẩm. Bên trong là một ống đồng chạm rồng. Kính cẩn, Trung Lương hai tay bưng ống đem ra.
Ngoài cửa vang lên tiếng hô:
- Hoàng thượng tuyên triệu: Hoàng trưởng tử bệ kiến!
Đang đứng sau lưng Hoàng quý phi ở dưới thềm, Ưng Chân giật nẩy mình, vội vã bước lên.
- Hoàng thượng tuyên triệu: Các vị thân công đại diện Tôn Nhân phủ!
Các tôn thất của Tôn Nhân phủ: Miên Định, Miên Trinh, Hồng Hưu, Hồng Dật bước lên theo Ưng Chân.
- Hoàng thượng tuyên triệu: Ba vị đại thần theo thứ tự: Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết bệ kiến!
Ba vị đại thần xốc áo tiến lên. Nguyễn Văn Tường hơi cau mày vì thấy tên Trần Tiễn Thành được xướng trước. Tuy Thành lớn tuổi hơn, thâm niên dự triều cũng nhiều hơn, nhưng do lâu nay Tường được vua tín cẩn thường xuyên gần gũi, nên Tường vẫn nghĩ mình là số một.
- Hoàng thượng tuyên triệu: Các quan Cơ mật đã nhận lệnh vào bệ kiến!
Phan Đình Bình, Phạm Thận Duật và một số triều thần lần lượt bước vào. Họ là những người sẽ chứng kiến cuộc chuyển giao quyền lực này.
Trung Lương mở ống đồng, rút di chiếu ra, tuyên đọc:
“Ưng Chân, cố nhiên là học lâu trưởng thành, chính danh đã lâu, nhưng mặt hơi có tật, giấu kín không rõ ràng, sợ sau không sáng, tính lại hiếu dâm, cũng rất là không tốt, chưa chắc đương nổi việc lớn. Nhưng nước cần có vua nhiều tuổi, đương lúc khó khăn này, không dùng hắn thì dùng ai?Sau khi trẫm muôn tuổi, cho Hoàng tử Thuỵ quốc công Ưng Chân nối nghiệp lớn, lên ngôi Hoàng đế.
… Tấn tôn Hoàng Thái hậu làm Từ Dụ Thái hoàng Thái hậu, ngõ hầu muôn phần trẫm báo ơn được một phần. Tôn Trung phi làm Hoàng Thái hậu, coi việc bên trong, dạy bảo vua nối ngôi... Gia pháp bản triều rất nghiêm, từ trước không cho phép hậu phi tham dự vào việc triều chính.”
Trung Lương ngừng lại một giây lấy hơi. Lúc này, Hoàng trưởng tử Ưng Chân đã lạy phục xuống, đầu dập sát đất tạ ơn.
Viên thái giám đọc tiếp:
“… cho Trần Tiễn Thành làm Phụ chính đại thần.”
Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết khẽ đưa mắt nhìn nhau.
“Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết sung cùng là Phụ chính đại thần. Bọn ngươi nên nghiêm sắc mặt đứng ở triều đình, giữ mình đứng đắn, đốc suất quan thuộc, mọi việc cùng lòng làm cho thoả đáng.”
Bản di chiếu đọc xong, tất cả đều lạy khóc vâng mệnh.
“Vậy là ta lại đứng sau lão họ Trần. Chẳng biết Hoàng thượng nghĩ gì?” Nguyễn Văn Tường vừa lạy vừa nghĩ thầm trong bụng.
Trong lúc ấy, Hồng Hưu đang nhớ đến lời nói của Rheinart. “Hắn thừa biết Hoàng thượng sẽ truyền ngôi cho Ưng Chân. Lâu nay hắn vẫn thường cầu thân với hoàng trưởng tử, tặng biếu quà cáp rất nhiều. Vậy sao hắn lại nói sẽ ủng hộ ta lên ngôi? Thằng đểu này muốn dùng một con dao hai lưỡi để ly gián chúng ta chăng?”
