VĂN HÓA ONLINE – VĂN HỌC NGHỆ THUẬT 2 - THỨ TƯ 25 JUNE 2025
Nhà thơ Thiện Trí và thi tập Vạt Nắng Phù Hư. Đức Phật Dạy Yêu Thương, Chớ Hại Chúng Sinh

NGUYÊN GIÁC
Trong cõi đời thường, rất mực sôi động của thế giới muôn đời phân rẽ, và gay gắt hiển lộ trong các bản tin tôi dịch hàng ngày, đôi khi rời màn hình, tôi mở sách ra, đọc những dòng chữ của một nhà sư đang sống rất mực thơ mộng, như làn gió nhẹ buổi sớm. Những dòng thơ trong thi tập Vạt Nắng Phù Hư là một thế giới khác, không chỉ là khác với những tàn phá khốc liệt ở Ukraine với Gaza, thực tế không phải là một cõi nào trên mây, nhưng là một cõi tâm có sẵn trong từng người chúng ta.

Tôi kinh ngạc khi thấy mình có thể sống trong rất nhiều thế giới trong một ngày. Bật máy vi tính lên, tìm các bản tin thế giới và quê nhà qua Google, chọn tin và dịch. Từ những xúc động có khi rơi nước mắt khi đọc tin về nỗi đau đớn của những người đang sống dưới mưa bom như Palestine, Ukraine, cho tới nỗi lo lắng khi thấy các bản tin về Biển Đông và đói kém ở quê nhà, cho tới những sân si trong thế giới quyền lực ở Hoa Kỳ... Thời gian nghỉ tay, đọc những dòng thơ nơi này hay nơi kia, từ khắp thế giới, là hạnh phúc đời thường của tôi. Trong đó, tôi thường theo dõi những dòng chữ của nhà thơ Thiện Trí, người cũng là một thiền sư đang dạy Thiền thực nghiệm ở Nam California. Có khi tôi mở bản sách giấy ra xem, và có khi vào Facebook tìm đọc "Monk Thiện Trí."
Tất cả những giông bão ngoài trời đều sẽ biến mất, khi tôi đọc những dòng tự sự của nhà thơ Thiện Trí trong tập Vạt Nắng Phù Hư, nơi trang 30, trích:
“Tôi là chú tiểu hồn nhiên
Vô tư vô lự sống yên bên Thầy
Tháng ngày đạm bạc tương chay
Sáng chiều chuông mõ bến đời nhẹ trôi.”(VNPH, trang 30)
Nhưng đừng nghĩ đạm bạc tương chay đó là những ngày vô ích. Chính sự hồn nhiên đó, những ngày vô tư vô lự đó, mới là hành trang vững vàng để vào đời. Bởi vì, bạn hãy tin rằng, bộ áo giáp tuyệt vời nhất cho người tu là sự ngây thơ hồn nhiên. Và cũng là thần thông nữa: có mấy ai mà chuông mõ sáng chiều đẩy cho được rất dịu dàng bến đời nhẹ trôi. Bởi vì khi người ta muốn đẩy cho trôi bến đời, là họ đẩy hung hăng, là họ phóng chạy táo bạo, và thực tế như thế là không phải bước tới, mà là đang đi lùi thêm vào cõi vô minh.
Tôi không thích những chữ như "thế giới thi ca" hay "khung trời thi ca" hay vân vân gì khác, vì nghe trầm trọng quá, bởi vì mình không phải là phê bình gia. Chưa bao giờ tôi có ý muốn đóng vai nhà phê bình, dù là trong cương vị nhà báo, tôi vẫn đọc và theo dõi các bài phê bình và những cuộc hội thảo về văn học, triết học, tôn giáo, và đủ thứ chuyện trên đời. Nếu đôi khi tôi gõ chữ có ý phê bình ai (thí dụ, chuyện bầu cử Hoa Kỳ) thì chủ yếu là nói sự kiện, hay ghi lời người khác. Trong cõi này, tôi không muốn làm tổn thương bất kỳ chút gì trong cuộc đời, cho dù là làm rơi đi một chút bụi của người. Do vậy, tôi yêu thương thế giới thơ của nhà thơ Thiện Trí. Đó là thơ để kéo người đọc về một mảnh đất tâm rất dịu dàng và thơ mộng có sẵn, mà chúng ta thường đi lạc sang những cõi tranh chấp của đời thường.
