Viết về Bố: "Người Ở Lại Charlie"

01 Tháng Hai 201512:00 SA(Xem: 37140)
"TRANG CỦA LÍNH - "NHẬT BÁO VĂN HÓA - CALIFORNIA" THỨ HAI 02 FEB 2015

Con trai của "Người Ở Lại Charlie" viết về Bố

image073
(Phải): Trung tá Nguyễn Đình Bảo

Nguyễn Bảo Tuấn:"Tại sao Bố không giữ lời hứa với Mẹ?"

BÀI VIẾT CỦA NGUYỄN BẢO TUẤN CON ÚT CỐ ĐẠI TÁ NGUYỄN ĐÌNH BẢO

Trên FB tôi thấy đại đa số thường chọn hình mình hoặc hình con mình để làm avatar, ít hơn một chút thì lấy hình của người yêu, vợ hoặc chồng, hoặc một hình gì đó mà mình yêu thích. Riêng tôi thì tôi lại chọn một đối tượng khác mà hình như tôi thấy chưa một ai chọn giống như tôi: một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi. Tôi sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh đầy phong ba bão táp. Cả nhà 6 người mà chỉ có một chiếc xe đạp thay phiên nhau đi, gạo thì chạy ăn từng bữa, anh trai tôi ngày ngày cứ 5h sáng phải chạy lên Gò vấp để lấy bánh đậu xanh về đi bỏ cho các tiệm bánh rồi mới về đi học trong suốt 7 năm trời, từ năm học lớp 11 đến hết năm thứ 6 Y khoa.
Khó khăn là vậy nhưng tôi vẫn trưởng thành một cách đầy kiêu hãnh. Đôi khi nhìn lại tôi tự hỏi là điều gì đã giúp tôi mạnh mẽ mỗi khi đương đầu với những khó khăn? Và câu trả lời là do trong huyết quản tôi vẫn đang mang một dòng máu nóng trong mình và tôi đã đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ người đã cho tôi dòng máu ấy: một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi.

Tôi cũng không biết tại sao tôi và người đó chỉ gặp gỡ và tiếp xúc trong có vài chục ngày, chính xác là từ ngày 06/01/1972 đến ngày 25/03/1972, mà tôi lại luôn luôn thương mến, cảm phục, tự hào và luôn lấy người làm tấm gương soi để tôi có đủ nghị lực vượt qua mọi khó khăn. Có lẽ là do cuộc sống của người quá vĩ đại và tôi đã được thừa hưởng một phần của nó. Mặc dù khi ra đi người đã không thực hiện được một lời hứa với mẹ tôi mà cho tới bây giờ tôi vẫn hỏi: “Tại sao?” 
Charlie, tên nghe quá lạ! 
“Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ...Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt…
Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy. Mùa Hè năm 1972- Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ toàn diện. 

Nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972, thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum.
Charlie, "Cải Cách," hay "C," đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Đường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.”
(Trích trong "Mùa hè đỏ lửa" của Phan Nhật Nam)
Charlie bỗng trở thành một địa danh được nhắc nhớ từ sau 4000 quả đạn pháo tới trong một ngày, từ sau người mũ đỏ Nguyễn Đình Bảo nằm lại với Charlie. 
(Trích lời giới thiệu trong CD Chiến tranh và hòa bình của Nhật Trường Trần Thiện Thanh) 

Cho đến bây giờ cũng ít người biết rằng tôi chính là “đứa bé thơ” với “tấm khăn sô bơ vơ ” trong bài hát “Người ở lại Charlie” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Và tôi lớn lên cùng với ký ức về một người Cha hào hùng như vậy.
Tôi không thần tượng Cha tôi từ một bài hát viết về người, cũng không thần tượng từ một hai trận đánh trong cuộc đời binh nghiệp của người, mà tôi thần tượng Cha mình từ chính cuộc đời của Người. Trải qua biết bao thăng trầm đời binh nghiệp và cuối cùng người đã được giao làm tiểu đoàn trưởng của tiểu đoàn “Song kiếm trấn ải” (biệt danh của tiểu đoàn 11 nhảy dù), một trong những tiểu đoàn được xem là thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa thời bấy giờ.

image075

Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Cha tôi là một người khát máu hung tàn, mà ngược lại hoàn toàn, mọi người đều nhớ về hình ảnh Cha tôi như là một võ sĩ đạo đúng nghĩa : giỏi võ, dũng cảm và cao thượng. Thời bấy giờ có mấy ai dám đánh một sĩ quan của Mỹ, vậy mà Cha tôi đã làm điều đó khi người sĩ quan đó dám làm nhục một người lính Việt Nam (chuyện này tôi được nghe bác ruột tôi kể lại). Có tiểu đoàn nào trong quân đội mà luôn gọi Tiểu đoàn trưởng bằng tên thân mật “Anh Năm”?, nhất là trong binh chủng Nhảy dù, việc phân chia cấp bậc luôn được tôn trọng và đặt lên hàng đầu. Vậy mà trong tiểu đoàn 11 Nhảy dù, tất cả mọi người từ lính đến sĩ quan chẳng ai gọi Cha tôi là Trung tá cả, mà luôn gọi là Anh Năm, và “Anh Năm” thường hay nói với mọi người trong tiểu đoàn rằng : “Tụi mày thì chẳng biết mẹ gì, nhưng tất cả tụi mày tao đều coi là em tao hết” 


“Anh Năm,
Ngoài đời Anh sống hào sảng, phóng khoáng và thật "giang hồ" với bằng hữu anh em, còn trong quân ngũ, Anh như một cây tùng ngạo nghễ giữa bão táp phong ba, Anh không nịnh cấp trên đè cấp dưới, Anh chia xẻ vinh quang buồn thảm với sĩ quan và binh sĩ thuộc cấp. Anh sống hùng và đẹp như thế mà sao lúc ra đi lại quá phũ phàng!? 

image076

Tôi về lại vườn Tao Đàn, vẫn những hoa nắng tròn tròn xuyên qua khe lá, lấp loáng trên bộ đồ hoa ngụy trang theo mỗi bước chân. Cây vẫn xanh, chim vẫn hót, ông lão làm vườn vẫn lom khom cầm kéo tỉa những chùm hoa loa kèn, những cụm hoa móng rồng và những bụi hồng đầy mầu sắc. Bên gốc cây cạnh căn lều chỉ huy của Anh hồi tháng trước khi còn đóng quân ở đây, tôi thấy có bó hồng nhung đỏ điểm vài cánh hoa loa kèn trắng.
Chống đôi nạng gỗ xuống xe, tiếng gõ khô cứng của đôi nạng trên mặt đường khiến ông lão ngẩng đầu và nhận ra tôi. Xiết chặt tay ông cụ, trong ánh mắt già nua chùng xuống nỗi tiếc thương, chòm râu bạc lưa thưa phất phơ trước gió. Ông cụ đọc báo, nghe đài phát thanh nên biết Anh đã ra đi, nên sáng nào cũng để một bó hoa tưởng nhớ và tiễn đưa Anh. Cụ mời tôi điếu thuốc Quân Tiếp Vụ, rồi ngồi xuống cạnh gốc cây, tay vuốt nhẹ trên những cánh hồng, sợi khói mỏng manh của điếu thuốc nhà binh quện trong tiếng nói: 

"- Thuốc lá Ông Quan Năm cho, tôi vẫn còn đủ dùng cho đến cuối năm. Mấy chục năm nay tôi mới gặp một ông quan nói chuyện thân mật và tốt bụng với những người dân như tôi. Người tốt mà sao Ông Trời bắt đi sớm như vậy!? "
(Trích trong "Máu lửa Charlie" của Đoàn Phương Hải) 

Cha tôi đã sống như thế nào mà những người ít ỏi còn sống sót trở về sau trận chiến tại đồi Charlie đều nói là họ thật hối tiếc khi không được nằm xuống cùng Cha tôi ở đó.
“Tô Phạm Liệu cảm thấy lẻ loi ở cái đại hội y sĩ có nhiều những người “mặc quần mới áo đẹp” và “ăn to nói lớn”, thích “nhảy đầm” và “xếp hàng để lên hát”... Trong cơn say, anh nói là phải chi trước kia, mười mấy năm trước kia, anh được “ở lại Charlie” với Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, với các bạn nhảy dù thì “sướng hơn nhiều.”
(Trích trong "Tô Phạm Liệu : người trở lại Charlie" của Phạm Anh Dũng)


Viên sĩ quan cố vấn Mỹ Duffy cho tới tận bây giờ vẫn còn luôn mang trong người những hoài niệm về Cha tôi và trận chiến tại Charlie. Mỗi lần tham gia các cuộc gặp gỡ của hội cựu chiến binh Việt Nam (trong đó có một số hiện đang là tướng lãnh cao cấp trong quân đội Mỹ) ông ta đều hỏi mọi người “Tụi mày có từng tham gia trận Charlie không, tụi mày có ai từng chiến đấu cạnh Colonel Bao (Trung tá Bảo) chưa? Thế thì tụi mày còn xoàng lắm. Và hàng năm cứ mỗi lần sinh nhật của mình, ông ta đều đặt một ổ bánh kem làm hình một ngọn đồi và ghi chữ Charlie lên đó. (Chuyện này do Chú Đoàn Phương Hải khi về Việt Nam năm 2011 thuật lại cho tôi nghe)
Cha tôi đã sống như thế nào để một người Mỹ phải luôn khắc trong tâm khảm những hoài niệm như vậy?
Tôi chỉ có thể kết luận một câu : “Cuộc đời của Cha thật vĩ đại”
Ngày hôm nay khi viết về Cha, tôi không biết viết gì hơn, chỉ xin dâng về hương hồn Cha một vài câu thơ nói về khí phách của Người và nơi mà Cha đã gửi lại thân xác của Người vĩnh viễn cho núi rừng Charlie. Ở đây tôi xin dùng từ "Cởi áo trần gian" vì tôi tin rằng Cha vẫn đang khoác một chiếc áo khác và vẫn đang nhìn tôi từ một nơi rất xa…

Lặng lẽ ngàn năm chẳng danh xưng
Bỗng chốc một hôm hóa lẫy lừng
Charlie gầm thét trong lửa đạn
Gọi mãi tên người nước mắt rưng
Trai thời nỗi chết tựa trên lưng
Khí phách hiên ngang bước chẳng dừng
Charlie vẫy gọi người ở lại
Cởi áo trần gian tặng núi rừng
(Kính dâng tặng hương hồn Cha)
 

image077
Sinh nhật mẹ tôi ngày 11/04. Trước khi hành quân vào Charlie ngày 25/03 Cha tôi đã đặt một chiếc bánh sinh nhật cho mẹ với lời hứa là sẽ về dự sinh nhật của mẹ. Đến ngày sinh nhật mẹ đã không tổ chức mà vẫn chờ Cha về, và cho đến tận bây giờ mẹ vẫn chờ…
Tuy nhiên Cha đã thất hứa với mẹ vì ngày 12/04 Cha đã cởi áo trần gian và nằm lại vĩnh viễn với Charlie. Còn tôi, tôi chỉ biết hỏi là tại sao Cha lại không giữ lời hứa với mẹ tôi? Tại sao và tại sao…?...