Trên long sàng, Hoàng đế khẽ buông một tiếng thở dài. Giờ đây ngài đã xong hết mọi việc, không còn gì phải lo nghĩ ở thế gian.
“Tâu Hoàng thượng, tiểu thần mời các hoàng thân và các quan lui ra được chưa ạ?” Trung Lương ghé sát thầm thì.
Nhà vua nhắm mắt, khẽ gật đầu.
Mọi người tuần tự lui ra. Lúc bấy giờ các phi mới được nối nhau vào thăm vua lần chót.
Học phi Nguyễn Thị Hương nấn ná lại sau cùng, nàng nghẹn ngào, bịn rịn vịn vào tấm chăn gấm phủ trên thân hình mỏng tanh của Hoàng đế.
Cho đến lúc tuyên đọc xong di chiếu, Hoàng đế vẫn còn tỉnh táo. Nhưng chỉ mấy giây sau, ngài chìm vào trạng thái ảo giác, mọi thứ đều lấp lóa như sương. Lúc này, ngài thấy một nàng tiên hiện ra trước long sàng, nhẹ nhàng chạm vào thân thể suy kiệt của mình. Hình ảnh ấy chói lóa quá, nên ngài khẽ nhắm mắt lại: dù ngài đã nhắm mắt, nàng vẫn có đó, tỏa sáng bên trong mi mắt khép kín.
Bất giác Học phi bật lên một tiếng nức nở.
“Ấy chết, xin lệnh bà cầm lòng. Giờ chưa phải lúc.” Trung Lương hoảng hốt ngăn lại.
Học phi đành loạng choạng bước ra, xuống thềm. Hoàng tử Ưng Đăng đang chờ, vội đến bên, vừa đỡ vừa kéo nàng đi:
- Xin mẫu phi về cung. Cứ về cung riêng, rồi muốn khóc hãy thỏa sức khóc!
Đêm ấy Hoàng đế băng hà. Nghe hiệu trống ba hồi chín tiếng vang lên trên lầu Ngũ Phụng, tất cả mọi người trong hoàng cung đồng loạt cất tiếng khóc to. Trong đêm vắng lặng, tiếng khóc vang vọng tới mọi ngõ ngách trong kinh thành.
Người dân Phú Xuân tỉnh giấc giữa đêm, trong lòng hoang mang cùng cực. Giá gạo đang tăng, hạn hán còn kéo dài, tàu Tây đang hăm dọa ngoài biển Đông.
Và bây giờ, Hoàng đế, điểm tựa cho lòng trung và niềm tin của sĩ dân cũng đã mất.
Chương 49
Ai mới là người sửa di chiếu?
Đêm Hoàng đế Tự Đức lìa trần, cũng là đêm Rheinart thức đến khuya cặm cụi viết một lá thư gửi súy phủ Nam kỳ. Theo ông, vua tôi nước An Nam đang có những động thái muốn vươn ra ngoài tầm ảnh hưởng của Pháp. Nhiều bằng chứng cho thấy họ đã tìm cách liên lạc với Anh Cát Lợi và Hoa Kỳ. Bởi vậy, nếu không nhanh tay vặt hết lông cánh của con chim, thì nó sẽ bay vuột đi.
“Và tôi tin, tôi bảo đảm với ngài, muốn nhanh chóng thiết lập chế độ bảo hộ, thì vấn đề phải được giải quyết bằng một nắm đấm ở ngay kinh đô này, chứ không phải sa lầy vào một cuộc chiến càng lúc càng lằng nhằng ở xứ Bắc.” Rheinart nhấn mạnh trong thư.
Trong khi chờ phúc đáp từ Pháp súy Sài Gòn, Rheinart chú mục vào động tĩnh bên trong hoàng cung. Cung điện của Hoàng đế trước nay vẫn là một thế giới đóng kín đầy bí mật; vậy nhưng, với nghiệp vụ tình báo lúc ấy đã phát triển ở châu Âu, Rheinart không quá khó khăn để lấy được tin tức từ một vài thái giám và cung nữ trong hoàng thành.
