O KIẾN – NHÂN VẬT “EM” TRONG THI PHẨM “NGẬM NGÙI” CỦA HUY CẬN

08 Tháng Năm 20257:35 SA(Xem: 1444)

VĂN HÓA ONLINE - DIỄN ĐÀN ĐA NGUYÊN 3 - THỨ NAM 08 MAY 2025


O KIẾN NHÂN VẬT “EM” TRONG THI PHẨM “NGẬM NGÙI” CỦA HUY CẬN


Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ


Ngậm Ngùi là một trong những thi phẩm của Huy Cận được người đọc yêu mến nhất. Bài thơ đứng số 82 trong tập Lửa Thiêng – tập thơ đầu của Huy Cận - xuất bản tháng 11 năm 1940.


image003Huy Cận và tập thơ Lửa Thiêng, Hà Nội 1940.


NGẬM NGÙI


Nắng chia nửa bãi; chiều rồi...


Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.


Sợi buồn con nhện giăng mau;


Em ơi! Hãy ngủ... anh hầu quạt đây.


Lòng anh mở với quạt này;


Trăm con chim mộng về bay đầu giường.


Ngủ đi em, mộng bình thường!


Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ...


Cây dài bóng xế ngẩn ngơ...


- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?


Tay anh em hãy tựa đầu,


Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...


Bản thân Huy Cận gọi bài thơ này là bài “toàn bích”. Đã không biết bao lần tôi được nghe cha tôi đọc bài thơ này khi người hâm mộ yêu cầu. Vừa đọc, ông vừa vung tay nhịp nhấn lời thơ…


Không nghi ngờ gì nữa, bên cạnh nghệ thuật, chủ đề của bài thơ – Anh và Em - đã là một lực hút mãnh liệt đối với độc giả. Ai cũng nghĩ rằng Ngậm Ngùi là một khúc ru mà Huy Cận dành cho người tình hay người vợ của mình. Đã có không ít lời bình “có cánh” theo hướng này mà một trong số đó là bài “Ngậm Ngùi” bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới” của Anh Ngọc, đăng trên Công an nhân dân ngày 13/01/2023. Tác giả viết:


“Có thể gọi "Ngậm ngùi" là "khúc ca ru của những cặp tình nhân". Bởi, trong bài thơ, ngoài vẻ đẹp lộng lẫy của ngôn từ, thì cái cảnh người con trai ru người tình của mình ở đây tuy cũng có dấu vết của thời khắc, cảnh trí đấy, nhưng tuyệt nhiên không thể xác định là diễn ra ở đâu, bao giờ. Người con gái nằm trên giường, ở trong nhà, hẳn thế, mà ta cũng có cảm giác như nàng nằm giữa trời đất, cỏ cây có thể có ở bất cứ nơi nào trên trái đất: một buổi chiều tà, bóng cây xế dài, ánh nắng đã chia nửa bãi, trong khu vườn hoang những cây trinh nữ đã xếp lá và những con nhện vẫn mải miết giăng tơ... Quả thật, cảnh trí tĩnh lặng, quạnh hiu, hoang vắng... đến nhoà nhạt ấy rất hợp với giấc ngủ: Chàng thi sĩ - tình nhân không chỉ cất tiếng ru và ngồi hầu quạt, chàng còn huy động đến cả thiên nhiên, tạo vật về đưa nôi cho người yêu ngủ. Trong hành vi của chàng không chỉ có sự âu yếm của tình yêu mà còn hơn thế - đó là cả sự trân trọng nâng niu của những tâm hồn đồng điệu khi đến với nhau, sự cảm thông chia sẻ giữa hai linh hồn cùng nặng trĩu đau thương, cùng cô đơn giữa cõi thế. Người con gái ở đây là cả một khối u buồn: "Hồn em đã chín mấy mùa thương đau". Hình như không phải nàng tìm đến một giấc ngủ thông thường, một phút nghỉ ngơi sinh học, mà nàng đang tìm kiếm một phút lãng quên, một giờ thư thái yên tĩnh, nó còn cao hơn cả một giấc ngủ. Có phải vì thế mà chàng trai cầu xin cho nàng một giấc mộng bình thường…”