Nguyễn Bảo Tuấn

++++++++++++++++++++++++++++++

Nghệ An

"Liệt sĩ" trở về sau 40 năm sống ẩn dật trong rừng sâu

Dân trí - Sau hơn 40 năm được công nhận là liệt sĩ, ông Nguyễn Chánh Nhường bỗng trở về như một phép màu của cuộc sống

Liệt sĩ trở về sau hơn 40 năm

“Liệt sĩ” Nguyễn Chánh Nhường (SN 1955, trú tại xóm 19, xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An) bỗng trở về sau hơn 40 năm “đã hy sinh” khiến dư luận tại vùng quê nghèo xôn xao.

image079
Giấy báo tử gửi về cho gia đình ông Nhường.
image081 
Ông Nhường trở về sau mấy chục năm được người thân làm giỗ.

Ông Nguyễn Chánh An (SN 1960) em trai “liệt sĩ” Nguyễn Chánh Nhường xúc động nhớ lại giây phút trùng phùng với người anh trai sau hơn 40 năm xa cách: “Tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Hôm đó vào ngày 18/3/2014, anh ấy bỗng trở về rồi đi lang thang trong làng. Cơ thể rất yếu ớt, trên người chỉ mặc một bộ quần áo rách nát cáu bẩn. May mà chị gái tôi đã nhận ra được anh Nhường nhờ nốt ruồi lớn ở cánh tay trái. Cả nhà tôi vui mừng khôn xiết chỉ biết ôm lấy anh mà khóc. Bởi đến giờ phút đó ai cũng nghĩ anh ấy đã hi sinh từ rất lâu rồi”.

Theo ông An, trong giấy báo tử mà gia đình nhận được, ông Nhường nhập ngũ năm 1971, ở đơn vị Đ22 tham gia chiến đấu tại chiến trường phía nam Quân khu IV. Đến năm 1973 gia đình nhận được tin ông Nguyễn Chánh Nhường đã “mất tích”. “Khi đó mẹ tôi đã khóc cạn nước mắt lúc nhận được tin anh trai đã mất tích và cũng từ đó cả gia đình không nhận được thông tin gì về anh Nhường nữa”, ông An xúc động nhớ lại . 

image083
Bằng tổ quốc ghi công chứng nhận ông Nhường đã hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và được công nhận là liệt sĩ.

Tuy nhiên, gần 20 năm sau gia đình mới nhận được giấy báo tử từ đơn vị. Theo giấy báo tử số 2807 mà đơn vị báo về cho địa phương, gia đình vào ngày 25/06/1992, trong đó ghi rõ ông Nguyễn Chánh Nhường (SN 1949) nhập ngũ năm 1972, thuộc đơn vị D22, cấp bậc Hạ sỹ, chức vụ chiến sĩ, hy sinh vào năm 1973 tại chiến trường phía Nam nhưng chưa được tìm thấy hài cốt.

Đến tháng 9/1992, gia đình được nhận Bằng “Tổ quốc ghi công” số DE - 145, ngày 6/4/1073 ghi rõ: Liệt sĩ Nguyễn Chánh Nhường đã hy sinh trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Cùng năm đó, chính quyền địa phương đã làm lễ truy điệu cho ông Nhường và đưa vào thờ cúng tại nghĩa trang liệt sĩ của xã Quỳnh Lâm. Bà Nguyễn Thị Tiệc (SN 1913, mẹ ruột của liệt sĩ Nhường) đồng thời được hưởng chế độ giành cho thân nhân liệt sĩ từ năm 1992 đến khi bà mất là năm 2001.

image085
Ông Nhường và ông An (em ruột) tâm sự cùng PV tại buổi làm việc.

“Tôi chỉ nhớ được rằng sau khi mình cùng các đồng đội bị trúng bom rồi bị bắt đi. Sau đó chúng tưởng tôi đã chết rồi vứt xác vào rừng sâu. Tôi tỉnh lại thấy toàn thân bê bết máu, chỗ nào cũng đau. Tôi cố lết dậy đi hái lá cây ăn, rồi đắp lên các vết thương mà cố sống qua ngày ở núi rừng chẳng biết gì về thế giới bên ngoài”, ông Nguyễn Chánh Nhường nhớ lại.

Hàng chục năm ông sống một mình trong rừng sâu, hái lá cây để ăn, múc nước suối để uống… tồn tại qua ngày. Bản thân ông Nhường cũng không nhớ được mình ở đơn vị nào, quê quán ở đâu. Ông cũng không biết đi hướng nào để ra khỏi khu rừng rậm, rộng.

Cho đến một ngày như tiềm thức mách bảo, như có ai đó thôi thúc, ông đi ra khỏi khu rừng… Và những bước chân mệt mỏi đưa ông về quê hương.

“Ra khỏi rừng thì tôi cứ đi bộ như vậy. Cũng không nhớ được rằng mình đã đi bao nhiêu năm, bao nhiêu ngày nữa. Vừa đi tôi bứt cỏ dại ven đường, rồi ai cho gì thì ăn nấy. Lúc mệt quá thì nằm nghỉ. Về đến đây thì tôi đi vào làng và cứ lang thang mà chẳng biết mình đang ở quê...”, ông Nhường kể lại.

Cuộc sống khó khăn ngày trở vể

Từ ngày nhập ngũ cho tới ngày gia đình nhận được Bằng Tổ quốc ghi công và nhận được tiền hỗ trợ cho đến năm 2001, thì bố mẹ ông Nhường đã qua đời cũng vì thế mà ngày ông trở về phải ở với người anh, người em cho qua ngày đoạn tháng.

Dù được gia đình anh, em đưa về chăm sóc nhưng những ngày đầu ông Nhường vẫn giữ thói quen của một “người rừng” thực thụ: “Anh ấy thích ăn rau và không ăn được cá, thịt. Những ngày đầu anh ấy luôn ra ngoài bờ bụi hái các loại cây dại nhai ăn ngon lành. Thấy vậy mọi người cũng hái làm sạch rồi luộc cho ông ăn và ông vui lắm. Trong trí nhớ của ông bây giờ cũng không nhớ tên các anh em trong gia đình nữa. Trái lại anh tôi khi nào cũng nói chuyện một mình với những câu chuyện mà không ai hiểu” - ông Nguyễn Chánh An tâm sự về người anh trai của mình.

image087
Từ ngày trở về, ông đi bốc than xỉ trong làng mưu sinh

image089
Theo gia đình anh em, thì từ ngày trở về ông đang cố nhớ những tháng ngày ăn rừng ngủ rú.

Đến thời điểm hiện tại trí nhớ của “liệt sĩ” vẫn rất mơ màng, lúc tỉnh lúc mê. Những tháng ngày được anh em chăm sóc, ông cũng đã khỏe hơn trước nhiều phần. Biết ăn thịt, ăn cá, ăn cơm như người bình thường. Tuy nhiên mỗi lúc trái gió trở trời vết thương cũ tái phát thì ông lại ngã bệnh đau ốm triền miên.

Thường ngày ông Nhường ra làm công việc vặt tại một lò đốt vôi ở địa phương để kiếm thêm thu nhập và tự trang trải cho cuộc sống của mình: “Gia đình các em cũng nghèo nên chúng cũng khó khăn. Tôi xin làm các việc vặt ở lò đốt vôi. Mỗi ngày người ta trả cho vài ba chục ngàn lấy đó mà sống qua ngày. Cũng là có việc làm để cho khuây khỏa chứ ở nhà một mình buồn lắm” ông Nhường chia sẻ.

Nhìn người lính già nhọc nhằn bốc từng gánh vôi để mưu sinh chúng tôi vô cùng xót xa. Chiến tranh đã cướp đi của ông tất cả, tuổi thanh xuân, sức khỏe. Suốt hàng chục năm trời người lính ấy phải tồn tại như “người rừng” ăn lá cây, uống nước suối để sống. Khi trở về những vết thương trên cơ thể còn chưa lành hẳn, tinh thần vẫn còn chưa tỉnh táo. Vậy mà ông vẫn phải lao động vất vả để tồn tại qua ngày. Gia đình cho biết đến thời điểm hiện tại khi “liệt sĩ” đã trở về quê hương được gần 1 năm mà vẫn chưa nhận được chế độ gì.