Theo tục lệ từ các triều trước, vua mới phải được đăng quang, rồi mới phát tang vua cũ. Đến ngày đăng quang vẫn còn phải mặc áo màu, nên đội ngự phục chưa vội dâng đồ tang.
Dù vậy, không ai bảo ai, đều mặc những màu sẫm buồn. Bởi thế trong ngày Hoàng trưởng tử Ưng Chân - nay được gọi là Tự quân, nghĩa là vị vua chuẩn bị lên ngôi - dọn vào điện Hoàng Phước chờ lễ tấn tôn, cái áo dài ngũ thân màu lục của chàng nổi bật lên như đập vào mắt mọi người. Nguyên cơ họ Phan thấy vậy, rụt rè nhắc chồng:
- Tâu, xin ngài thận trọng! Trước kia nhà ta ở Dục Đức đường, muốn làm gì tùy ý. Nay dọn vào cung, mười mắt trông vào, thiếp lo lắm!
Tuy chưa đăng quang, chưa xưng Trẫm, nhưng Ưng Chân đã được thê thiếp và người hầu dùng tiếng “Tâu” thay cho tiếng “Bẩm” thường ngày. Chưa dám gọi tiếng Hoàng thượng, cũng không thể gọi “Đức ông” như trước, nên nguyên cơ chỉ gọi chồng bằng “ngài”, một tiếng xưng hô đúng cho mọi trường hợp. Quả thật cái buổi giao thời này, thật là lúng túng.
Nghe vợ nhắc, Ưng Chân cau mày:
- Mặc áo màu gì mà chẳng được, chưa phát tang thì chưa mặc áo tang, có gì mà thắc mắc.
- Dạ, mới bước đầu vào cung, mình phải ngó chừng mới được. Khi an lành thì không sao. Khi lỡ có sóng gió, thì cái tóc cũng thành cái tội. Xin ngài thay áo màu nhu, kẻo người trong cung đàm tiếu, lỡ tới tai bề trên lại bị quở.
Ưng Chân thấy thương vợ. Chàng nhớ tới những lời khuyên nhủ mà Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên đã ra rả nhắc đi nhắc lại suốt mười mấy năm qua. Cũng như mẹ nuôi chàng, vợ chàng thật tội nghiệp, những người đàn bà suốt đời sống rón rén sợ hãi.
- Nàng cứ yên lòng, đừng lo lắng! Ngày một ngày hai nữa thôi ta sẽ là vua, còn ai là bề trên ta nữa? Sau này ta làm vua, sẽ cho nàng được sung sướng cả đời. Dù có trăm ngàn cung phi mỹ nữ đi nữa, thì nàng cũng làm chủ nội cung, ở ngôi mẫu nghi thiên hạ.
Nguyên cơ chỉ đáp lời chồng bằng một nụ cười hồ nghi. Nàng đã quen nghe những lời ấm áp ngọt ngào của vị hoàng tử trẻ tuổi. Từ nhỏ đã được dạy dỗ rằng tính ghen là một trong mười điều khiến người vợ bị xem là “ác phụ”, nên ở địa vị chánh thê nàng phải nhẫn nhịn rất nhiều: Ưng Chân rất đào hoa, thấy giai nhân nào cũng muốn rước về trong phủ.
Khi còn sống, Hoàng đế Tự Đức thường quở trách thói mê gái của hoàng trưởng tử. Vốn không mấy thành công trong phòng the, nên cái nam tính quá tự tin và lộ liễu của Ưng Chân làm cho ngài cảm thấy rất khó chịu. Cũng tưởng chỉ là chuyện cha rầy con trong phạm vi riêng tư, ai ngờ ngài đưa luôn vào di chiếu: “Tính lại hiếu dâm, rất là không tốt.”
Một câu như vậy, mà nay mai lại tuyên đọc trong lễ đăng quang, trước bá quan văn võ thì thật là bất tiện.