Ngậm Ngùi càng đặc biệt cuốn hút kể từ khi bài thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc vào khoảng 1961 Trong Hồi ký của mình (1), ông tâm sự:


“Qua những buổi nhạc hội, tôi đã nổi tiếng là hát hay tại nơi tỉnh lỵ bé bỏng này. Đây là lúc tôi đã bị Thần Âm Nhạc ám ảnh và tôi đang được ru hồn bằng những bài thơ mới của Huy Cận. Đúng như Hoài Thanh viết về thơ Huy Cận : ''... có người sẽ bảo thơ Huy Cận già. Già vì buồn, già vì hay kể lể những chuyện xa, những chuyện xưa. Nhưng trong đời người ta, còn có tuổi nào hay buồn hơn tuổi hai mươi ? Còn có tuổi nào vẩn vơ hơn ?'' Lúc đó, trong giới thi ca, chưa có lối ngâm thơ theo kiểu Tao Đàn và nếu yêu bài thơ nào người ta thường ngâm lên theo giọng bồng mạc, sa mạc hay theo điệu ả đào... Riêng về phần tôi, với tuổi hai mươi, vì thích những bài thơ buồn vẩn vơ của Huy Cận vừa được in ra trong tập Lửa Thiêng rất phù hợp với sự thất tình vớ vẩn của mình nên tôi đã tập toẹ ''hát'' những bài thơ đó lên theo lối của tôi. Tức là tôi phổ nhạc đấy ! Tôi chọn 2 bài :


Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung


Có ai đàn lẻ để tơ chùng


Có ai tiễn biệt nơi xa ấy


Xui bước chân đây cũng ngại ngùng...


(Nhớ Hờ)


Bỗng dưng buồn bã không gian


Mây bay lũng thấp giăng màn âm u


Nai cao gót lẫn trong mù


Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về...


(Thu Rừng)


Hát 2 bài thơ trên đây, đối với tôi, là sự tập tành phổ nhạc. Tôi chỉ thành công 20 năm sau với thơ Huy Cận khi tôi phổ nhạc bài Ngậm Ngùi.”


Quả vậy, cả miền Nam Việt Nam trước năm 1975 không ai là không biết đến ca khúc phổ thơ Huy Cận này của nhạc sĩ họ Phạm.


image005Nhà thơ Huy Cận và nhạc sĩ Phạm Duy, Hà Nội, 2000


Bản thân tôi đã đến thăm Phạm Duy tại Sài Gòn, quãng năm 2007, 2 năm sau khi nhạc sĩ từ Mỹ về Việt Nam ở hẳn. Phạm Duy nồng nhiệt đón tiếp tôi, rồi kể: “Năm 2000, tôi đã đến thăm nhà thơ Huy Cận tại trụ sở Ủy ban trung ương Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam ở Hà Nội. Tôi tặng ông ấy một CD gồm 16 giọng hát khác nhau của ba, bốn thế hệ ca sĩ, kể từ Thái Thanh, Lệ Thu, Anh Ngọc, Khánh Ly...Huy Cận rất cảm động. Ông cũng tặng lại tôi cuốn “Huy Cận – Đời và Thơ” trong đó có bài “Ngậm Ngùi.”


image007Ca khúc “Ngậm Ngùi” phổ thơ Huy Cận của Phạm Duy, in tại Sài Gòn trước 1975


Sau khi cùng vợ tôi, Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà, sang Mỹ vào tháng 4/2014, tôi đã hơn một lần nghe ca khúc Ngậm Ngùi của Phạm Duy, được trình diễn không chỉ bởi các ca sĩ chuyên nghiệp mà cả những con người bình thường với tâm hồn thơ – nhạc. Anh Lương Dzụ, một du học sinh ở Nhật thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, đã hát tặng tôi bài này khi vợ chồng tôi đến chơi nhà anh tại Virginia. Giọng anh réo rắt. Đôi lúc vừa hát, anh vừa khóc, khiến mọi người có mặt thổn thức trong mê say....