Phóng viên đã có buổi làm việc với ông ông Lê Văn Hưng xã đội trưởng Quỳnh Lâm về trường hợp “liệt sĩ” Nguyễn Chánh Nhường. Ông Hưng cho biết: “Ngay sau khi nhận được thông tin ông Nhường trở về chúng tôi cùng với UBND xã cũng đã trược tiếp xuống tận gia đình để thăm hỏi động viên sức khỏe đồng thời báo cáo sự việc lên Ban chỉ huy quân sự và Phòng Lao động Thương binh và xã hội huyện để cắt chế độ hương khói và hướng dẫn gia đình làm các thủ tục cần thiết để ông Nhường được hưởng theo quy định của nhà nước”.

image091
Ông ra đi khi mẹ còn khỏe, giờ ông về mẹ đã chết được hơn 20 năm.

Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, sau gần 1 năm từ “cõi chết trở về”, ông Nguyễn Chánh Nhường vẫn chưa được hưởng bất kỳ chế độ nào. Trả lời vấn đề trên, ông Hưng cho biết thêm: “Phía Ban chỉ huy quân sự huyện cùng xã đã trực tiếp nhiều lần xuống tận gia đình hướng dẫn. Trường hợp của ông Nhường sẽ được hưởng chế độ theo Nghị định 142 và sẽ được truy lĩnh một lần. Nhưng phía gia đình mong muốn ông Nhường được nhận hỗ trợ theo chế độ hàng tháng. Vấn đề này chúng tôi cũng đã báo cáo lại cho huyện để có phương án cụ thể đối với trường hợp của ông Nhường”.

Thiếu tá Trần Văn Thư - cán bộ phụ trách chế độ chính sách Ban Chỉ huy quân sự huyện Quỳnh Lưu - cho biết: “Sau khi nhận được thông tin về ông Nhường chúng tôi đã nhiều lần cho cán bộ về trực tiếp gặp ông, gặp gia đình để thăm hỏi sức khỏe của ông ấy. Đồng thời xác minh và làm các thủ tục cần thiết để ông Nhường được hưởng các chế độ theo quy định của Nhà nước. Theo Nghị định số 142/2008/QĐ-TTD thì trường hợp của ông Nhường theo như gia đình khai báo, có dưới 10 năm công tác trong quân đội thì sẽ được hưởng chế độ truy lĩnh 1 lần. Nhưng phía gia đình mong muốn được hỗ trợ cho ông Nhường theo chế độ hàng tháng nên chúng tôi cũng đang trong quá trình xem xét, xác minh cụ thể”.

image093
Ông Nhường trong một lần đi bốc vôi cho anh em trong xóm làng.

Thiếu tá Trần Văn Thư cho biết thêm: “Trường hợp của ông Nguyễn Chánh Nhường cũng rất đặc biệt nên cần xem xét kỹ bởi hiện sức khỏe, trí nhớ của ông không còn được minh mẫn. Hoàn cảnh lại neo đơn vì vậy chúng tôi sẽ tạo điều kiện hỗ trợ trong phạm vi có thể để cuộc sống của đổng chí ổn định hơn trong thời gian tới”.

Ông Lê Đức Cường - Bí thư Huyện ủy Quỳnh Lưu - chia sẻ cùng PV Dân trí: “Sau khi nhận được thông tin tôi cũng đã chỉ đạo anh em xác minh cụ thể, có chính sách hỗ trợ khẩn cấp trước mắt. Còn về chế độ, chính sách thì giao cho Ban chỉ huy quân sự huyện phối hợp cùng Phòng LĐTB&XH xác minh cụ thể, căn cứ các quy định hiện hành để có chế độ phù hợp cho đồng chí ấy”.

“Tôi mong muốn Đảng, Nhà nước xem xét, hỗ trợ cho anh tôi có chế độ hàng tháng. Nếu lỡ sau này chúng tôi có mệnh hệ gì thì anh ấy đang còn có cái mà ăn uống, thuốc thang. Bây giờ anh ấy đau ốm thường xuyên, trí nhớ lại không còn được minh mẫn. Nếu anh ấy không có chế độ hỗ trợ nào thì cuộc sống sẽ vô cùng khó khăn”, ông Anh em ông Nhường chia sẻ./

Nguyễn Phê - Nguyễn Tình

++++++++++++++++++++++++++

image095
Luật sư Lâm Lễ Trinh. nguyên Bộ trưởng Nội vụ VNCH (thứ ba từ phải); Trung tướng Nguyễn Bảo Trị (góc trái); Trung tướng Nguyễn Đức Thắng 0(thứ tư từ trái), ông Cao Xuân Vỹ (thứ năm).

Nén Hương Cho Anh Biệt Kích Không Có Ngày Về

image096_0
Lâm Lễ Trinh, Ph.D

 image098_1

image100_0

Lời Toà soạn : Trong chức vụ Bộ Trưởng Nội Vụ của Chính Phủ VNCH , TS Lâm Lễ Trinh đã theo dõi sít sao cuộc chiến âm thầm chống Bắc Việt từ 1956 đến 1960 . Bởi vậy , nhận định của tác giả có giá trị đặc biệt . Bổn báo thành thật cám ơn tác giả .

* * *

Theo giới nghiên cứu nhận định , sử liệu viết về Đệ Nhị Thế Chiến đều thiếu sót cho đến khi Tình Báo Anh Quốc công khai hoá hồ sơ Ultra-British tiết lộ hệ thống mật mã chận bắt được của Đức Quốc Xã . Về Việt Nam , nếu bỏ qua cuộc chiến bí mật chống Hà Nội do CIA và Ngũ Giác Đài tổ chức từ 1961 đến 1972 thì bộ quân sử VN sẽ mất nhiều chương hệ trọng . Gần đây , Bộ Quốc Phòng HK cho giải mật hồ sơ SOG , Studies & Observation Group . Richard H Schultz , JR , giáo sư chính trị học tại Fletcher School of Law and Diplomacy , phân tích tinh vi tài liêu này trong quyển sách « The Secret War Against Hanoi » do Harper Collins Publishers 2000 xuất bản . Thượng Nghị Sĩ John McCain và tướng John R .Galvin , cưụ Tư lệnh Đồng Minh tại NATO , Âu Châu , không tiếc lời ngợi khen . Dưới đây , xin tóm tắt các đoạn chính .

Thời Đệ Nhị Thế Chiến - Vài trò của OSS

OSS . Office of Strategic Services , tiền thân của CIA , được thành lập bởi quyết định ngày 13/06/1942 của Tổng Thống Franklin Roosevelt . Bộ Tham Mưu Liên Quân không mấy hưởng ứng mặc dù nắm quyền kiểm soát cơ quan . William Donovan là Giám Đốc đầu tiên . OSS có trách vụ thực hiện các công tác bán quân sự mật như tình báo , chiến tranh tâm lý , hỗ trợ các phong trào chống đối địa phương , tổ chức và huấn luyện quân du kích tại những xứ Âu Châu và Á Châu bị Đức Quốc Xã và Nhựt chiếm đóng . Hồ Chí Minh bắt liên lạc được với nhóm OSS ở Côn Minh và kết thân với Thiếu Tá Archemides LA Patti mà nhiệm vụ chính là cứu các tù binh của phe Đồng Minh. Patti chuyển cho TT Truman một bức thơ của Hồ ( không được trả lời ) , giúp Hồ thảo bản Tuyên Ngôn Độc Lập , cung cấp võ khí và giúp huấn luyện một số cán bộ Việt Minh . Hồ cũng tiếp xúc với Trung Tá OSS Peter Dewey và tướng Không quân Claire Chennault , người sáng lập toán Cọp Bay , Flying Tigers ... Từ OSS xuất thân những chuyên gia tình báo gạo cội HK như Edward Lansdale , William Colby , John K Singlaub , Lou Conein ...

CIA thay thế OSS , hoạt động tại Việt Nam ( 1954-1960 )

Khi Thế chiến chấm dứt , Harry Truman giải tán OSS . Luật An Ninh Quốc Gia năm 1947 thành lập cơ quan CIA , Central Intelligence Agency . Hai quyết định số NSC 4 và 4A của Tổng Thống giao cho CIA điều hành nhiều vấn đề thuộc an ninh quốc ngoại .

Thập niên 40 và 50 là thời kỳ « vàng son » của CIA . Đúng vậy , ở Phi Luật Tân , Đại Tá Lansdale thành công giúp Ramon Magsaysay dẹp quân phiến loạn Huks và đắc cử Tổng Thống năm 1953 . Tại Iran và Guatemala , CIA giựt giây cuộc lật đổ 2 nhà độc tài Mohammed Mossadegh ( 1953 ) và Jacobo Guzman ( 1954 ) . Tuy nhiên CIA thất bại âm mưu gây rối ở Estonia , Latvia , Lithuania , Ba Lan , Ukraine và Albania thuộc khối Xô Viết .

Các công tác chống Bắc Việt bắt đầu năm 1954 , sau ngày Hiệp Định Genève chia đôi tạm thời VN tại vĩ tuyến 17 để chuẩn bị bầu cử tự do năm 1956 . HK cũng như Miền Nam không ký vào văn kiện . Dân hai miền Nam-Bắc có 300 ngày để định cư . Lansdale ( được TT Eisenhower phái qua VN hoạt động sau ngày Điện Biên Phủ thất thủ 07/05/1954 ) thừa cơ hội cho đổ bộ ở ven biển Bắc Việt vài nhóm biệt kích qua những cuộc hành quân bí mật marops , maritime operations . Số người này bị CS vét sạch . Trong khi đó , Hồ Chí Minh ra lệnh cho 10 000 cán bộ ở lại Miền Nam và bủa rộng tại đây một mạng lưới gián điệp .