“Hừ, hiếu dâm thì có gì không tốt? Ta đâu có chơi bời trác táng ở kỹ viện lầu xanh bao giờ đâu. Chẳng qua nạp thiếp hơi nhiều, nhưng đã thấm gì so với tiên đế Minh Mạng nạp phi ngày trước? Ngài Minh Mạng còn nổi tiếng là “Nhất dạ ngũ giao tam hữu dựng”, một đêm ngủ với năm bà, thì ba bà có bầu. Vậy mà ngài vẫn làm vua tài giỏi đó thôi, có hề hấn chi?” Ưng Chân hậm hực nhủ thầm.
Đêm trước lễ tấn tôn, ba vị đại thần Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết vào gặp Tự quân bàn việc. Ưng Chân liền đem nỗi ưu tư ra thổ lộ:
- Ta nghĩ nên bớt một đoạn ấy đi, thì cũng chẳng hại gì đến ý chính của di chiếu. Ba vị nghĩ sao?
Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường cùng hướng mắt về Trần Tiễn Thành, vì ông là người đứng đầu ban phụ chính. Tiễn Thành suy nghĩ một lúc. Kể thì cũng đúng. Cái ý quan trọng nhất trong di chiếu, chính là chỗ tiên đế để lại ngôi báu cho ai, ai là phụ chính đại thần. Còn những câu chữ có thể làm tổn thương đến thể diện, thì cũng bất tất phải tuyên đọc. Dù sao, chẳng nên làm tổn thương bất cứ ai, dù một người bình thường, huống chi là một ông vua.
Ông cẩn thận quay sang hỏi ý kiến từng vị phụ chính:
- Theo lão phu thì Tiên đế cho rằng Tự quân còn trẻ, sợ rằng đắc chí ngông nghênh, nên mới hạ bút viết mấy câu này để người cẩn thận biết chỗ bất cập mà tự răn mình, nghe lời can gián. Những câu này đã tuyên đọc hai lần, một lần trước long sàng, một lần ở điện Cần Chánh, trước hoàng tộc và toàn thể Viện Cơ mật. Lần này đọc trong lễ lên ngôi trước trăm quan, lão phu nghĩ có lẽ giảm bớt một chút cũng không sao. Hai vị có ý kiến gì khác không?
- Việc này, xin cứ theo ý Tự quân. - Nguyễn Văn Tường nói, khẽ liếc nhìn Tôn Thất Thuyết.
- Xin Tự quân cứ quyết định. - Thuyết cũng nói y như Tường.
Ưng Chân thở phào. Vậy là nỗi ưu tư canh cánh suốt hai hôm nay đã được trút bỏ.
©©©©©©©
Sáng sớm ngày Bính Dần, Thái hậu Từ Dụ cùng các hậu phi tề tựu ở điện Càn Thành, dâng cơm cúng trước linh cữu tiên đế Tự Đức.
Trong lúc ấy, ngoài điện lớn Thái Hòa, trăm quan tề tựu, áo bào, trâm hốt nghiêm chỉnh, cùng dự lễ tấn tôn vua trẻ.
Trên bệ, chiếc ngai vàng vẫn còn để trống. Trên ngai, tấm áo hoàng bào thêu rồng và chiếc mũ triều thiên đính mười chín tua kết hạt trân châu được đặt lên, tượng trưng cho đế quyền mà tiên đế để lại.
Tiếng đại nhạc vang rền khúc Tam Luân Cửu Chuyển, trong khi Ưng Chân mình mặc áo đoạn đen, từ dưới bệ tiến lên, đối diện với ngai vàng.
Chàng lấy dáng vẻ tôn nghiêm, từ từ quỳ xuống chờ nghe di chiếu. Mặc dù thái giám đã cẩn thận lót một tấm đệm nhỏ, chàng vẫn thấy hơi đau ở đầu gối. Một ý tưởng thoáng qua trong tâm trí: “Đây là lần cuối cùng. Sau lần này, ta sẽ không bao giờ phải quỳ nữa.”
Trần Tiễn Thành, hai tay nâng di chiếu cuộn tròn ngang trán, từ từ bước lên bệ. Vào chỗ đứng xong, ông đưa mắt, có ý chờ Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết.