Như hình ảnh hoàng hôn, trong buổi chiều tà. Tất cả chúng ta đều đã từng nhìn nhiều ngàn buổi hoàng hôn trong đời. Bây giờ mời bạn đọc không khí thơ và đạo khi nhà thơ Thiện Trí nói về hoàng hôn qua vài dòng văn rất thơ và rất đậm chất vô thường, như sau:
“Không biết tự bao giờ mà trong tôi mỗi khi nhìn hoàng hôn thì lòng lại “nghiêng” cùng vạt nắng chiều tây…
Cũng vậy, khi nhìn dòng sông và thuyền trôi, tôi lại thấy bến bờ định mệnh của kiếp nhân sinh như: “bóng câu ngoài cửa sổ!” Vạt nắng vẫn sáng, vẫn hồng mà vạt nắng của hoàng hôn thì đậm màu sông quê trong tôi. Nó có một chút gì đó man mác chiều buông lơi…” (Facebook: Monk Thiện Trí)
Nếu bạn quan tâm về Thiền, bạn có thể đọc về các lớp Thiền trên trang Facebook: Monk Thiện Trí. Nhưng nơi đây, tôi muốn nói về thơ. Bởi vì thơ là cội nguồn đẹp nhất của thế giới chúng ta. Hễ nhạt bớt chất thơ, là mưa bom, lửa đạn bay tới tấp. Bạn có thể kinh nghiệm: bất kỳ lúc nào mình sân si nổi giận, bạn không thể viết được bất kỳ dòng thơ nào, cho dù là vài chữ gọi được là thơ. Bởi vì thơ là cái sự thật ẩn giấu trong đời thường. Thiền không phải là thơ, nhưng chỉ là một phương tiện giúp chúng ta nhận ra thực tướng của cuộc đời. Thí dụ, như đoạn văn trên của nhà thơ Thiện Trí, thơ là khi nhìn vạt nắng nghiêng của hoàng hôn mà nhận ra cái ẩn sau của buổi chiều là pháp ấn vô thường, là dòng sông trôi chảy liên tục trong thân tâm và kiếp nhân sinh.
Tập thơ Vạt Nắng Phù Hư dày 240 trang, khổ vuông, bìa cứng, in trên giấy dày có vân. Tranh bìa trước là hình ảnh vạt nắng trên một cây tùng và sân cỏ. Trang bìa sau là tranh vẽ một ngôi chùa và mấy dòng thơ trên mây, như sau:
“Trăm năm, giấc mộng nghê thường
Trăm năm, vạt nắng còn ươm hạt đời
Sáng lên: sáng đất, sáng trời
Chiếu lên từ vạt sáng ngời phù hư!”
---- (Vạt Nắng Phù Hư)
Một thói quen nhận ra: đôi khi nhà thơ Thiện Trí dùng chữ Hán Việt và điển tích. Thí dụ, dòng đầu bốn câu trên là chữ “nghê thường.” Ca khúc Thiên Thai của nhạc sĩ Văn Cao cũng có lời nhạc nhắc chữ này: Khúc nghê thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn... Truyện thơ Bích câu kỳ ngộ của văn học Việt Nam thời thế kỷ 19 cũng có câu: Vũ y thấp thoáng nghê thường thướt tha. Nghĩa là, xiêm y của các nàng tiên trên trời.
Chữ “phù hư” cũng là từ Hán Việt. Trong Lời Giới Thiệu, nơi trang 6 tới 9, do Thầy Thích Như Điển viết, trích như sau:
“Trong tập thơ này có cả hàng trăm bài, Thầy Thiện Trí viết ở nhiều thể loại khác nhau như: lục bát, thơ tự do, thơ tự cảm, thơ Thiền v.v... đủ mọi thể tài. Nhiều khi Thầy ấy viết về những căn bệnh của thời đại COVID 19 hay những sự ra đi đột ngột của cố Hòa Thượng Thích Thái Siêu v.v... tất cả đều liên hệ đến sự vô thường sanh diệt của một kiếp người, một kiếp hoa, một kiếp phù sinh ví như cây cỏ, tuyết sương v.v... thật là tuyệt diệu.