Năm 1956 , CIA giúp tổ chức Nhóm Quan Sát bán quân sự đầu tiên , the First Observation Group nằm ngoài hệ thống chỉ huy của Quân đội VNCH và do TT Diệm điều động . Nhóm này công tác bên kia vĩ tuyến 17 để lấy tin và phá huỷ hệ thống liên lạc của địch . Năm 1958 , có một thoả ước Diệm-CIA để đưa biệt kích đột nhập Bắc Việt . Ngày 28/01/1961 , trả lời câu hỏi của TT Kennedy , Giám Đốc CIA Allan Dulles cho biết kết quả dưới mức mong đợi . Theo phân tích gia Herbert Weisshart , trong khối CS - nếu sánh với Nga Xô , Tàu Cộng , Đông Đức và Bắc Hàn . được CIA mệnh danh quốc gia « phản gián / vô thừa nhận , counterintelligence states , denied states » - thì Bắc Việt là nơi khó thực hiện nhất tâm lý chiến và công tác bí mật . Tình trạng này có nhiều lý do : Tại BV không thể lập khu kháng chiến maquis , kiểu Pháp thời chiến , do bên ngoài tiếp tế vì dân chúng bị nhồi sọ và hàng ngũ hoá triệt để . Mặt khác , bộ máy công an CS kềm kẹp sít sao thành thị , thôn quê đến hải phận ; biên giới bị khoá chặt và không có sự giao thương , trao đổi tin tức , du lịch giữa hai miền Nam-Bắc . Bởi thế , CIA dồn 90 % nỗ lực vào Miền Nam . Đã có một lúc Lansdale đề nghị tổ chức tại Bắc Việt một phong trào kháng chiến chống Cộng để tạo rối loạn như ở Hung Gia Lợi năm 1956 . Bộ Ngoại Giao và CIA bác ý kiến này , cho là quá bạo , có thể gây đụng độ với Nga , Tàu và khai mào Thế Chiến .

Tổng Thống Kennedy khởi đầu chiến Tranh Bất Quy Ước ( 1961 )

Trong phiên họp 28/01/1961 tại Hội Đồng An Ninh Quốc Gia , J F Kennedy vưà đắc cử Tổng Thống - tuyên bố ông muốn những cuộc hành quân biệt kích được tổ chức bên trong Bắc Việt . , mở màn một giai đọạn « đấu tranh khó hơn chiến tranh ( quy ước ) trên nhiều phương diện ... » , bởi thế » ... cần nghiên cứu những gì Mao Trạch Đông và Che Guevara đã viết về chiến tranh du kích . »

Ngày 27/04/1961 , tại Hội Đồng , Tướng Edward G Lansdale , bạn thân của TT Ngô Đình Diệm , thuyết trình rằng Việt Cộng đang thành công gia tăng khủng bố và du kích tại Miền Nam VN với chủ đích lật đổ chế độ hiện lung lay . Theo lời kể lại của Richard Helms - sau này trở thành Giám Đốc CIA - Bộ Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy , Bộ trưởng Quốc phòng McNamara , hai anh em Bundy , Walt Rostow và Tướng Maxwell Taylor ủng hộ hăng hái ý kiến của Tổng Thống nhưng không có kinh nghiệm nhiều về vấn đề .

TT Kennedy chỉ định một ban nghiên cứu do Roswell Gilpatric ,Thứ trưởng Quốc phòng , chủ toạ và gồm có Lansdale , Rostow , Alexis Johnson và Desmond Fitzgerald , để thảo một « Chương trình Hành động cho VN , Program of Action for Vietnam » . Phúc trình , nạp đầu tháng 05/1961 , cho biết lối 58 % lãnh thổ Miền Nam bị CS kềm toả . Phúc trình đề nghị chấn chỉnh gấp hệ thống an ninh và phát triển trong xứ , kèm theo một kế hoạch xâm nhập bí mật Miền Bắc . Ngày 11/05/1961 , TT Kennedy chấp nhận và nóí rỏ trong quyết định hành pháp NSAM 52 « Mục tiêu của HK là : ngăn CS thôn tính Miền Nam ; dựng tại đây một xã hội dân chủ vững vàng bằng cách áp dụng cấp bách một loạt biện pháp mật về mặt quân sự , chính trị , kinh tế và tâm lý » .

Cuộc chiến bất quy ước chống Bắc Việt trải qua hai giai đoạn từ Kennedy cho đến Nixon .

 A Giai đoạn 1961 -1962 : CIA thất bại

Luật Sư William Colby , tốt nghiệp Princeton , nói rành tiếng Pháp , là trưởng đoàn CIA tại Sài Gòn từ 1959 . Ông chủ trương gia tăng sự bất ổn tại Bắc Việt để lập thăng bằng với tình trạng thiếu an ninh mà Cộng Sản tạo ở Miền Nam . Gilbert Layton điều khiển ngành đặc công . Vì phương tiện giới hạn cho nên CIA chỉ đưa được trên vĩ tuyến 17 , bằng đường bộ , đường biển và thảy dù , loại 30 biệt kích tổ chức thành toán ( teams ) , mỗi toán 6 người , và một số gián điệp viên hoạt động đơn độc ( singletons ) .

Lực lượng đặc công gồm đa số người Bắc di cư vào Nam sau Hiệp định Genève 1954 . Thoạt tiên , họ có trách vụ « tổ chức trên đất địch một căn cứ du kích » nhưng về sau , vào đầu năm 1962 , vì vấp phải khó khăn thực tế , Colby phải đổi hướng công tác của họ thành tình báo , phá hoại , chiến tranh tâm lý và rải truyền đơn « Gươm Thiêng Ái Quốc » . Dù đổi nhứ thế , kế hoạch vẫn thất bại nặng , theo phúc trình của Ủy ban 303 , The 303 Committee , được Toà Bạch Ốc đặt ra để trắc lượng chiến dịch : Gần tất cả các biệt kích vượt tuyến bị CS bắt giữ , tra tấn , thủ tiêu hay buộc cộng tác với chúng . Ủy ban điều tra nêu ra nhiều lý do thất bại : Hoa kỳ giao phó cho Chính quyền Saigon tuyển mộ trực tiếp các biệt kích nên không kiểm soát được về vấn đề nội gián . Một khi lọt vào Bắc Việt họ không liên lạc dược với nhau và bị dân địa phương nhận diện mau chóng ; CS gài tình báo vào phía đối phương . Phương cách thả dù các đặc công mà không chuẩn bị cho họ một cứ điểm đổ bộ an toàn để hoạt động trong lòng địch "The Blind Drop concept" tỏ ra tai hại . Theo lời kể lại của cựu Thiếu tá biệt kích Trần Khắc Kính , hiện ngụ tại Californie , đêm 02/06/1961 , Trung Tá Không Quân Nguyễn Cao Kỳ lái chiếc máy bay C47 bay ra Bắc Thái thả dù toán Castor .

 Tai hại nhất là Averell Harriman , « thầy dùi » của TT Kennedy , vận động để 3 phe Lào ( Quốc Gia - Cộng Sản Pathet ) , Nga Sô và Bắc Việt chấp nhận trung lập hoá xứ Lào tại Hội Nghị Genève .

Theo Harriman , giải pháp trung lập hoá ít nguy hiểm hơn chọc tức Bắc kinh bằng cách tấn công trực tiếp Bắc Việt . Sau ngày ký Hiệp Ước 06/07/1962 , Mỹ rút hết quân . Hà Nội rút tượng trưng ... 40 cán bộ ( ! ) và gài lại 10 000 du kích ở Thượng Lào . Dùng Lào làm bàn đạp , CSVN gấp mở rộng đường mòn Hồ Chí Minh ( khai thông từ thập niên 50 ) để ào ạt xua quân vào Nam dưới mũi của Ủy ban Kiểm soát Quốc tế . Chỉ trong tháng 6 .1962 mà thôi , Hà Nội đưa được 1 500 lính chính qui qua ngã Lào và Miên . Thế quân sự nghiêng hẳn có lợi về phía Bắc Việt .

 B Sau 1962 : Ngũ Giác Đài thay thế CIA .

Cuối 1961 , các phúc trình báo động của Ban Thẩm lượng Tình Báo Quốc gia , National Intelligencve Estimate ( hay NIE ) thúc Kennedy dứt khoát chấm dứt công tác bán quân sự của CIA ở Bắc Việt và chuyển trách nhiệm qua Ngủ Giác Đài . Sự thất bại đổ bộ tại Vịnh Con Heo , Bay of Pigs Cuba , ngày 28 .6 .1961 để mưu lật đổ Fidel Castro , càng chứng rỏ CIA bất tài . Tháng bảy 1962 , McNamara triệu tập đại diện của Bộ Quốc phòng , Ban chỉ huy Thái Bình Dương , CIA , Bộ Ngoại giao và cơ quan MACV tại Honolulu nghiên cứu kế hoạch Operation Switchback . Tướng Harkins , xếp MACV - con gà nòi của Maxwell Taylor tại Sàigòn - tỏ ra rất lạc quan mặc dù cuối 1962 , 300 du kích Việt Cộng kháng cự thành công tại Ấp Bắc , Đồng Tháp Mười , với Sư Đoàn 7 Bộ Binh của VNCH . Báo chí và công luận HK xao xuyến mạnh về trận đánh này .

TT Johnson cho thành lập SOG ( 1964 ) - Kế hoạch OPLAN 34A

Vì hệ thống biệt kích trên vĩ tuyến 17 do CIA sắp xếp nên cần có một giai đoạn chuyển tiếp , CIA và Quân Đội cộng tác . Giai đoạn này kéo lằng nhằng cho đến 1964 . Ngày 24/01/1964 , Bộ Tư Lệnh MACV tại Sài Gòn ra công văn thành lập cơ quan Nghiên Cứu & Quan Sát SOG , để thi hành kế hoạch Operation Plan trên đất Bắc Việt . OPLAN 34A được TT Johnson chấp thuận , 4 ngày sau vụ ám sát Kennedy , chiếu đề nghị của McCone , Mc Namara , Rusk , Bundy . và tướng Krulak . Kế hoạch này - do Partain , Woolard , McLane và Kingston liên tiếp phụ trách - gồm có 72 loại biện pháp để thực hiện trong 12 tháng , nhằm 2 062 mục tiêu .