Thuyết tiến lên đứng sát bên cạnh Trần Tiễn Thành. Thấy Thành vẫn có ý chờ, Thuyết ghé tai bảo nhỏ: “Ông Tường bị cảm, sợ giữa chừng lại ho nên xin đứng từ xa.”
Trần Tiễn Thành gật đầu, mở di chiếu ra, bắt đầu đọc. Lúc ấy là đầu giờ Thìn, mặt trời đã lên cao ngoài sân điện.
Chưa đến giữa giờ Thìn, phía sau điện, một viên thái giám hơ hãi, té sấp té ngửa chạy vào điện Càn Thành. Đến nơi, y một tay chặn lên cổ, một tay run cầm cập đẩy cánh cửa dày, miệng lắp bắp nói với thị vệ xin gặp Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên.
Vừa bước ra, nghe mấy lời tâu vắn tắt, Vũ phi hốt hoảng khóc òa, lật đật chạy tới trước Thái hậu:
- Mẫu hậu! Nguy rồi! Xin mẫu hậu cứu chúng con!
Trước linh sàng, Thái hậu đang ngồi xếp chân trên chiếu, mắt nhắm nghiền.
Đứa con thân yêu đã mất rồi, giờ cả thế giới này không còn gì quan trọng đối với bà nữa. Nhưng, tiếng kêu sợ hãi của Hoàng quý phi làm bà giật mình mở mắt.
- Mẫu hậu ôi! Tự quân bị trói dẫn đi rồi!
- Tâu Đức bà, loạn to rồi, vua nối ngôi bị nắm cổ lôi tuột xuống từ trên bệ… - Chung quanh, phi tần cũng nháo nhác cả lên.
Một việc hãi hùng kinh thiên động địa như vậy, ai ngờ là có thể xảy ra. Hoàng quý phi quỳ sụp trước mặt Thái hậu mà kêu gào, trong khi Nguyên cơ Phan Thị - người chỉ còn một bước là lên ngôi hoàng hậu - hầu như ngất lịm đi trong tay cung nữ.
Thái hậu bàng hoàng kinh sợ, truyền Tiệp dư Nguyễn Nhược Thị Bích gọi viên thái giám vào hỏi rõ nguồn cơn. Tiệp dư họ Nguyễn lâu nay vốn được xem như thư ký riêng của Thái hậu.
Thái giám đã hơi định thần trở lại, quỳ tâu cặn kẽ:
- Tâu Đức bà, bẩm quý lệnh bà, con là Nguyễn Như Khuê! Sáng nay con theo hầu Tự quân, được đứng bên mé điện, thấy rõ cảnh tượng từ trước đến sau:
Quan Phụ chính Trần Tiễn Thành đang đọc di chiếu, bỗng Phụ chính Tường đứng ở khoảng cách khá xa thảng thốt lên tiếng:
- Quái lạ, sao di chiếu lại thiếu đi một đoạn, hay là bản chức đứng xa nghe không rõ? Hãy đọc lại!
Trần Tiễn Thành lúc ấy biến sắc, lúng túng, đọc lại ngắc ngứ, càng lúc càng không sao nghe được.
Bỗng Phụ chính Tôn Thất Thuyết đứng bên cạnh ghé mắt nhìn vào di chiếu rồi quát to:
- Đây không phải là di chiếu của tiên đế!
Tiếng Thuyết vang lên sang sảng, trong ngoài đều nghe rõ.
Đúng lúc ấy, quân Thân Nghĩa của Thuyết kéo vào vây kín điện Thái Hòa, gươm giáo sáng quắc.
Thuyết đứng ngay trước ngai vua, chỉ mặt Tự quân:
- Kẻ này to gan, dám sao chép, sửa đổi di mệnh, xưa nay không có tội nào to bằng! Vậy sao xứng làm vua?