Chữ Phù Vân (mây nổi) rất nhiều người dùng đến; còn chữ "Phù Hư" ít thấy ai dùng. Nếu giải rõ nghĩa thì đây chính là: Hư ảo nổi trôi cũng có thể được chăng? Nếu tra tự điển thì chúng ta có thể thấy thêm nhiều chữ bắt đầu bằng chữ phù như: Phù đồ, Thế, Phù Trần v.v...tất cả đều mang ý nghĩa là chẳng tồn tại lâu dài trên cõi thế.”
Tiểu sử của nhà thơ Thiện Trí ghi ngắn gọn nơi trang 2 của thi tập Vạt Nắng Phù Hư, trích như sau:
“Thầy Thiện Trí cũng là tác giả của hai tác phẩm bằng Anh Ngữ: Sharing From The Heart, Foundation Of Mindfulness.
Thích Thiện Trí tốt nghiệp cử nhân Phật Học tại Học Viện PG năm 1997-2001. Thầy định cư tại Hoa Kỳ năm 2002 và tốt nghiệp Thạc Sỹ Tôn Giáo Học (Master of Religious Studies). Năm 2015 đến 2019, Thầy mở trung tâm Thiền "Zen and Mind Family" tại bang Louisiana, TP New Orleans. Tại đây, Thầy đã được hai trường Đại Học Xavier và Loyola mời làm giảng viên môn "Kỹ Năng Thiền Phật Giáo" cho hệ đào tạo từ xa và hệ chính quy cho sinh viên đang học hệ cử nhân.
Hiện nay, Thầy Thiện Trí vừa tiếp tục ngành tiến sỹ tuyên úy Phật Giáo, vừa giảng dạy các lớp kỹ năng thiền tập cho người bản xứ qua hệ thống zoom và là khách mời thường xuyên cho các trường Đại Học cũng như hội liên Tôn Giáo tại xứ sở cờ hoa.” (ngưng trích)
Mấy đoạn tiểu sử trên nghe rất là công thức. Chúng ta có thể thông cảm, khi một nhà thơ (và là thiền sư) phải tự kể về mình. Thực ra, tôi ưa thích mấy dòng tiểu sử do thầy viết trong bài Am Mây Thiền nơi trang 10 và 11 của tập Vạt Nắng Phù Hư như sau:
“Chiều nay gió đi vắng
Mây trắng rủ nhau về
Am thiền lưng chừng núi
Mây ngự thật bình yên
.
Thiền Sư cùng ngồi đó
Không đợi gió, đợi mây
Mắt thiền dường khép lại
Trông như pho tượng đài.”(VNPH, trang 10-11)
Tiểu sử có tính công thức kia vẫn không đầy đủ, vì từ lúc ấn hành tập thơ cho tới bây giờ, đã có những chuyển biến trong đời của Thầy. Hiện này, Thầy Thiện Trí đang ghi danh học bậc Tiến Sĩ ở Đại học University of the West (https://www.uwest.edu/) trụ sở ở California, và đồng thời hướng dẫn các lớp thiền tại đại học này. Có thể, khi bạn đọc những dòng chữ này, Thầy đã hoàn tất học vị mới này. Tuy nhiên, quan tâm lớn của Thầy Thiện Trí chính là độ mình và độ người. Chúng ta đọc thấy suy nghĩ của nhà thơ thiền sư này ở lời tự sự nơi trang 214:
“Trong những ngày "dầu sôi lửa bỏng" của nạn dịch Covid-19 tại quê hương, hình ảnh Chư Tăng-Ni và nam nữ cư sĩ đã cùng nhau xắn tay áo lăn vào "cuộc chiến chống dịch" bằng cách đăng ký vào bệnh viện giúp đỡ các bệnh nhân, gom rau-củ-quả khắp nơi để giúp những người đang khốn khó. v.v...Nhìn những hình ảnh đó, tôi thấy lòng mình vui thật vui. Vì tôi nghĩ, lý tưởng giải thoát của những người "phát túc siêu phương" giờ thành những "Bồ Tát nhập thể" và hơn nữa chính họ "không sợ lây nhiễm" (chắc là nhờ năng lực tu tập và đủ tinh thần mạo hiểm) nên lăn vào cuộc chiến giúp đỡ những người khó khăn trong nạn dịch bùng phát này!