Về sau , Giám Đốc CIA William Colby có nhắc lại : « Lúc đó , tôi đã lưu ý McNamara các chiến dịch này không thể thành công . Quan điểm của phía Quân Đội ( Hoa Kỳ ) là CIA hành động quá ít , quá chậm và không đi sâu được vào khối dân chúng ở Bắc Việt . Đây là McNamara cổ điển : Các con số trả lời cho tất cả , Numbers are answers to everything ! Ông ta tin rằng chỉ cần gia tăng ào ạt những cố gắng hoạt động bí mật thì sẽ gây rối loạn bên trong Bắc Việt và có thể buộc Hồ Chí Minh ngưng ủng hộ kháng chiến ở Miền Nam ! » ( đọc « Secret War » trang 36 ) :

Kế hoạch OP 34 tổ chức bốn toán biệt kích mang bí danh Bell , Remus , Tourbillon và Easy , tổng số gồm lối 30 người . Toán thứ năm , Europa , được CIA đưa ra Bắc vào tháng 02/1962 , đã ngưng liên lạc bằng ra-dô và coi như mất luôn .

Ngoài ra , CIA còn xử dụng một gián điệp viên có bí danh Ares . CIA cũng trao lại cho SOG trại Long Thành đang huấn luyện gần 169 cán bộ và một vài trụ sở ở trung tâm Sàigòn . McNamara và Hoa Thịnh Đốn hối thúc SOG bắt tay vào việc . Từ tháng 04/1964 cho đến tháng 10 .1967 , gần 250 biệt kích chia thành 30 toán , được gài thêm vào Bắc Việt . Nếu cộng với số người của CIA hoạt động sẵn thì tổng số lên đến 500 .

Cuối 1967 , có tất cả 7 toán đặc công : Remus , Tourbillon , Easy , Eagle , Hadley , Red Dragon , Romeo , và một gián điệp mang tên Ares . Năm 1968 , cơ quan DIA , Defense Intelligence Agency , trong đó có cả đại diện CIA , tổng xét thành quả và kết luận bi quan rằng phía địch , trong gần bảy năm , chẳng những phá vỡ được các toán nóí trên mà còn xử dụng họ chống lại Miền Nam dưới nhiều hình thức ( phản gián , thông tin xuyên tạc , phỉnh gạt ... . ) .

Các toán đặc nhiệm được đưa ra Bắc Việt vào những lúc khác nhau , không hoạt động chung một chỗ , đảm nhận công tác riêng biệt và không liên lạc với nhau vì cần bảo mật tối đa : Toán Tourbillon , tại vùng Tây Bắc từ tháng 05/1962 , để phá hoại và lấy tin - Toán Easy tại Sơn La từ tháng 08/1963 , để liên lạc với sắc dân Mèo-Thái , tổ chức họ chống chính phủ - Toán Remus , trong vùng Điện Biên Phủ , từ tháng 04/1962 , để thiết lập căn cứ và làm tình báo - Toán Eagle , gần biên giới Hoa Việt , vào tháng 06/1964 , để tìm cách phá hoại hai con đường số 1 và 4 , thiết lộ Nam Quan và sân máy bay Mai Pha -Toán Romeo , ở phía Bắc khu phi chiến DMZ , từ tháng 11/1965 , để theo dõi các đoàn quân xa trên quốc lộ 103 - Toán Haddley , cũng ở phía Bắc DMZ , để quan sát sự di chuyển của địch trên quốc lộ 8 nối liền với các trục giao thông số 15 , 81 , 12 và 121 dẫn sang Lào . Sau hết , toán Red Dragon , từ tháng 09/1967 , để hoạt động phá hoại và thông tin trong hai tỉnh Lào Cai và Yên bái .

Giai đoạn Nixon . Hoa kỳ rút quân . Kế Hoạch OP 35 chấm dứt ( 30/04/1972 )

 Đầu năm 1969 , TT Nixon nói với Bộ Tham Mưu : Tôi sẽ chấm dứt chiến tranh . mau chóng . Ông gởi thông điệp cho Hà Nội đề nghị BV và HK đồng rút binh khỏi Miền Nam . Để gây áp lực , Nixon cho thả bom các đặc khu CSVN tại Miên . Hà Nội không nao núng , xua thêm quân vào dưới vĩ tuyến 17 và tuyên bố sẽ kiên trì đàm phán ở Hội nghị Paris « until the chairs rot , cho đến khi ghế mục ! » Nixon ra lệnh cho Kissinger nghiên cứu trả đũa bằng cách phong toả các hải cảng địch và gia tăng oanh tạc BV . Nhưng Kissinger lại đề nghị « Việt Nam hoá » chiến tranh . ( còn gọi là jaunissement , yellowing the war ) .

Tháng 10/1968 , chuyên gia Anh chống du kích Sir Robert Thompson - từng thành công dẹp loạn tại Mã Lai trong thập niên 50 và đã giữ vai trò cố vấn ở VN từ 1961 đến 1965 theo lời mời của Kennedy - đưa ra giải pháp này và cho biết Miền Nam , với một triệu quân tại ngũ , có thể , trong vòng hai năm , tái lập hoà bình nếu Mỹ tích cực giúp Chính phủ Sàigòn về vũ khí và kinh tế . Theo Thompson , chi phí viện trợ này vẫn còn rất rẻ vì dưới thời Truman , Mỹ đã xài tới 150 tỷ đô la . Trên thực tế , đây chỉ là một giấc mơ vì thời hạn 2 năm quá ngắn . Hơn nửa , năm 1970 , Nixon cho rút 150 000 lính Mỹ , bất chấp MACV báo động quyết định này sẽ gây khó cho thủ tục Việt Nam hoá .

Tháng 02/1970 , dưới sự chỉ huy của Đại tá Don Schungel , những toán thám thính Prairie Fire . thuộc kế hoạch OP 35 , thực hiện 441 chuyến quan sát tại Lào , dọc đường mòn Hồ Chí Minh . và gặp sự chống cự mãnh liệt của các toán truy nã , tracker teams , Bắc Việt . 12 quân nhân Mỹ tử vong , 98 bị thương và 4 mất tích .

Tại Cam bốt , trong 4 tháng đầu năm 1970 , kế hoạch thám sát Salem House khám phá BV lập nhiều căn cứ đột nhập và trạm tiếp viện gần biên giới Miên-Việt . Ngày 18/03/1970 , tướng Lon Nol lật đổ Sihanouk . Cuộc hành quân hỗn hợp Mỹ-Viêt mang tên Operation Bình Tây trên đất Miên phá huỷ , ít nửa tạm thời , hệ thống quân sự địch . Ngày 01/05/1970 , sinh viên phản chiến của Kent State biểu tình chống đối rầm rộ ở Ohio . Tiếp theo , dân chúng xuống đường tại Washington . Kết quả là , kể từ 30/06/1970 , cơ quan MACVSOG không còn được phép dùng biệt kích Mỹ trên đất Miên . Tổng kết , chiến dịch Salem House đã thực hiện 577 lần xuất quân . Tất cả trừ « 19 » có tính cách thám sát .

Để chuẩn bị tái ứng cử Tổng Thống năm 1972 , Nixon lấy một quyết định ngoạn mục : cắt đường mòn Hồ Chí Minh tại Lào dài theo quốc lộ 9 và tiêu huỷ cơ sở BV trong vùng . Tướng Creighton Abrams , Tư Lệnh MACV , đề xướng chiến dịch Lam Sơn 719 do hai tướng Hoàng Xuân Lãm và James Sutherland điều động . Skip Sadler , người chỉ huy chót của MACVSOG , nói với tướng Lãm : « Mối lo lớn nhất của tôi là làm cách nào ông sẽ rút khỏi địa ngục này . » Để dọn đường cho chiến dịch và đánh lạc hướng đối phương , các đội đặc công SOG thả dù những hình nộm , chất nổ và truyền đơn ở phía Tây Khê Sanh và trong thung lũng Ashau nhưng tướng Võ Nguyên Giáp không để bị gạt và sẳn sàng ứng chiến với 4 sư đoàn chính quy .

Lam Sơn 719 bắt đầu ngày 8 tháng hai . Sau 6 tuần chiến đấu , Quân đội VNCH tổn thất 50 % và Việt Cộng kiểm soát được phần đất phía tây của Quân khu 1 và vùng DMZ . Con đường tiến về Huế không còn bị ngăn . BV chuẩn bị tổng tấn công vào mùa Phục sinh 1972 .

Đại Tá Roger Pezzelle , người chỉ huy cuối cùng kế hoạch đặc công OP 35 , than phiền bị Hoa Thịnh Đốn bó tay vì từ nay , mổi lần hành quân thám sát tại Miên hay Lào đều phải xin phép trước 3 hôm Bộ Tham mưu Liên Quân HK ngang qua MACV . Chán nản , ông nói : « Isn’t it ridiculous ? » .

Ngày 30/04/1972 , bằng một thông cáo , Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương ra lệnh chuyển giao tất cả chương trình SOG cho Nha Giám Đốc Kỹ Thuật Chiến Lược của VNCH . Từ Tháng Giêng đến cuối Tháng Ba , tai mắt của MACV trên lãnh thổ CS không còn nữa .

Kinh nghiệm từ một sự thất bại . Vai trò tương lai của Chiến Tranh Bất Quy Ước

Đến nay , về cuộc chiến âm thầm chống Bắc Việt , có nhiều phóng sự giật gân của tác giả ngoại quốc hay hồi ký phiến diện của một số cựu biệt kích từng bị CS giam cầm . Xuyên qua hồ sơ vừa được Bộ Quốc Phòng bạch hoá - có thể chưa nói hết - thế giới nhận rõ hơn vì sao Hoa Kỳ thua ở VN về cà 2 mặt , chiến Tranh Quy Ước và chiến Tranh Bất Quy Ước . Những lý do nào khiến Mỹ thất bại trong chiến tranh thứ hai ?