Thế nhưng, ngược lại với cảm nhận của người đọc, Huy Cận sáng tác Ngậm Ngùi không như một khúc ru người tình, một khúc ca tình yêu đôi lứa, mà là để khóc người em gái yểu mệnh của ông tên Cù Thị Kiến. Tôi biết được điều này trong một lần cùng cha tôi về thăm quê Ân Phú, một vùng sơn cước thuộc huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Mục đích của chuyến thăm quê lần đó là để Huy Cận chính thức giới thiệu tôi là người kế tục ông làm Trưởng Tộc Cù Huy cánh Tiểu tôn với người trong Họ.


Giữa cái nắng chang chang của trưa hè, cha tôi dắt tôi đi thăm mộ của ông nội tôi, Cù Huy Trương, và của các tiền nhân khác ở trên núi Mồng Gà, cách nhà ông bà nội tôi chừng 1km rưỡi. Khi đi qua một bãi hoang cỏ mọc um tùm, một mặt giáp sông Ngàn Sâu (một nhánh của sông La), mặt kia giáp núi Mồng Gà, cha tôi dừng lại, ngậm ngùi nói: “Mộ O Kiến (2) ở bãi này, giờ không còn vết tích. O là thứ bảy trong tám người con của ông bà nội, trên chú Chử (3). Bố thương O lắm vì O chết khi còn nhỏ. Kiếp người sao quá ngắn! Lúc O chết, bố đang học Cao đẳng Nông Lâm (Đại học Đông Dương) ở Hà Nội. Trong nhà không ai báo cho bố cả.”


Kìm cơn xúc động, cha tôi nói tiếp: “Nghỉ hè năm 1940, bố về thăm quê thì mới biết O Kiến đã mất trước đó ít tháng. Bố cùng ông bà nội ra thăm mộ O khi đã xế chiều, chỉ nửa bãi còn nắng. Xung quanh mộ cỏ mọc cao, lẫn trong ấy là những cây trinh nữ, ở quê gọi là cây thẹn, ngoài Bắc gọi là cây xấu hổ, trong Nam gọi là cây mắc cỡ. Ngay lúc đó trong bố bật ra hai câu thơ: “Nắng chia nửa bãi chiều rồi/Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu”. Bài Ngậm Ngùi xót thương O Kiến được bắt đầu như thế đó!” Tôi bèn chạy xuống bãi xem thì quả thật có rất nhiều cây trinh nữ dưới đó, chạm vào là các nhành lá kép cụp lại, cứ như phản ứng của người vậy. Vẫn hướng về bãi hoang, cha tôi đọc cả bài thơ với giọng nằng nặng. Chợt có làn gió lướt qua giữa trời nắng gắt. Phải chăng O Kiến linh thiêng đã chứng giám nỗi nhớ thương O của cha con tôi?


image009Bãi Sau Bàu (Ân Phú, Vũ Quang, Hà Tĩnh), nơi yên nghỉ của O Cù Thị Kiến, người em gái út của nhà thơ Huy Cận, nguồn cơn của thi phẩm Ngậm Ngùi. Nguồn: Lương Thị Mai Hương


image011Cây trinh nữ trên bãi Sau Bàu (Ân Phú, Vũ Quang, Hà Tĩnh). Nguồn: Lương Thị Mai Hương


Sau này, trong Hồi Ký Song Đôi (4), cuốn hồi ký mà ông viết thay cho cả người bạn đời Xuân Diệu, Huy Cận viết: “Em Kiến tôi (em gái) đã chết năm em lên bảy tuổi. Nghỉ hè về nhà tôi cứ bế em chạy luôn, dạy cho em học, cho em hát. Em Kiến hay thẹn, ít nói, tôi hơi la thì em khóc liền. Khi sắp khóc thì em nhìn sững vào mặt tôi, em mếu thế là không dỗ được nữa. Anh em sao lưu luyến nhau thế, em hay đến cạnh tôi nhưng khi tôi nhìn thấy em thì em tránh. Mắt em yếu, ờ phải rồi, ánh mắt của em chừng như không nhận được ánh mắt của tôi và  của các em Trà, Chúc, Thước, Điểu, Dục. Trời đã báo trước rằng em sẽ chết phải không? Em Kiến mơ ước được ra Hà Nội với tôi để làm “cô trọ” (cô giáo). Em chết khi tôi đang đi học ở Hà Nội.”