Nguyễn Văn Tường lúc ấy nhanh nhẹn bước lên, phụ họa:
- Việc nước đang gian nan, cần vua sáng suốt để chủ trì đại cuộc. Hoàng trưởng tử Ưng Chân ngu độn kém cỏi, càn rỡ ngông nghênh, tự tiện sửa đổi lời dạy của tiên đế. Vậy nên lập tức phế bỏ, để nhường chỗ cho người có tài, có đức.
Trần Tiễn Thành biết mình đã lỡ cơ, nãy giờ lúng túng không biết nói sao. Chợt nghe Tường nói đến việc phế vua, ông giật nẩy mình, vội can:
- Dựng vua phế vua là việc rất lớn, há có thể tùy tiện? Ý lớn nhất trong di chiếu là dặn dò lập Tự quân nối ngôi. Còn những ý răn quở chỉ là ý phụ. Nay Tự quân chỉ bớt đi một ý phụ, mà các ông lại lấy đó để thay đổi ý chính của di mệnh, thì có phải là mâu thuẫn lắm không? Vậy ai mới là người muốn sửa di chiếu?
Thành vừa dứt lời, Tôn Thất Thuyết chỉ thẳng ngón tay vào mặt ông, trừng mắt nạt lớn:
- Chính ông là có tội to nhất, ông còn nói cái gì? Có muốn chúng ta cho đi theo Tự quân không?
Trần Tiễn Thành chưa bao giờ thấy Thuyết hung hãn như thế, ông kinh ngạc không nói nên lời.
Ưng Chân đang quỳ, lồm cồm đứng dậy, vừa há miệng định chống chế thì một tốp giáp sĩ đã hùng hổ tiến lên thềm, kẻ thì trói tay, người thì nắm cổ áo lôi xuống.
Nghe Như Khuê kể đến đó, Hoàng quý phi và Phan nguyên cơ vật mình khóc thảm thiết. Thái hậu chết điếng, hỏi:
- Rồi trăm quan lúc đó thì sao, đành để mặc cho hai người đó tung hoành trên bệ ?
- Dạ, tâu Đức bà, chỉ có một người dám phản đối…
- Ai?
- Bẩm, quan Ngự sử Phan Đình Phùng!
Quan Phan thấy giáp sĩ nắm gáy Tự quân lôi tuồn tuột xuống, liền sấn ra giữa triều, nói to:
- Xưa nay đạo làm tôi, hễ vua có lỗi thì phải lấy lời ngay thẳng can ngăn. Chỉ trừ khi vua tàn ác phạm tội với Trời, thì mới nghĩ đến chuyện đổi mệnh. Nay phải trái chưa rõ, đã vội bàn phế vua, việc ấy quả là lộng quyền quá phận, nhất thiết không thể được!
Bốn, năm vị triều thần thấy Phan Đình Phùng nói dõng dạc, bèn cũng tiến ra đứng ngay sau lưng, ý muốn dâng lời cứu vua. Tôn Thất Thuyết thét:
- Nhà ngươi dám láo với ta sao? Giáp sĩ, trói ngay hắn lại, lột hết áo mũ giam vào trại Cẩm Y đợi lệnh!
Mặt Thuyết lúc ấy đằng đằng sát khí, râu tóc dựng ngược, mắt trừng như muốn rách khóe. Ai nấy hoảng vía kinh hồn, trong chớp mắt quân Thân Nghĩa xông vào, lôi Phan Đình Phùng đi như một cơn lốc. Bốn năm vị triều quan kia thấy vậy cũng bạt vía, hết thảy đều lùi tan...
∞∞∞∞∞
“Bãi triều! Tất cả hãy lui về, chờ mệnh mới sẽ vào chầu!” Nguyễn Văn Tường truyền lệnh.
Điện Thái Hòa phút chốc vắng tanh vắng ngắt. Quân của Thuyết kéo thẳng qua Đại cung môn, xộc vào điện Hoàng Phước. Toàn thể người hầu thân tín của Ưng Chân mới dọn vào được ba hôm, nay đều bị đóng gông dẫn đi.
Thuyết một mình vào thẳng điện Càn Thành, đòi yết kiến Thái hậu.