1 - Thiếu chủ trương thích ứng , đồng nhất và liên tục , thiếu lãnh đạo ở cấp chóp bu . Eisenhower dùng chiến tranh mật như một lợi khí hệ trọng để thắng thế trong Chiến Tranh Lạnh . Kennedy , quá lý tưởng , áp dụng các phương pháp chiến tranh mật một cách năng nổ nhưng không nghiên cứu kỹ quyết tâm và phản ứng của địch . Để cứu vản chương trình chấn hưng xã hội « The Great Society » của ông tại Mỹ và vì bị xô đẩy bất thần vào một tình trạng khủng hoảng sau cái chết của Diệm và Kennedy , Lyndon Johnson thận trọng đối phó với Hà Nội theo đường lối « graduated answer/graduated pressure , trả lời / gây áp lực tuỳ thời » . Chính sách « gà nuốt giây thung » này bó tay SOG . Với Nixon , covert action , cuộc chiến đấu âm thầm là một chiến thuật để thoát khỏi bế tắc đối ngoại .

Nói tóm tắt , HK đánh mà không muốn thắng , Công luận HK không đủ nhẫn nại để chiụ đựng một cuộc chiến dai dẳng . Ấn tượng Nga- Tàu ám ảnh không thôi Hoa Thịnh Đốn .

Mặt khác , CIA thất sủng không hết lòng cộng tác với SOG trong giai đoạn chuyển tiếp 1962 - 1964 . Nghiêm trọng hơn , các Tư lệnh liên tiếp của MACV , từ Paul Harkins , Maxwell Taylor , William Westmoreland cho đến Creighton Abrams , vẫn coi chiến Tranh Quy Ước là biện pháp hữu hiệu duy nhất và không tin chiến tranh mật giải quyết được gì . Quân Đội từ chối sáp nhập SOG vào các kế hoạch chiến tranh . Ngoài ra , Đại Sứ HK William Sullivan tại Vientiane không mấy sốt sắng giúp Biệt Kích SOG đột nhập Lào để khuấy phá đường mòn Hồ Chí Minh , viện lẽ Hiệp Ước Genève 1962 đã trung lập hoá nước này . Cấp chỉ huy cơ quan SOC - Blackburn , Singlaub và Cavanaugh - than phiền thái độ dè dặt của Sullivan gây khó khăn cho họ không ít .

2 - Thiếu sự huấn luyện và kinh nghiệm tâm lý cần thiết . Thuyết chiến Tranh Bất Quy Ước , unconventional warfare doctrine , đến nay vẫn được xem như một phần ăn khớp với chiến tranh nóng và không có vai trò then chốt trong Chiến Tranh Lạnh . Du kích không có mặt trận . Có nhiều khác biệt sâu rộng giữa những gì Special Warfare School tại Fort Bragg dạy suốt 15 tuần lễ cho các sĩ quan thuộc Lực lượng Đặc biệt và thực tế chiến trường ở Bắc Việt trong phạm vi thám báo , chiến tranh tâm lý , chống khủng bố , phá hoại hậu cần địch , phương thức để sống sót trong nghịch cảnh ... Công tác tiếp vận các toán xung kích vượt tuyến vấp phải muôn vàn trở ngại . Chương trình huấn luyện , tổ chức theo lối Mỹ tại các trường biệt kích Thủ Đức và Long Thành , không thích ứng vói nhu cầu chiến lược và chiến thuật . Chính phủ Miền Nam không có tiếng nóí quyết định trong các cuộc hành quân bên kia vĩ tuyến . Ai chi địa thì chỉ huy ! Nội gián len lõi vào bộ máy đánh giặc phía quốc gia . Để làm việc với đồng minh Mỹ về biệt kích , Chính phủ Sàigòn có Phòng Liên lạc Phủ Tổng Thống ( thời Ngô Đình Diệm ) đổi thành Nha Kỹ thuật năm 1963 , do một sĩ quan cấp tá chỉ huy : Lê Quang Tung , Trần Văn Hổ , rồi Vương Văn Đông ( được lối 3 tháng ) , sau hết Đoàn Văn Nu .

Nói tóm tắt , Mỹ thua chiến Tranh Quy Ước lẫn bất quy ước vì dốt tâm lý Á Châu , không nắm vững chiến thuật du kích , ngạo mạn , thẩm lượng sai ảnh hưởng của Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa đối với Hà Nội , đoán trật quyết chí của CSVN và coi thường đồng minh Việt Nam Cộng Hoà .

Miền Nam là con cờ thí trong chiến lược toàn cầu Hoa Kỳ . « Đất Nước có thể tránh được chăng số mạng hẩm hiu nếu nhà cầm quyền ở Sài Gòn , thay vì vọng ngoại , biết sáng suốt tạo một cái thế dân tộc vững chắc và chọn con đường dân chủ thích hợp ? » , người Quốc Gia vẫn tự hỏi như thế , tuy đã chậm . Dĩ vãng , dù sao , cũng là ông thầy tốt nếu không uổng phí bài học quá khứ .

Hiện không có thống kê chính thức về số cãm tử quân hy sinh tại BV . Phỏng chừng 500 người mất tích . Riêng Kế Hoạch OP 35 gồm có 3 toán tổng cộng 110 sĩ quan và 615 đặc công .Trong mỗi đội thám sát có 3 người Mỹ và 250 Việt . Từ tháng 02 đến tháng 04/1973 , Hà Nội phóng thích 591 tù binh HK , không có sĩ quan SOG nào . Vận mệnh của những chiến sĩ đặc nhiệm ra sao ?

Thời Kennedy , tổng nhân số Lực lượng Đặc biệt lên đến 10 000 người . Thập niên 70 , sụt xuống còn 3 600 . Chính quyền Mỹ muốn quên họ đi , viện lẽ ... không có tuyển mộ họ công khai ( ! ) . Theo Sedgwick Tourison ,tác giả quyển sách « Secret Army , Secret War » , NXB Marine Institute , 1994 , nhờ Đại Sứ HK David LamberTSon ở Bangkok can thiệp mạnh , 15 người , cựu biệt kích VN đầu tiên được Sở Di Cư & Nhập Tịch cho vào Mỹ năm 1995 . Gần đây , Quốc Hội biểu quyết trợ cấp 40 000 đô cho mỗi người .

Chiến Tranh Lạnh đã chấm dứt , chiến tranh nóng phản ý nguyện hoà bình của nhân loại . Hai nhóm chủ trương và chống đối chiến tranh bí mật vẫn tranh luận sôi nổi . Thời thế mới - nửa lạnh nửa nóng - đòi hỏi biện pháp mới , thực tế và hữu hiệu hơn . Răn đe suông hay xử dụng bừa bải võ khí tối tân không thích hợp . Tháng 11/1986 , thời TT Reagan , Quốc Hội Mỹ biểu quyết thành lập SOCOM , US Special Operations Command . Cơ quan này , đặt dưới quyền điều khiển của một Tướng Bốn Sao , có trách vụ thảo hoạch đường lối và chăm lo các vấn đề huấn luyện , điều nghiên kế hoạch và trang bị các lực lượng tác chiến đặc biệt , special operations forces hay SOF . Nói cách khác , chính quyền HK công nhận cần tổ chức và xử dụng chiến tranh bí mật để đối phó những trường hợp « tranh chấp có cường độ thấp , low intensity conflicts hay LIC » , thường xảy ra ngày nay trên địa cầu với nhóm quốc gia bất trị ( còn gọi là « nước du côn , rogue nations » ) thích xử dụng vô tội vạ khủng bố , vũ khí giết số đông và xúi dục phiến loạn . Rắn rít độc hại hơn khủng long . Ngoài ra , sắc tộc , tôn giáo và tội ác có tổ chức cũng gây bất ổn dễ dàng . Tài khoá 1987 , SOF nhận được 1,6 tỷ trong ngân sách quốc phòng 300 tỷ đô . Thời hậu Chiến Tranh Lạnh khó kiểm soát hơn cả Chiến Tranh Lạnh . Rối rấm có thể nổ bất luận ở đâu , lúc nào , vì mọi lý do .

Trong tương lai , về an ninh , Hoa kỳ sẽ trực diện nhiều thách thức quốc tế mới . Cần điểu chỉnh và cập nhật hoá thường xuyên tân chính sách , chiến lược và phương tiện . Hoa Kỳ cũng sẽ gặp trở ngại và phiền toái gây thất vọng như ở Việt Nam . Kinh nghiệm đã qua giúp siêu cường này không tái phạm sơ suất củ . Mong lắm thay !

Lâm Lễ Trinh - Thuỷ Hoa Trang – 2001/05/09

Thư Tịch

- « The Secret War Against Hanoi » của Richard H . Shultz , JR Harper Collins Publishers , 2000
- « Secret Army , Secret War » của Sedgwick Tourison , Marine Institute Publ 1994
- « Early Covert Action on the Ho Chí Minh Trail » của Ken Conboy & James Morisson in Vietnam , August 2000
- « Project Delta Disaster » của Ken Conboy & J Morrison in Vietnam , October 2000
- « Viêt Nam , Histoire Secrète D’Une Victoire Perdue » , par William Colby , Perrin , Paris , 1989

+++++++++++++++++++++++++++++++++

Trận Snoul ảnh hưởng đến Hòa đàm Paris 1973? *

"Tác giả khẳng định rằng, Tướng Hiếu, Đại tá Dzần, Tướng Khôi cùng tất cả chiến hữu CĐ 8 và LLXKQĐ3 đã anh dũng chiến thắng hai sư đoàn VC trong trận thư hùng tại chiến trường ngoại biên từ ngày 24/5/71 đến ngày 31/5/71".

"Chính những sự sai lầm của Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 trong lãnh vực chỉ huy cũng như lượng giá chiến trường trong trận đánh Snoul, đã thúc đẩy địch quyết định mở rộng thêm chiến lược trận địa chiến trên toàn lãnh thổ miền Nam trong năm 1972 về sau".

