Phim “Vietnam: The war that changed America” chiếu từ 31/1 /2025
VĂN HÓA ONLINE - SỰ KIỆN XƯA & NAY - THỨ BẨY 01 FEB 2025
VIỆT NAM 50 NĂM HỘI CHỨNG GIÔNG TỐ
Phim “Vietnam: The war that changed America” chiếu từ 31/1 /2025

Phim “Vietnam: The war that changed America” chiếu từ 31/1 /2025
Cuộc chiến thay đổi nước Mỹ’ bi hùng và gây xúc động trình chiếu từ 31/1 /2025
01/02/2025
Khu tưởng niệm quân nhân Mỹ ngã xuống trong Chiến tranh Việt Nam ở thủ đô Washington.
Bộ phim tài liệu dài 6 tập “Vietnam: The war that changed America”, tạm dịch là “Việt Nam: Cuộc chiến đã thay đổi nước Mỹ” bắt đầu trình chiếu từ ngày 31/1/2025 trên ứng dụng tải phim Apple+, nhiều báo Mỹ và phương Tây đưa tin trong hai ngày 30 và 31/1.
Để sản xuất bộ phim, đạo diễn người Anh Rob Coldstream và đội ngũ của mình đã xem lại các hình ảnh tư liệu có tổng thời lượng lên đến hơn 1.000 giờ và mất 1 năm đọc lại những lời kể về cuộc chiến, theo USA Today và Cool Music.
Với những thước phim và các bức ảnh hiếm thấy, được thể hiện qua giọng đọc của Ethan Hawke, phim được công chiếu ở thời điểm tròn 3 tháng trước dịp kỷ niệm 50 năm Sài Gòn thất thủ và Chiến tranh Việt Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975.
Cuộc chiến đã làm gần 60.000 quân nhân Mỹ tử trận và hơn 2 triệu người Việt Nam thiệt mạng, bị xem là một trong những cuộc xung đột đẫm máu nhất trên thế giới.
Ở Việt Nam, những người cộng sản đã giành chiến thắng vẫn thường gọi đó là cuộc “kháng chiến chống Mỹ xâm lược” trong nhiều thập kỷ, nhưng khoảng 10 năm gần đây họ ít sử dụng cụm từ đó trong bối cảnh quan hệ Việt-Mỹ ngày càng trở nên tốt hơn.
Tạp chí REMIND và trang Cool Music mô tả rằng “Vietnam: The war that changed America” mang đến khán giả những câu chuyện gây đau lòng và bi hùng do những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến gây chia rẽ kể lại.
Trong phim cũng có những cuộc tái ngộ đầy xúc động của các cựu binh, có những người trong số họ đã có quan điểm trái ngược nhau hoặc đã không gặp nhau trong cả nửa thế kỷ. Sự đan xen của các câu chuyện và những cuộc gặp đó giúp họ hàn gắn vết thương, hồi tưởng và hòa giải.
Bộ phim đi vào chiều sâu chứ không chỉ dừng ở các vấn đề địa chính trị và bất ổn xã hội ở giai đoạn chiến tranh, để hiểu được góc nhìn của những người đã định hình giai đoạn lịch sử đầy gai góc này, REMIND viết.
REMIND, USA Today và Los Angeles Times thuật lại rằng trong phim, những thường dân Việt Nam nhớ lại những điều kinh hoàng trong cuộc chiến và những sự kiện làm thay đổi cuộc đời họ mãi mãi. Bên cạnh đó là những chiến binh Việt Cộng giãi bày về tinh thần ngoan cường, quyết chiến của họ để đánh lại một siêu cường toàn cầu, phục vụ cho một sự nghiệp mà họ hiến dâng hết mình.
Qua 6 tập, bộ phim cũng cho thấy chính nước Mỹ đã có những thay đổi to lớn, trở thành một quốc gia khác đi rất nhiều sau cuộc chiến, theo Cool Music.
Theo thứ tự, Tập 1 “Boots on the ground” (tạm dịch: “Đưa quân tham chiến”) nói về việc nước Mỹ thấy rằng họ ở trong một cuộc chiến với một đối thủ khác hẳn với tất cả những kẻ thù mà họ từng đối mặt trước đây.
Trong Tập 2 “Uprising” (tạm dịch: “Nổi dậy”), cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 của những người cộng sản Việt Nam gây choáng váng cho Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa.
Tập 3 với tên “Not my war” (tạm dịch: “Không phải cuộc chiến của tôi”), cho rằng chiến sự Tết Mậu Thân có tác động tâm lý sâu sắc đến tinh thần của binh sĩ Mỹ cũng như sự ủng hộ của người dân ở Mỹ về cuộc chiến.