Cù Huy Thước, người em thứ hai của cha tôi, đã cho tôi biết cụ thể hơn về O Kiến. Ông kể:


“Bà đẻ rơi O Kiến khi đang gặt lúa. Chú Chúc (Cù Huy Chúc, em trai kế cha tôi, trên ông Thước), phải xé áo mình đang mặc để bọc lấy em. O có tính hay thẹn, trong mình gọi là “trơi”. Một lần cùng anh Xuân Diệu về thăm nhà, anh Cận nói: “O Kiến đâu? Ra đây anh nói chuyện!” thì O Kiến đỏ mặt, chạy xuống bếp đứng. Anh Cận lại phải xuống bếp dỗ dành O. Cũng như các anh chị em khác, O được ông (Cù Huy Trương, ông nội tôi) dạy chữ Hán, rồi chữ Quốc Ngữ, cả tiếng Pháp nữa.” “O Kiến rất thông minh”, chú nhấn mạnh.


Với những hồi ức trên của cha và chú tôi, tôi mới thấm thía rằng “trinh nữ xếp đôi lá rầu” trong Ngậm ngùi không đơn thuần là một sự mô tả cảnh vật với tâm trạng buồn đau của một người vừa mất em gái nhỏ (đại thi hào Nguyễn Du cùng quê Hà Tĩnh cách đây ba thế kỷ rưỡi đã viết:“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu / Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ“). Đó trước hết là một ẩn dụ hoàn hảo về người em gái yểu mệnh vốn hay thẹn thùng của cha tôi.


Vẫn theo chú Thước tôi, O Kiến mất sau một tai nạn. “Tính hiếu động, O hay chạy nhảy. Một bữa O bị ngã, thái dương đập vào gốc cây chè xanh trong vườn nhà. Tưởng O chỉ bị thương nhẹ, ông nội đem thuốc lá rịt vào vết thương. Nào ngờ vài tháng sau, vết thương vỡ ra, máu chảy cầm không được và O chết. Ông bà đưa O đi chôn ở bãi Sau Bàu.”


Tôi hỏi: “Sao lại gọi là Sau Bàu hả chú?”


“Gọi là Sau Bàu vì bãi đất đó nằm cạnh một bàu (đầm nước nhỏ), chú tôi giải thích. Bãi này được dành để an táng trẻ em trong khi triền núi Mồng Gà là nơi an táng người lớn. Theo tập tục địa phương thì không để bia trên mộ trẻ em nên mọi người chỉ nhận ra vị trí ngôi mộ khi mộ còn mới. Năm tháng qua đi, mộ lún xuống thì không còn vết tích nữa. Gia đình chỉ biết O Kiến nằm ở đó, trên bãi Bàu Sau, chính xác chỗ nào thì không còn nhớ. Hồi nhỏ chú hay qua bãi này. Có con chim kêu “tù tì, tụt tịt”. Giun thì kêu “rì rì”. Rồi “ma trơi” (lân tinh bốc lên từ những ngôi mộ mới bị gió thổi) lập lòe. Đêm phải đi ba người mới đỡ sợ.”