Cho tôi xin đầu thành đảnh lễ và cùng chung vui để góp phần "hoan hỷ" trong những hành động cao quý...” (Vạt Nắng Phù Hư, trang 214)
Chúng ta thường nghĩ về Thiền là cái gì nghiêm trọng lắm. Không, không hề nghiêm trọng. Với một tâm hồn rất mực hồn nhiên, bạn chỉ ngồi xuống, thở nhẹ nhàng là thấy Phật hiện ra liền, theo nhà thơ Thiện Trí giải thích, nơi trang 35, trong bài Đơn Giản Là:
Đơn giản là “hơi thở”
Tôi thấy hồn an yên
Thấy nụ cười Phật hiện
Thấy tôi... thật rất hiền
.
Thật vậy chỉ là thở
Thở trong và thở sâu
Thở vào tôi rõ biết
Thở ra nhận rõ liền. (VNPH, trang 35)
Phật hiện ra không chỉ trong hơi thở. Mà cũng hiện ra nơi bình hoa, trong tiếng chuông, hay khi nghe một câu kệ. Nhà thơ Thiện Trí gọi đó là Năng lượng khác, hoàn toàn xa lìa qua khứ và đau thương. Thầy giải thích về một lớp Thiền nơi trang 234, trích:
"Và các bạn biết không, chỉ cần tôi đặt trước mặt chúng tôi là một bình hoa tươi (dĩ nhiên là hoa thật) và một cái chuông nhỏ. Tôi mời các bạn ấy lắng nghe chuông. Tôi ngâm nga một câu kệ và chúng tôi thở những hơi thở trong, nhẹ, mát và đều... Khoảng 15 phút sau, tôi mời các bạn mở mắt ra thật nhẹ nhàng và mỉm cười với hoa cùng với tôi nữa. Thế là các bạn lập tức nhận ngay được năng lượng của tươi mát, của trong lành, của yêu thương và... một năng lượng tích cực ùa về. Năng lượng đó khác hẳn hoàn toàn với năng lượng của quá khứ, của đau thương, của thất vọng, của chán chường, của... nhiều vô số." (VNPH, trang 234)
Khi sống trong thế giới thơ mộng như thế, là phải cảm ơn thế giới của thơ, của hoa, của hơi thở, của chiều tà... Nhà thơ Thiện Trí, do vậy, đã viết nơi trang 33 như sau:
Cảm ơn ngày tháng truân chuyên
Cho ta hiểu chuyện không phiên, trách than
Cảm ơn hoa nở lại tàn
Cho ta thấu hiểu hợp tan lẽ thường. (VNPH, trang 33)
Có thể nói ngắn gọn về nhà thơ thiền sư Thiện Trí rằng, trong một cõi đầy bạo lực của thế kỷ 21, nơi hạnh phúc ẩn rất xa những cuồng nộ vô minh, nơi rất nhiều người nhìn mà không thấy và rất nhiều người nghe mà không nhận ra, những dòng chữ thơ mộng của Thầy đã trở thành ngón tay chỉ trăng, mời gọi chúng ta tỉnh thức và nhận ra một cõi bình an chưa từng xa lìa chúng ta.
Độc giả có thể liên lạc với nhà thơ Thiện Trí qua:
Tu Viện Phổ Quang
824 Sandy Lane
Fort Worth, TX 76120, USA
Hay điện thoại: 504-505-5887. Hay qua Email: zenandmind@gmail.com
Không phải sao, cuộc đời của mỗi chúng ta luôn luôn là một vạt nắng nghiêng, nơi đó tự thân chính là ánh sáng đang khởi dậy và cũng chính là những lụi tàn tự thân. Hãy nhìn thấy một thực tướng này, mỗi người chúng ta là một vạt nắng, và thế giới người trong cõi này là vô lượng vạt nắng đang đi, đang đứng, đang ngồi, đang viết, đang thở, đang yêu thương nhau và kể cả đôi khi căm thù nhau. Tại sao vạt nắng này lại cố ý làm tắt vạt nắng kia, trong khi lẽ ra chúng ta có thể làm cho cõi này từ bi hơn, rực sáng hơn, khi vạt nắng này cười với vạt nắng kia, và cùng ngồi tụng Tâm Kinh để thấy đời mình và người cũng chỉ là những vạt nắng rỗng rang, vô tự tánh, rất mực là thơ.