"Hiện tượng sụp đổ của chính thể VNCH vào ngày 30/4/75 là hậu quả của những biến cố liên hệ dây chuyền của Quân sự, Chính trị và Ngoại giao của các lực lượng tham chiến tại Việt Nam, kể từ tháng 8/69. Đặc biệt sự sai lầm của Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn là khởi điểm cho những biến cố về sau của lịch sử Việt Nam".

Trận Đánh Snoul và Những Hậu Quả

Trần Văn Thưởng
image101 
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu

image102

Trận Đánh Snoul và Những Hậu Quả

Lời tác giả – Chủ đích của bài nầy là nói lên sự thật để vinh danh các chiến hữu tham dự trận đánh Snoul, cũng như minh oan cho các chiến hữu đã bị bỏ quên trong Quân sử QLVNCH.

Lời tác giả – Chủ đích của bài nầy là nói lên sự thật để vinh danh các chiến hữu tham dự trận đánh Snoul, cũng như minh oan cho các chiến hữu đã bị bỏ quên trong Quân sử QLVNCH.

Một lời thất hứa

Tình cờ tôi thấy một Trang Nhà của anh Nguyễn Văn Tín,[1] em ruột của cố Trung tướng Nguyễn Văn Hiếu, vị Tư lệnh SĐ5BB đáng kính của tôi trong những năm 1969, 1970 và 1971. Đọc xong tôi mới thông hiểu cho những đau đớn và uất ức của đại gia đình tướng Hiếu. Thế là thời gian không hàn gắn được những nỗi đau thương của con người; bà tướng Hiếu đã phải sống và chết trong những ngày buồn tủi của một kẻ tha hương; anh Tín đã cố gắng làm những gì anh có thể để minh oan cho người anh kính mến của anh. Lại còn biết bao nhiêu người cùng một hoàn cảnh như gia đình của tướng Hiếu, như gia đình của các chiến hữu của tôi trong cuộc Hành quân tại Snoul năm 1971.

Thôi thế là cây muốn im mà gió lại nổi trở lại, tôi phải viết để nói lên một sự thật, bởi vì thật tội nghiệp cho các chiến hữu của tôi cùng với tướng Hiếu, cũng như Đại tá Bùi Trạch Dzần đã bị bỏ quên oan uổng trong quân sử QLVNCH đã từ lâu.

Sự thật, tôi có cái lý do để lặng yên đã quá hơn ba mươi năm nay, bởi vì một lời nói tâm tình của tướng Hiếu, khi tôi gặp lại ông cuối năm 1971 tại Đà Lạt, khi ông trở về dự lễ Mãn khóa 24SVSQ. Ông đã làm tôi cảm thấy quá nhỏ bé trước cái vĩ đại bao la của một kẻ chân thành yêu nước, khi tôi nghe ông nhỏ nhẹ tâm tình, “Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 đang cầm quân giữ nước, vì vậy uy tín của Trung tướng phải được duy trì. Nếu anh nghĩ đến Tổ quốc nhiều hơn, thì anh sẽ hiểu rõ lý do chúng ta phải bỏ qua quá khứ, để quên đi một vài lỗi lầm của Trung tướng trong trận Snoul. Làm người thì đôi khi cũng phải gặp phải lỗi lầm.Tôi chỉ có một điều đau lòng là không đủ thẩm quyền để vinh danh các anh em trong trận Snoul mà thôi”.[2] Thôi thế cũng đủ cho tôi ngậm miệng suốt hơn ba mươi năm nay!

Bây giờ Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 không còn giữ nước nữa, thời gian cũng không hàn gắn được những nỗi đau đớn uất ức của con người. Thế là tôi có lý do để thất hứa với tướng Hiếu, để viết vội và viết đúng một sự kiện của quân sử. Viết vội vì tôi sợ các nhân chứng còn lại sẽ không còn mãi trên cái cõi tạm nầy nữa, để xác nhận hay thanh minh. Viết thật thì cần có tài liệu chính xác và nhân chứng để xác nhận. Đó cũng là một cái khó của sự viết thật. Tôi đã cố tìm tướng Bùi Thanh Danh, cựu Tư lệnh Sư đoàn 5 VC năm 71-72, cựu tư lệnh Quân khu 7, tướng Lê Nam Phong, cựu Tư lệnh Sư đoàn 7 VC năm 71-72, cựu Giám đốc Học viện Lục quân 2 (Long Bình, Đồng Nai)[3] , tuy nhiên chỉ liên lạc được với một số Sĩ quan của hai Sư đoàn nầy mà thôi. Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3, QLVNCH, cũng không chịu trả lời lá thư của tôi. Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 là một vị tướng tài ba khi ông còn là Tư lệnh Sư đoàn 21 BB, cho nên tôi nghĩ rằng ông phải có một lý do thầm kín để không nói lên một sự thật của trận Snoul. Tôi chỉ cầu mong rằng Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 sẽ có dịp nói lên những lý do ông đã án binh bất động trong tuần lễ cuối cùng của tháng năm, năm 71, cũng như cho lệnh Chiến đoàn 8 rút quân đơn thương độc mã, trong khi đơn vị nầy đang bị bao vây và tấn công từ ngày 24/5/71 đến ngày 30/5/71, để chúng tôi vẫn kính phục Trung tướng như là một vị tướng lãnh tài ba của Quân sử VNCH. Mong thay!

image103
Cố Trung tướng Nguyễn Văn Hiếu

Hành Quân Của Chiến Đoàn 8 Tại Snoul 
(Từ ngày 15/4/71 đến ngày 30/5/71)

image104

1. TÌNH HÌNH:

A. Địch: 

a. Sư đoàn 5VC đang hoạt động quanh khu vực Snoul, sẵn sàng xử dụng trận địa pháo và tấn công ồ ạt vào các căn cứ của ta. b. Sư đoàn 7VC và Sư đoàn 9VC hoạt động quanh khu vực Chup, Kampong Cham và hướng Nam Snoul. c. Sư đoàn 7VC được di chuyển về quanh khu vực Snoul để phối hợp với Sư đoàn 5VC trong kế hoạch bao vây và tiêu diệt CĐ8, từ ngày 15/5/71.[3,7]

B. Bạn: 

a. Nhiều chiến đoàn dưới quyền chỉ huy của hai Tư lệnh Sư đoàn 18 và SĐ25 với tổng số quân số khoảng 20,000, nỗ lực chính của Quân đoàn, đang hành quân chung quanh khu vực Chup và Kampong Cham, và hướng Nam của Snoul, sẵn sàng tăng viện cho nỗ lực phụ tại Snoul.[4] b. Các Đại Đội Không Kỵ Hoa Kỳ: ĐĐ B/3/17/KK yểm trợ trực thăng trong khu vực hành quân của Chiến Đoàn 8; ĐĐ A/3/17/KK được tăng cường hoạt động cho Chiến Đoàn 8 kể từ ngày 01/5/71. Quan sát không thám từ phía Tây trong khu vực liên hệ chiến thuật/SĐ.[5] c. Lực lượng xung kích QĐ3 dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Sư đoàn 5, kể từ ngày 31/5/71, để tiến lên hướng Snoul đánh giải vây và tiếp thoái CĐ 8 rút về Lộc Ninh.[6,27]

2. NHIỆM VỤ: 

a. Chiến Đoàn 8 tiếp tục nhiệm vụ ấn định, lợi dụng thời gian còn lại của mùa nắng, chỉnh đốn duy trì thế công trong giai đoạn 3 của hành quân TT02/21/85/NB: lùng và gây tổn thất cho địch và đồng thời ngăn chận sư xâm nhập của địch vào nội địa.[5] b. Chiến Đoàn 8 sẽ gia tăng hành quân cường thám lùng diệt địch, các đơn vị của SĐ5 sẽ khám phá kho tàng địch quanh vùng Snoul và kiểm soát chặt chẽ QL13 từ Lộc Ninh tới Snoul.[5]

3. THI HÀNH:

A. Quan niệm điều quân: 

a. Thiết lập các căn cứ phòng thủ kiên cố. b. Tổ chức thường xuyên hành quân viễn thám, phục kích và tấn công hạn chế và thăm dò. c. An ninh trục lộ từ biên giới đến Snoul. d. Xử dụng pháo binh và không yểm để đánh phá ngày đêm các mục tiêu chung quanh khu vực Snoul.

B. Phân công:

a. Tiểu đoàn 3/9 - Tổ chức phòng thủ căn cứ tại tọa độ XU 650280. - Hoạt động trong khu vực tọa độ XU 590300, tọa độ XU 640320, tọa độ XU 680260, tọa độ XU 640260. - Trách nhiệm an ninh lộ trình QL13 từ tọa độ XU 670260 đến tọa độ XU 618310.

b. Tiểu đoàn 3/8 - Tổ chức phòng thủ căn cứ tại tọa độ XU 580330. - Hoạt động trong khu vực tọa độ XU 590300, tọa độ XU 640320, tọa độ XU 600350, tọa độ XU 540310 - Trách nhiệm an ninh lộ trình QL13 từ tọa độ XU 618270 đến tọa độ XU 575335.

c. Tiểu đoàn 2/7 - Trừ bị cho Chiến đoàn 8. - Hoạt động trong khu vực tọa độ XU 510380, tọa độ XU 490340, tọa độ XU 600350, tọa độ XU 540310. - Trách nhiệm an ninh lộ trình QL13 từ tọa độ XU 575335 đến Chợ Snoul và QL7 từ Chợ Snoul đến tọa độ XU 553363

d. Tiểu đoàn 1/8 - Được tăng phái chi đoàn chiến xa, tổ chức phòng thủ căn cứ tọa độ XU 562382. - Hoạt động trong khu vực tọa độ XU 540420, tọa độ XU 600420, tọa độ XU 510380, tọa độ XU 490340 - Trách nhiệm an ninh lộ trình QL7 từ tọa độ XU 553363 đến tọa độ XU 562382.

e. Tiểu đoàn 2/8 - Bảo vệ BCH Chiến đoàn 8. - Sẵn sàng làm lực lượng trừ bị cho chiến đoàn khi có lệnh.

f. Thiết đoàn 1 thiết giáp - Xuất phái một chi đoàn chiến xa cho Tiểu đoàn 1/8 - Trừ bị cho Chiến đoàn 8.