Trung tuần tháng 8 năm 2019, con trai trưởng của tôi, Cù Huy Xuân Đức, về quê Ân Phú để ra mắt Tộc Cù Huy cánh Tiểu tôn với tư cách Tộc trưởng thay tôi để lo việc Họ vì tôi hiện sống ở Mỹ. Xuân Đức đưa vợ là Lương Thị Mai Hương và con gái Cù Huy Xuân Thi 16 tháng tuổi đi cùng. Nhân dịp này, tôi nói vợ chồng Xuân Đức đến bãi Bàu Sau và thắp hương cho O Kiến, điều các cháu đã làm với sự dẫn đường của Cù Huy Hoàng Nhật (tức Nguyễn Hoàng Nhật), con trai duy nhất của chú Chúc tôi. Ngay sau đó, con dâu tôi đã gửi cho những bức ảnh chụp bãi Sau Bàu với những cây trinh nữ dưới nắng chiều.


image013Hàng cây trinh nữ trên bãi Sau Bàu (Ân Phú, Vũ Quang, Hà Tĩnh) trong chiều tà.

Nguồn: Lương Thị Mai Hương

 

Trở lại cuộc đến thăm Huy Cận của Phạm Duy vào năm 2000, nhạc sĩ đã rất xúc động khi nghe cha tôi kể về hoàn cảnh sáng tác Ngậm Ngùi, về O Kiến. Ông cũng nói với cha tôi rằng do linh cảm thi phẩm này không hẳn nói về mộng mơ đôi lứa nên ông đã chọn giọng "oán" (diễn tả nỗi buồn sâu xa, oán than, thuộc điệu “Nam” trong nhạc cung đình Huế) để phổ nhạc.


Đến đây cũng cần lý giải vì sao người thưởng thức Ngậm Ngùi cảm nhận nó như một khúc ca hạnh phúc lứa đôi bất chấp Ngậm Ngùi bản thân nó đưa ra một một thông điệp khác hẳn, nếu không muốn nói là ngược lại. 


Nghệ thuật bắt nguồn từ thực tiễn cuộc sống, là nhu cầu bộc lộ hoặc tiềm ẩn của cuộc sống. Thế nhưng một khi nó được sinh ra, nghệ thuật có cuộc sống riêng của nó, đôi khi dường như không còn phản ánh thực tại mà từ đó nó sinh ra. Đó là bởi người thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật cảm thụ hay tiếp nhận, diễn giải tác phẩm theo cách của mình, độc lập với ý đồ sáng tác của tác giả. Nói cách khác, cảm thụ nghệ thuật là nghệ thuật của nghệ thuật và vì vậy trở nên siêu hình, dẫn đến thoát ly hẳn thực tiễn sáng tác trong nhiều trường hợp. Điều này nhấn mạnh rằng người thưởng thức có thể mang đến cho tác phẩm một ý nghĩa mới, độc lập với ý đồ ban đầu của tác giả. Qua đây, nghệ thuật không chỉ cho thấy sự phong phú của nó mà còn khẳng định rằng nghệ thuật là một quá trình liên tục, luôn thay đổi và phát triển.


O Kiến ơi! Với thi phẩm kinh điển Ngậm Ngùi của Huy Cận cùng bản phổ nhạc tài hoa của Phạm Duy, từ Bàu Sau của những cây trinh nữ, O đã bay lên để mãi là người tình trong mộng của nhân gian.


Chú thích:


  1. Hồi ký Phạm Duy, Chương 15, PhamDuy.com
  2. Tiếng Nghệ An – Hà Tĩnh, O nghĩa là: 1/Người con gái; 2/Chị gái, em gái của cha.
  3. Cù Huy Chử, em út của Huy Cận. Ông là Tiến sĩ Triết học, nguyên Thư ký của Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
  4. Hồi Ký Song Đôi  (Tuổi nhỏ Huy Cận – Xuân Diệu), Huy Cận, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2002.

C.H.H.V


31/5/2024


Garden Grove, California, Hoa Kỳ

image015

C.H.H.V
Tác giả Cù Huy Hà Vũ có học vị Tiến sĩ Luật và Thạc sĩ Văn chương của Đại học Paris. Ông tốt nghiệp Trường Hành chính Quốc gia Pháp (École Nationale d’Administration – ENA). Tiến sĩ Vũ là một luật gia, học giả, họa sĩ và nhà bất đồng chính kiến nổi bật của Việt Nam. Nguyên là cán bộ Bộ Ngoại giao Việt Nam trong 30 năm, ông từng bị cầm tù vì các hoạt động vận động dân chủ. Hiện nay, Tiến sĩ Vũ sinh sống tại Garden Grove, California, Hoa Kỳ, cùng phu nhân, Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà.