Đức Phật Dạy Yêu Thương, Chớ Hại Chúng Sinh
NGUYÊN GIÁC
Đức Phật có dạy pháp phóng sinh hay không? Trong rất nhiều kinh, Đức Phật đã dạy là hãy yêu thương và đừng hại bất kỳ sinh mạng chúng sinh nào. Lời dạy đó cũng có thể hiểu là dạy phóng sinh. Đức Phật cũng đã quy định nhập hạ ba tháng mỗi năm trong mùa mưa để tránh giẫm đạp, vô ý sát sinh các loài côn trùng và mầm non cây trồng. Sau đây, chúng ta dò lại một số lời Đức Phật dạy rằng hãy yêu thương và đừng hại bất kỳ sinh mạng chúng sinh nào.
Về lời dạy đừng giết và đừng bảo người khác sát sanh, chúng ta thấy ít nhất là có ba bài kệ từ Kinh Pháp Cú, theo bản dịch của Thầy Minh Châu như sau.
Mọi người sợ hình phạt;
Mọi người sợ tử vong;
Lấy mình làm ví dụ
Không giết, không bảo giết;
Mọi người sợ hình phạt;
Mọi người thích sống còn;
Lấy mình làm ví dụ,
Không giết, không bảo giết,
Bỏ trượng, đối chúng sanh,
Yếu kém hay kiên cường,
Không giết, không bảo giết,
Ta gọi Bà-la-môn.
Trường hợp bài Kệ 405, câu chuyện là về một vị Tỳ kheo không hề khởi chút tâm giận dữ, hay niệm oán hận nào khi bị đánh, bị đập thê thảm. Khi cư trú tại tu viện Jetavana, Đức Phật đã đọc Bài kệ 405 ghi lại trong Kinh Pháp Cú liên hệ tới một vị Tỳ kheo.
Một lần, một Tỳ kheo sau khi học một đề tài thiền từ Đức Phật đã đi vào một khu rừng để thực hành
thiền định. Sau khi đạt được quả vị A la hán, thầy đã quay trở lại Đức Phật để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với Đức Phật. Trên đường đi, nhà sư đi qua một ngôi làng. Ngay khi nhà sư đang đi qua ngôi làng, một người phụ nữ cãi nhau với chồng đã đi ra khỏi nhà và đi theo Tỳ kheo. Người chồng đi theo vợ, nhìn thấy bà bước ở phía sau Tỳ kheo, nghĩ rằng Tỳ kheo đang đưa vợ mình đi. Vì vậy, ông đã hét vào mặt Tỳ kheo và đe dọa sẽ đánh ông. Vợ ông đã cầu xin ông đừng đánh nhà sư, nhưng điều đó khiến ông càng tức giận hơn. Kết quả là, nhà sư đã bị người chồng đánh bầm dập, thâm tím mặt mũi.
Sau khi đánh nhà sư kheo một cách hả hê, ông kia đưa vợ đi về, trong khi vị Tỳ kheo tiếp tục lên đường.
Khi đến tu viện Jetavana, các Tỳ kheo khác nhìn thấy những vết bầm tím trên toàn bộ cơ thể của Tỳ kheo và họ chăm sóc những vết bầm tím của nhà sư. Khi họ hỏi Tỳ kheo rằng ông có giận phiền gì với người đã đánh ông rất đau đớn không, nhà sư trả lời là không. Tức là, ngài không còn tâm sân nữa. Vì vậy, các Tỳ kheo khác đã đến gặp Đức Phật và báo cáo rằng Tỳ kheo đã tuyên bố sai sự thật rằng ông đã đạt được quả vị A-la-hán. Đức Phật trả lời họ, “Các Tỳ kheo! Các vị A-la-hán đã bỏ gậy gộc và kiếm. Họ không sân giận ngay cả khi bị đánh.” Do đó, Đức Phật xác nhận rằng Tỳ kheo thực sự đã trở thành một vị A-la-hán.