Thấy quan phụ chính đại thần vào, các phi tần đều khiếp hồn lẩn tránh, chỉ còn Tiệp dư Nguyễn Nhược Thị Bích đứng hầu.
- Tâu Thái hậu! Tự quân có tội lớn, chúng thần đã phế bỏ. Xin Thái hậu cho ý chỉ chọn người khác nối ngôi.
Thái hậu nhìn thẳng vào đôi mắt đầy hung quang của Thuyết, cố giữ điềm tĩnh:
- Ông Thành đâu? Ông Tường đâu? Việc lớn như vậy, ba vị đã bàn bạc với nhau chưa?
Thuyết không trả lời. Trần Tiễn Thành đã bị giam lỏng ở tư dinh, còn Nguyễn Văn Tường thì cố ý tránh mặt. Ông biết, đối diện với Thái hậu, thật khó biện bác. Chỉ có cách áp chế, mà áp chế thì để cho Thuyết làm là phù hợp nhất.
- Tâu Thái hậu, chúng thần đã đồng lòng hiệp ý, chỉ còn đợi ý chỉ của Thái hậu mà thôi. Nước không thể một ngày không vua, mọi việc phải xong ngay trong hôm nay mới được! Lại thêm, vận nước đang lúc gian nan, xin chớ chọn người ít tuổi, e không đương nổi!
Thái hậu chua xót trong lòng. Đã biết nước không thể một ngày không vua, sao lại phế vua vội vã như vậy? Thấy Thái hậu nghẹn ngào, Tiệp dư Nguyễn Nhược Thị Bích khẽ chạm vào sau lưng bà, như muốn nhắc: Thuyết đã dám trói vua, kéo cả lũ giáp sĩ đi bừa qua Đại cung môn, thì chẳng có việc gì ông ta lại chẳng dám làm.
- Xin Thái hậu mau mau quyết đoán! - Thuyết giục giã.
- Tự quân nếu có tội, ta muốn đưa ra cho tôn thất và triều thần nghị luận. Chẳng nên uất gấp như thế, chính ta cũng không rõ đầu đuôi, sao mà quyết đoán cho được đây? - Thái hậu nói.
Thuyết dằn giọng:
- Sửa di chiếu chỉ là một tội quả tang. Ưng Chân còn bao nhiêu cái tội tày đình khác. Bao năm nay, y giao du với khâm sứ Pháp, chắc đã trao cho y nhiều tin tức của triều đình. Nhất cử nhất động trong cung, tòa Khâm đều biết, không do y thì do ai? Chúng thần chịu mệnh đánh giặc Tây cứu nước, không thể chấp nhận một ông vua như vậy!
- Ta hỏi khanh, tòa Khâm biết việc trong cung thì liên quan gì đến Ưng Chân? Bao năm nay Ưng Chân ra ở Dục Đức đường phía ngoài hoàng cung, chỉ mới dọn vào được có ba hôm! Còn việc có tiếp sứ Tây, thì từ năm Giáp Tuất, sau khi ông Tường đàm phán giảng hòa, tiên đế đã có chỉ cho phép thân công hoàng tử được qua lại giao thiệp với người Tây để giữ mối quan hệ giao hảo. Không phải ta bênh vực Tự quân, nhưng muốn gán tội cho ai, phải có bằng cớ xác thực!
- Tình hình đất nước đang như nước sôi lửa bỏng, chúng thần không thể ngồi đó mà tìm bằng cớ! - Thuyết gằn giọng, quắc mắt: - Hơn nữa, cứ theo di chiếu, Hoàng thượng cũng nói: “Chưa chắc đã đương nổi việc lớn”. Vậy nghĩa là ý ngài ngầm bảo chúng thần phải phế đi!