O KIẾN THE CHARACTER EM IN THE POEM NGM NGÙI BY HUY CN


By Dr. Cù Huy Hà Vũ


“Ngậm Ngùi” (Muffled Sorrow) is one of Huy Cận’s most beloved poems. It is poem number 82 in his first collection, Lửa Thiêng (Sacred Fire), published in November 1940.


image016Huy Cận and the poetry collection Sacred Fire, Hanoi, 1940.


NGẬM NGÙI
The sun splits the field in two—it's late…
In the wild garden, bashful leaves fold, droop in grief.
Threads of sadness, the spider weaves quick;
Sleep now, my love… I’ll fan you here.
My heart opens with this fan;
A hundred dream-birds flutter toward your bed.
Sleep on, my dear, dream gentle dreams!
The casuarina hums a lullaby from distant shores…
The tree's shadow lengthens in sunset’s haze…
– Has your soul ripened through seasons of sorrow?
Lean your head on my hand, love,
Let me hear the weight of grief falling...


Huy Cận himself called this poem a “flawless piece.” I lost count of how many times I heard my father recite it at poetry readings upon request, gesturing with his hand to emphasize the verse as he spoke...


Unquestionably, beyond its artistry, the poem’s theme—He and She—exerts a powerful allure for readers. Many assume Ngậm Ngùi is a lullaby that Huy Cận wrote for his lover or wife. Countless flattering commentaries follow this interpretation—one example being “Ngậm Ngùi” a quintessential poem of the New Poetry Movement by Anh Ngọc, published in Công an Nhân dân on January 13, 2023. The author writes:


“One could call Ngậm Ngùi a 'lullaby of lovers.' Despite the vivid imagery, the scene of a man lulling his beloved to sleep is set in an indeterminate time and place. The woman may lie in a bed indoors, but it feels like she rests in the open air—beneath the waning sunlight, in an overgrown garden where bashful plants fold and spiders spin. The setting is quiet, desolate… perfect for sleep. The poet-lover doesn’t just fan her or murmur a lullaby; he enlists nature itself to rock her dreams. His care exceeds romantic affection—it is reverence, empathy between two sorrow-laden souls. She is pure melancholy: ‘Has your soul ripened through seasons of sorrow?’ Her sleep is no ordinary rest—it is a yearning for peace, forgetfulness beyond dreams. Hence the plea: ‘Sleep on, my dear, dream gentle dreams…’”


The poem gained even greater popularity when it was set to music by composer Phạm Duy around 1961. In his memoir (1), Phạm Duy recalled:


“At musical gatherings, I became known for my voice in this small provincial town. I was possessed by the Muse and soothed by the new poems of Huy Cận. Just as Hoài Thanh wrote: ‘… some may say Huy Cận’s poetry is old. Old because it's sad, because it recounts distant, bygone things. But what time in life is sadder than twenty? What age more wistful?’


Back then, in poetry circles, recitations weren't like those of the Tao Đàn school. If one loved a poem, they’d chant it in folk styles or ả đào melody. But I, at twenty, enchanted by Huy Cận’s wistful verses in Lửa Thiêng, set them to song—my own kind of music. I began with:


Oh golden sunlight, so full of longing,
Is there a lonesome string, gone slack from parting?
Does someone, far off, bid farewell,
That every step I take feels hesitant?


(Nhớ HờFaint Remembrance)


Suddenly, a gloomy space descends,
Low clouds, misting a shadowy veil.
A high-stepping deer fades in the haze,
Into forest paths, and new autumn gazes...


(Thu RừngAutumn Forest)


These were my practice runs at songwriting. True success came twenty years later with Ngậm Ngùi.”