Rồi Đức Phật đọc bài Kệ 405 trên.
Người cư sĩ, còn gọi là người áo trắng, khi thọ nhận năm giới từ thầy bổn sư, sẽ thấy giới đầu tiên là giới sát. Đức Phật giải thích rộng hơn, rằng không chỉ không giết, mà còn phải trừ bỏ tâm làm hại sinh vật, kể cả đối với loài côn trùng, phải nuôi dưỡng tâm từ bi, và phải làm lợi ích cho tất cả.
Kinh MA 128, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ, ghi về lời Đức Phật dạy về pháp đầu tiên người cư sĩ phải giữ gìn là, trích: “Xá-lợi-phất, thế nào là bạch y Thánh đệ tử khéo giữ gìn và thực hành năm pháp? Đó là bạch y Thánh đệ tử xa lìa sát sanh, vứt bỏ dao gậy, có tâm tàm quý, tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả, cho đến loài côn trùng, người ấy đối với sự sát sanh, tâm đã tịnh trừ. Đó là pháp thứ nhất mà bạch y Thánh đệ tử đã giữ gìn và thực hành một cách hoàn hảo.” (ngưng trích)
Có một bản Kinh nổi tiếng, cho thấy Đức Phật đã hiện ra để ngăn cản trước một kẻ sắp giết người. Đó là Kinh Angulimāla Sutta (Kinh MN 86). Nơi đây, chúng ta tóm lược bản kinh cứu mạng người như sau.
Vào thời Đức Phật, vị Bà-la-môn Bhaggava Gagga, Tuyên úy Hoàng gia triều vua Pasenadi, có con trai tên Ahimsaka (nghĩa là Vô hại), sinh ra dưới chòm sao dữ. Khi Ahimsaka ra đời, vũ khí trong thành Savatthi lấp lánh kỳ lạ. Vua khuyên hãy nuôi dạy cậu bé đúng cách để hóa dữ thành lành.
Ahimsaka lớn lên thông minh, khỏe mạnh, được gửi học tại đại học Takkasila. Học xuất sắc, cậu bị bạn học ganh ghét, gièm pha với thầy rằng cậu muốn giết thầy. Thầy giáo tin lời, bèn yêu cầu Ahimsaka mang đến một ngàn ngón tay người làm lễ tốt nghiệp. Vì kính thầy, Ahimsaka vâng lời, vào rừng Jalini, chận đường để giết người, lấy ngón tay kết thành vòng hoa — từ đó được gọi là Angulimala.
Angulimala gieo rắc kinh hoàng, làm dân chúng bỏ làng, vua phải cử binh lính tới bắt. Trong khi ấy, mẹ chàng vì thương con đã đi tìm, đúng lúc Angulimala đã có 999 ngón tay, còn thiếu một ngón tay cuối.
Nếu gặp, chàng có thể sát hại mẹ — tội lớn nhất.
Đức Phật nhận biết, nên đi đến can thiệp. Khi Angulimala thấy Phật, liền đuổi theo để giết, nhưng dù chạy nhanh hết sức, vẫn không bắt kịp. Khi xin Phật dừng lại, ngài đáp rằng chính Phật đã dừng — đã dứt bạo lực, còn Angulimala chưa dừng. Nghe vậy, Angulimala tỉnh ngộ, xin xuất gia làm đệ tử Phật.
Một lần, thấy một sản phụ đau đẻ nguy hiểm, Angulimala được Phật dạy hãy tuyên lời chân thật rằng từ khi xuất gia, nhà sư Angulimala chưa từng sát sinh. Nhờ lời sự thật ấy, mẹ tròn con vuông. Cuối đời, Angulimala chứng quả A-la-hán, từ kẻ sát nhân trở thành bậc Thánh.