Tập 4 “Mutiny” (tạm dịch: “Chống đối”). Cảm xúc chống chiến tranh lớn mạnh lên trong công chúng Mỹ, trong khi tinh thần và kỷ luật trở nên rã đám trong các quân nhân Mỹ là những gì được mô tả trong phim.
Tập 5 “Homecoming” (tạm dịch: “Về nhà”), Khái quát hóa về tính chia rẽ của cuộc chiến trong câu chuyện về hai người bạn thân trong Thủy quân Lục chiến được kể lại. Đó là Jim Fife và Scott Camil. Họ đã có những việc làm và cảm xúc khác hẳn nhau khi quay về Mỹ.
Camil trở thành một nhà hoạt động trong hội Các Cựu binh Chống Chiến tranh Việt Nam. Trong khi đó, Fife cảm thấy vẫn có nghĩa vụ với những đồng đội còn đang chiến đấu nên đã huấn luyện thành phi công trực thăng và quay lại Việt Nam phục vụ một lần nữa.
Trong tập cuối (6), “The Endgame” (tạm dịch: “Hồi kết”), khán giả thấy rằng cùng lúc Mỹ rút các binh sĩ và nhân sự khỏi Việt Nam Cộng Hòa, tình hình trở nên tuyệt vọng đối với những người dân thường. Tập này có những đoạn phim mô tả lại cảnh di tản khỏi Đà Nẵng hay các loại máy bay đưa nhiều người chạy nạn ra các tàu chiến Mỹ ở ngoài khơi.
Los Angeles Times nhận xét rằng đạo diễn Rob Coldstream đã có cách tiếp cận rất khác biệt để kể lại các câu chuyện.
"Chúng tôi muốn đưa bạn vào đó, để bạn thấy những người đã sống qua thời đó nhìn nhận nó như thế nào. Chúng tôi muốn tạo cảm giác điện ảnh và người xem đắm chìm vào, thay vì chỉ kể cho người xem chuyện này chuyện khác", ông nói trong một cuộc phỏng vấn qua đường truyền video, theo Los Angeles Times.
* Chú thích của Văn Hóa Online:
Tuy chưa xem được hết 6 tập của bộ phim, nhưng qua bài viết trên, trong phim (có thể) không có Tập nào xoáy vào cuộc chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và hồi kết sau ngày 30 tháng Tư 1975; hàng trăm ngàn sĩ quan trong quân đội Sai Gòn, cảnh sát, công chức, nhân viên chính phủ VNCH buông súng ‘đầu hàng’ theo lệnh của tổng thống Dương Văn Minh, và tuân theo lời kêu gọi của Ủy ban Quân quản Tp Hồ Chí Minh năm 1975, khăn gói 10 ngày đi tập trung ở hàng trăm các trại tù lao động (rập khuôn theo kiểu“gulag” của Nga) (1) lập ra trong rừng rậm ở miền Nam cũng như miền Bắc – mà Hà Nội gọi là Trại tập trung học tập cải tạo.
Nhắc lại sự thật của quá khứ không phải là để dấy lên lòng thù hận. Bản chất của người Việt Nam là ‘đồng bào’ – không có lòng thù hận mà chỉ có lòng tha thứ – tha thứ và yêu thương.
(1) The Gulag was a system of forced labor camps established during Joseph Stalin’s reign as dictator of the Soviet Union. The notorious prisons, which incarcerated about 18 million people throughout their history, operated from the 1920s until shortly after Stalin’s death in 1953. At its height, the Gulag network included hundreds of labor camps that held anywhere from 2,000 to 10,000 people each. Conditions at the Gulag were brutal: Prisoners could be required to work up to 14 hours a day, often in extreme weather. Many died of starvation, disease or exhaustion—others were simply executed.
Tạm dịch: Gulag là một hệ thống trại lao động cưỡng bức được thành lập dưới thời Joseph Stalin, nhà độc tài của Liên Xô. Các nhà tù khét tiếng, nơi giam giữ khoảng 18 triệu người trong suốt lịch sử hoạt động cầm tù của nó từ những năm 1920 cho đến ngay sau cái chết của Stalin vào năm 1953. Vào thời kỳ đỉnh cao, mạng lưới Gulag bao gồm hàng trăm trại lao động, mỗi trại giam giữ từ 2.000 đến 10.000 người. Điều kiện tại Gulag rất tàn bạo: Tù nhân có thể bị yêu cầu làm việc tới 14 giờ một ngày, thường là trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Nhiều người chết vì đói, bệnh tật hoặc kiệt sức – những người khác trốn trại hay có những hành động phản đối là bị cùm tối hay hành quyết.