Indeed, before 1975, Ngậm Ngùi set to music by Phạm Duy was widely known throughout South Vietnam.


image017Poet Huy Cận and Composer Phạm Duy, Hanoi, 2000


I myself visited Phạm Duy in Saigon around 2007, two years after he permanently returned from the U.S. He warmly received me and recounted:


“In 2000, I visited Huy Cận at the headquarters of the Vietnam Union of Literary and Art Associations in Hanoi. I gave him a CD featuring 16 different renditions of Ngậm Ngùi by singers across generations—Thái Thanh, Lệ Thu, Anh Ngọc, Khánh Ly... Huy Cận was very moved. In return, he gave me a copy of Huy Cận Life and Poetry, which included Ngậm Ngùi.”


image018Sheet music for Ngậm Ngùi by Phạm Duy, published in Saigon before 1975


After moving to the U.S. with my wife, attorney Nguyễn Thị Dương Hà, in April 2014, I heard Ngậm Ngùi performed many times—by both professional singers and ordinary music lovers. One such moment came when Mr. Lương Dzụ, a former Vietnamese student in Japan during the war, sang the piece for us at his home in Virginia. His voice quivered, and at times he wept as he sang—moving everyone present to tears…


But contrary to most readers’ interpretation, Huy Cận did not compose Ngậm Ngùi as a love song for a romantic partner. He wrote it to mourn the death of his beloved younger sister, Cù Thị Kiến. I learned this when I accompanied my father on a trip to our ancestral village of Ân Phú, a mountainous area in Vũ Quang District, Hà Tĩnh Province. The purpose of this trip was for Huy Cận to officially introduce me as his successor as head of the Cù Huy family’s Tiểu tôn branch.


In the blazing midday sun, my father took me to visit the grave of my grandfather Cù Huy Trương and other ancestors on Mồng Gà Mountain, about 1.5 km from our ancestral house. Passing through an overgrown plain by the Ngàn Sâu River and the mountain’s base, my father paused and said with deep emotion:


“O Kiến’s grave was here, though now there’s no trace. She was the seventh of eight siblings, just above Uncle Chử (3). I loved her deeply—she died so young. When she passed, I was still studying at the College of Agriculture and Forestry (Indochina University) in Hanoi. No one told me.”


Trying to contain his grief, he continued:


“I only learned about her death during summer break in 1940. I visited her grave with our parents that afternoon—only half the plain still had sunlight. The grave was surrounded by tall grass, interspersed with bashful plants—called cây thẹn at home, cây xấu hổ in the North, cây mắc cỡ in the South. It was then that these two lines came to me:
‘The sun splits the field in twoit's late / In the wild garden, bashful leaves fold, droop in grief.
That’s how Ngậm Ngùi, mourning O Kiến, began.”


I ran down to the plain and indeed found the sensitive mimosa plants—leaves folding at the slightest touch, like a human reaction. Facing the barren field, my father recited the entire poem with a heavy tone. A breeze suddenly swept by under the scorching sun—perhaps O Kiến’s spirit had come to witness our sorrow.


image019The Bàu Sau field (Ân Phú, Vũ Quang, Hà Tĩnh), final resting place of Cù Thị Kiến, Huy Cận’s youngest sister and inspiration for Ngậm Ngùi. Photo: Lương Thị Mai Hương


image020Bashful mimosa plants at Bàu Sau. Photo: Lương Thị Mai Hương


Later, in Song Đôi Memoir (4), written partly for his life partner Xuân Diệu, Huy Cận wrote:


“My sister Kiến died at seven. Every summer home, I would carry her around, teach her, sing with her. She was shy and quiet. If I scolded her, she’d cry instantly—staring at me just before the tears came. We were so close. She often stayed near me, but would flee when I noticed. Her eyes were weak—perhaps they couldn’t meet mine, or our siblings’. Was it fate warning us of her early death? She dreamed of going to Hanoi with me to become a cô trọ (teacher). She died while I was away at school.”


Cù Huy Thước, my father’s younger brother, provided more detail:


“Grandmother gave birth to O Kiến while harvesting rice. Uncle Chúc tore his shirt to swaddle her. She was shy—we called it ‘trơi’. Once, when Xuân Diệu visited, Huy Cận called: ‘O Kiến, come talk with me!’ She blushed and fled to the kitchen. He had to go down and coax her out. Like the other children, she was taught Chinese characters, Quốc Ngữ, and even French by our grandfather. She was very smart,” he emphasized.