Trong một kinh trong Tiểu Bộ, Kinh Snp 1.3, chúng ta thấy ngay 4 câu đầu là lời Đức Phật dạy các nhà sư đừng làm hại chúng sinh nào hết. Nơi dây, chúng ta dịch bốn câu đầu như sau:
Khi người đã buông vũ khí xuống đối với tất cả các sinh vật, không làm hại dù chỉ một con, đừng mong ước có con, huống chi là cần bạn đồng hành: hãy sống một mình như một con tê giác có sừng.
Có một trường hợp, Đức Phật đã dạy hãy nấu cỗ chay. Đức Phật đã dạy rằng khi lễ tế đàn, đừng làm hại con thú nào, ngay cả đừng chặt cây, chặt cối. Thậm chí, cũng không có một lời dọa nạt nào, hay bất kỳ lời nào gây ra sợ hãi. Kinh DN 5 ghi lời Đức Phật dạy, qua bản dịch của Thầy Minh Châu như sau:
“Này Bà-la-môn, trong lễ tế đàn này, không có trâu bò bị giết, không có dê cừu bị giết, không có gà heo bị giết, không có các loại sinh vật nào khác vị sát thương, không có cây cối bị chặt để làm trụ cột tế lễ, không có loại cỏ dabba (cỏ cát tường) bị cắt để rải xung quanh đàn tế. Và những người gia bộc hay … người đem tin hay những người làm thuê không bị dọa nạt bởi hình phạt, không bị dọa nạt bởi sợ hãi và không làm việc trong than khóc với nước mắt tràn đầy mặt mày. Chúng muốn thì chúng làm, chúng làm những gì chúng muốn. Tế đàn nay được hoàn tất chỉ với dầu, sanh tô, thục tô, mật và đường miếng.” (ngưng trích)
Trong khi đó, nơi Kinh Snp 1.8, Đức Phật dạy rằng người tu hãy tự xem mình như người mẹ đối xử tất cả các chúng sanh y hệt như đối với đứa con độc nhất. Kinh Từ Bi, Metta Sutta, Snp 1.8. Bản dịch Thầy Minh Châu, trích như sau:
Như tấm lòng người mẹ,
Đối với con của mình,
Trọn đời lo che chở,
Con độc nhất mình sanh.
Cũng vậy, đối tất cả
Các hữu tình chúng sanh,
Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng, rộng lớn.
Truyền thống Việt Nam dùng chữ “phóng sinh” có lẽ dễ gây ngộ nhận. Chữ này cũng trầm trọng quá, thiếu tự nhiên. Nghe có vẻ như sau một cuộc chiến, vị vua chiến thắng đã tha mạng cho các tù binh phe địch. Truyền thống tôn trọng sinh mạng chúng sinh, kể cả các côn trùng, và các cây trồng, không hề mang ý nghĩa của chuyện phe chiến thắng tha mạng các tù binh mình đang bắt giữ.
Đức Phật dạy chỉ đơn giản là, hãy yêu thương tất cả các chúng sinh, kể cả côn trùng, và cây trồng, trong cõi này. Và chớ làm hại tới bất kỳ chúng sinh nào. Đó cũng là hàm nghĩa của phóng sinh.
THAM KHẢO:
. Kinh Pháp Cú. Bản dịch Thầy Minh Châu:
https://thuvienhoasen.org/p15a7964/pham-21-26
. Dhammapada Verse 405. Translated by Daw Mya Tin:
https://www.tipitaka.net/tipitaka/dhp/verseload.php?verse=405
. Kinh MA 128. Bản dịch Thầy Tuệ Sỹ:
https://suttacentral.net/ma128/vi/tue_sy
. Kinh MN 86. Truyện Angulimala. Bản dịch Thầy Minh Châu:
https://suttacentral.net/mn86/vi/minh_chau
. Kinh Snp 1.3. Không làm hại dù chỉ một chúng sinh.
https://suttacentral.net/snp1.3/en/sujato
. Kinh DN 5. Lễ tế đàn không sát sanh. Bản dịch Thầy Minh Châu:
https://suttacentral.net/dn5/vi/minh_chau
. Kinh Từ Bi, Snp 1.8. Bản dịch Thầy Minh Châu:
https://suttacentral.net/snp1.8/vi/m