Thái hậu nghẹn lời:
- Khanh nghĩ hồ đồ rồi. Tiên đế là vua, quyền quyết định là ở ngài. Nếu không chọn Ưng Chân, tất viết rõ vào di chiếu, việc gì phải chọn rồi lại ngầm sai người khác phế đi. Chẳng qua con trai ta bản tính khiêm tốn hiền lương, thấy Ưng Chân còn trẻ tuổi, sợ nó được lên ngôi rồi quá đắc chí mà không chịu răn mình. Bởi vậy muốn giảm cái khí hăng đó, để nó nhìn thấy nhược điểm của bản thân mà tu sửa cho xứng ngôi cao. Biết con không ai bằng mẹ, con ta nhất định không bao giờ có cái ngầm ý vô lương, mượn tay người hại người như vậy!
Tôn Thất Thuyết thấy Thái hậu mãi không chịu nghe theo, liền nổi nóng:
- Mười một chiếc tàu Tây đã khởi hành từ bến cảng Sài Gòn, ngày một ngày hai sẽ đến đây! Thái hậu chỉ có hai lựa chọn: một là đứng về phía chúng thần, đánh giặc cứu nước, diệt trừ hết những kẻ đối nghịch! Hai là cùng đi với chúng nó, để rồi lịch sử sau này sẽ phán xét!
Thái hậu ngồi lặng đi. Tiệp dư Bích lại chạm khẽ vào lưng bà. Cái chạm khẽ ấy có nghĩa là: “Kẻ kia đã quyết nói lấy được, thì Thái hậu có giảng giải gì cũng vô ích mà thôi.”
Một lúc sau, Thái hậu chầm chậm cất tiếng:
- Ta hiểu. Lịch sử đang đứng về phía khanh. Ta chỉ mong rằng đừng ai đem mấy chữ “Đánh giặc cứu nước” để biện minh cho sự tàn ác bạo ngược. Sống không có đức, cưỡng đoạt gán ép, lật mặt như trở bàn tay mà cứu dân cứu nước được sao? Việc đã vậy rồi, thân này già cả, không muốn, mà cũng không thể quyết được việc thế sự. Nay nước nhà cần vua lớn tuổi, vậy nhờ tôn nhân, phụ chính, đình thần, cùng nhau chọn trong các hoàng đệ, ai nên lập thì lập lên làm vua. Tiệp dư Bích, con ghi lại ý ấy, đưa cho ta ký.
Thuyết đạt được mục đích, cầm ý chỉ quay đi, không màng làm lễ lui gót ba bước.
Chỉ còn lại những người đàn bà trong gian điện nghi ngút khói nhang. Khói nhang, nỗi đau, nỗi âu lo làm cơn đau xốn tràn lên mắt.
Ngoài xa, trong hành lang vắng vẻ, một cậu bé mặc áo gấm lam chừng bốn tuổi đang vừa đi vừa chơi đùa với một cái trống bỏi bằng giấy màu sặc sỡ. Tiếng cười trẻ thơ vang lên, trong như tiếng thủy tinh.
Hai cung nữ đi theo cậu bé đến sát thềm điện. Cậu bé nhìn vào, thấy Thái hậu, liền chạy lên thềm, sán lại gần bà, tay đưa cái trống bỏi lên khoe. “Bà ơi! Con có cái này đẹp lắm!”
Thái hậu ôm cậu bé vào lòng bằng đôi tay run run. Bửu Lân, con trai đầu lòng của Ưng Chân. “Hoàng tôn, con ở lại đây với bà.”
- Dạ, mà bà cho con ăn chè bột lọc thịt quay nữa nha?
- Bà cho. Con ngoan, nghe lời bà, bà thương con lắm.
- Dạ con ngoan. Mà con ăn chè xong, là con về ngủ với mẹ.
Thái hậu rưng rưng không nói. Đêm đó, các cung nữ thay nhau bày đủ thứ trò chơi. Bửu Lân đùa giỡn đến khuya rồi ngủ thiếp đi, quên cả chuyện đòi về.
Cậu bé không biết mẹ mình cùng với cả nhà đã bị giam hết vào nhà Trấn Võ. Viên thái giám Nguyễn Như Khuê cũng đã bị giết. Thái hậu lo sợ chuyện không may, nên ráng giữ hoàng tôn bé nhỏ lại với mình trong cung Gia Thọ.
(Xem tiếp số báo tới)