With these memories, I came to understand that the “bashful leaves folding” were not just a reflection of mourning—they metaphorically embodied the shy, short-lived sister my father loved. Just as Nguyễn Du, another Hà Tĩnh poet, once wrote: “Every scene carries sorrow / How can the landscape be joyful if hearts grieve?”


Uncle Thước added:


“She died in an accident. She loved running and once fell, hitting her temple on a tea tree stump. Grandfather thought it minor and applied herbal leaves. But months later, the wound reopened, bled uncontrollably, and she died. They buried her at Bàu Sau.”


I asked, “Why is it called Bàu Sau?”


“Because it’s next to a small pond (bàu). That plain was used for burying children. Adults were buried on Mồng Gà slope. By custom, children’s graves had no markers, so only newly buried plots could be identified. Over time, they sank and vanished. We only know O Kiến rests somewhere on that field. When I was a child, I often passed by—birds called ‘tù tì, tụt tịt,’ worms hummed ‘rì rì,’ and ‘ghost lights’ flickered over new graves. It took three people to brave the night there.”


In mid-August 2019, my eldest son, Cù Huy Xuân Đức, returned to Ân Phú to formally take my place as head of the Tiểu tôn branch. He brought his wife, Lương Thị Mai Hương, and their 16-month-old daughter Cù Huy Xuân Thi. I asked them to visit Bàu Sau and burn incense for O Kiến—guided by Cù Huy Hoàng Nhật (Nguyễn Hoàng Nhật), son of Uncle Chúc. Later, my daughter-in-law sent me photos of the afternoon light shining on the mimosa plants at Bàu Sau.


image021Mimosa grove at Bàu Sau in the setting sun. Photo: Lương Thị Mai Hương


Returning to Phạm Duy’s 2000 visit with Huy Cận, the composer was deeply moved when my father shared the backstory of Ngậm Ngùi and of O Kiến. He told my father he had sensed that the poem was not purely a romantic reverie, and so chose a mournful mode (giọng oán, rooted in Huế court music) for his composition.


This brings us to a final reflection: why do listeners interpret Ngậm Ngùi as a love song, even though its origin expresses quite the opposite?


Art arises from life—but once born, it takes on a life of its own. Often, art no longer reflects its origin. Each person experiences and interprets a work according to their own context, regardless of the creator’s intent. In this sense, the experience of art becomes an art in itself—transcendent, metaphysical, and detached from its original reality. This highlights both the richness of art and the truth that it is an ongoing, ever-evolving process.


O Kiến!
Through your brother’s immortal poem Ngậm Ngùi, and Phạm Duy’s masterful composition, you have risen from Bàu Sau’s mimosa fields to forever become the dream-beloved of humankind.


Notes:


  1. Phạm Duy Memoirs, Chapter 15, PhamDuy.com
  2. In Nghệ An–Hà Tĩnh dialect, “O” means: (1) a girl/woman; (2) the sister of one’s father.
  3. Cù Huy Chử, Huy Cận’s youngest brother, was a Doctor of Philosophy and Secretary to Prime Minister Phạm Văn Đồng.
  4. Song Đôi Memoirs (The Youth of Huy Cận Xuân Diu), Huy Cận, Writers’ Association Publishing House, 2002.

image015
C.H.H.V

May 31, 2024
Garden Grove, California, USA


Author Cù Huy Hà Vũ holds a Doctorate in Law and a Master’s in Literature from the University of Paris. He is a graduate of France’s École Nationale d’Administration (ENA). A legal scholar, artist, and prominent Vietnamese dissident, he previously worked at the Vietnamese Ministry of Foreign Affairs for 30 years and was imprisoned for his pro-democracy activism. He currently resides in Garden Grove, California, with his wife, attorney Nguyễn Thị Dương Hà.
21 Tháng Mười 2024(Xem: 1431)