C. Yểm trợ hỏa lực: Tiểu đoàn pháo binh: Yểm trợ trực tiếp cho các tiểu đoàn.

Năm Ngày Năm Đêm Tử Thủ Của TĐ1/8

TỔ CHỨC CÔNG SỰ PHÒNG THỦ

Tiểu đoàn 1/8 được tăng cường một Chi đoàn Thiết giáp khoảng 12 chiến xa M41 do Trung uý Minh, SQVBQGVN, làm chi đoàn trưỏng, để tổ chức phòng thủ, hành quân tấn công thăm dò và hành quân viễn thám trong khu vực trách nhiệm.

Vị trí của tiểu đoàn được bao bọc chung quanh bởi những rừng cây tre rất rậm rạp về hướng Đông, hướng Bắc, hướng Đông-Bắc và hướng Nam, và bởi những rừng cao su già cũng rất rậm rạp về hướng Tây và hướng Tây-Bắc. Ngoài ra không có một cao địa nào chung quanh vị trí của tiểu đoàn có thể chế ngự hay quan sát quân trú phòng.

Tiểu đoàn bố trí quân trên ba tuyến phòng thủ, tuyến phòng thủ chính A, tuyến kháng cự cuối cùng B, và tuyến nghe ngóng C. Tuyến A được bố phòng bởi ba đại đội với những hầm hố rất kiên cố để tránh pháo kích. Đại đội 2 do Đại uý Thao chỉ huy, cựu sĩ quan nhảy dù, trách nhiệm phòng thủ hướng Tây và Tây-Bắc; Đại đội 3 do Trung uý Ninh chỉ huy, SQVBQGVN, trách nhiệm phòng thủ từ hướng Tây-Bắc đến hướng Đông, và Đại đội 1 do Trung uý Giỏi chỉ huy, trách nhiệm phòng thủ hướng Nam của tuyến A. BCH/TĐ, chi đoàn chiến xa, trung đội thám kích và trung đội vũ khí nặng trách nhiệm phòng thủ tuyến kháng cự cuối cùng B. Ngoài ra, chi đoàn thiết giáp và trung đội thám kích còn có nhiệm vụ làm lực lượng trừ bị cho tiểu đoàn.

Ngoài nhiệm vụ hành quân tìm địch và hành quân viễn thám hằng ngày, các đơn vị đã thiết lập các công sự kiên cố trên tuyến A, đồng thời mỗi đại đội còn có trách nhiệm khai quang từ tuyến A đến tuyến C, cũng như thiết lập các mìn bẫy tự động và điều khiển bằng đạn pháo binh giữa tuyến A và tuyến C. Trong vòng một tháng, các đại đội đã khai quang những cây tre và xử dụng những cây tre đã chặt được nầy để biến chế thành những chướng ngại vật cao khoảng hai mét tây, đồng thời mở rộng thị trường quan sát và tác xạ từ tuyến A đến tuyến C. Những quả mìn Claymore cũng như các tạc đạn của pháo binh được các binh sĩ biến chế thành những cạm bẫy tự động và điều khiển giữa hai tuyến A và C, và khoảng một trăm thước bên ngoài tuyến C, đã được hoàn tất vào khoảng giữa tháng 5/71.

image105Ngày 15/5/71, trung đội thám kích phục kích và bắn chết sáu Việt cộng đang tìm cách thám sát con suối tại tọa độ XU548385, cách tiểu đoàn khoảng một cây số rưỡi về hướng Tây. Đây là một con suối độc nhất để tiếp tế nước uống cho toàn thể quân trú phòng. Vì thế BCH/TĐ tiên liệu rằng nếu địch vây đánh tiểu đoàn, chúng sẽ chế ngự con suối nầy trước tiên, để ngăn chận nguồn tiếp tế nước uống chủ yếu cho quân trú phòng. Vì thế các đơn vị đã xử dụng các vật dụng cơ hữu để lưu trữ nước uống cho một tuần lễ nếu bị bao vây. Đặc biệt trong ngày 16/5/71, tướng Hiếu thăm viếng tiểu đoàn, đã chỉ thị cho BTL/SĐ5 cung cấp thêm các thùng chứa nước và đạn dược, nên khả năng cầm cự của quân trú phòng có thể lâu được khoảng hai tuần lễ, nếu tiểu đoàn bị bao vây và hoàn toàn bị cô lập.

Tướng Hiếu đã nói riêng với TĐT 1/8 về sự thật B52 như sau, “Đừng tin vào Mỹ hứa hẹn về B52, phải tự lực cánh sinh một mình ở vị trí tiền đồn tử thủ này nếu không có lệnh rút lui. Anh phải có sáng kiến đem sự sống cho tiểu đoàn và chi đoàn thiết giáp đang biệt phái cho anh. Nếu có lệnh của tôi rút về, anh phải giả vờ cho lệnh tử thủ tại chỗ trong máy truyền tin, vì Việt Cộng chắc chắn sẽ nghe rõ trong máy, đồng thời bảo ông Dzần cho máy bay B52 thả tại lộ trình anh dự định rút quân. Sau đó, rút lẹ!

HÀNH QUÂN TỬ THỦ CỦA TĐ 1/8

TĐ1/8 và chi đoàn thiết giáp đã bị địch xử dụng hai tiểu đoàn của Trung đoàn E 6 và hai tiểu đoàn của Trung đoàn 174, để tấn công, bao vây và cô lập hóa từ sáng ngày 24/5/71 đến ngày 27/5/71. Hơn nữa, hỏa lực phòng không và pháo binh địch đã vô hiệu hóa khả năng tiếp tế và tải thương của không quân và LLKK của Hoa Kỳ trong các ngày trên.

Ngày 27/5/71, nhiều khu trục cơ và trực thăng võ trang đã thay nhau oanh tạc và bắn phá các vị trí pháo binh và phòng không địch, để yểm trợ cho trực thăng hạ cánh tải thương và tiếp tế, tuy nhiên hỏa lực địch vẫn tung hoành lên quân trú phòng, mặc dầu bãi đáp trực thăng đã thay đổi nhiều lần chung quanh vị trí phòng thủ. Như vậy TĐ1/8 và chi đoàn thiết giáp đã bị địch xử dụng hai tiểu đoàn của Trung đoàn E 6 và hai tiểu đoàn của Trung đoàn 174, để tấn công, bao vây và cô lập hóa từ sáng ngày 24/5/71 đến ngày 27/5/71. Hơn nữa, hỏa lực phòng không và pháo binh địch đã vô hiệu hóa khả năng tiếp tế và tải thương của không quân và LLKK của Hoa Kỳ.

Khoảng 08:00G ngày 28/5/71, tiểu đoàn nhận được mật điện từ BCH/CĐ8, cho lệnh bỏ căn cứ và rút quân về giao tiếp với Tiểu đoàn 2/7 tại chợ Snoul vào ngày mai, 29/5/71.

Khoảng 17:00G, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/8 xin gặp Thiếu tá Hùng, Trưởng ban 3 Trung đoàn 8, để nói chuyện bằng bạch văn trong máy truyền tin. TĐT nói, “Tôi đã nhận lệnh tử thủ cũng như tin mừng là chúng mình sẽ có B52 yểm trợ, tuy nhiên hiện nay có nhiều binh sĩ ngã bệnh vì thiếu nước uống sau năm ngày chiến đấu, lại không có tải thương hay tiếp tế. Tôi sợ rằng binh sĩ sẽ đầu hàng trong vòng 24 tiếng đồng hồ nữa, nếu họ không có tiếp tế nước uống gấp. Vì vậy tôi xin nhờ anh trình lên Đại Bàng cho chúng tôi đánh chiếm con suối sáng ngày mai để kiếm nước uống. Tôi sợ nhất là hai tiểu đoàn địch, sẽ đánh bọc hậu và đánh cạnh sườn chúng tôi, từ vị trí ở giữa tiểu đoàn và chợ Snoul dọc theo QL7, nếu chúng tôi xuất quân ngày mai. Vì vậy, tôi xin anh trình lại với Đại Bàng cho đánh tập trung B52 bằng hộp dọc theo QL7 để bình địa khoảng một cây số hai bên QL nầy. Nếu được như vậy là chúng tôi đủ sức chơi xả láng với chúng tại con suối nầy.” Thiếu tá Hùng thông minh trả lời, “Tôi hiểu rõ đề nghị của anh, tôi sẽ trình lên Đại Bàng gấp để xem sao.” Khoảng nửa giờ sau, Đại tá Dzần gọi máy để nói chuyện với Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/8, “Tôi chấp nhận đề nghị của anh, tuy nhiên anh phải chờ cho B52 đánh “Box” từ chỗ anh đến chợ để bảo vệ cho cạnh sườn và phía hậu của anh trước khi anh tấn công con suối.” Tiểu đoàn trưỏng Tiểu đoàn 1/8 trả lời, “Nhận rõ và thi hành”.

Đêm 28/5/71, các đại đội bí mật chôn xác các binh sĩ bị tử thương, và chỉ để lại hai toán nghe ngóng trên tuyến C. Pháo binh từ BCH/CĐ8 tiếp tục pháo kích con suối và QL7 từ tiểu đoàn đến chợ Snoul, trong khi địch gia tăng trận địa pháo vào tiểu đoàn suốt đêm. Súng cối 60 ly và 81 ly của tiểu đoàn tiếp tục bắn các quả đạn chiếu sáng để đề phòng địch tấn công bất ngờ, tuy nhiên địch không còn tấn công ồ ạt như đêm 23/5/71.

Lý Do Thất Bại Của Trung Đoàn E 6 Và 174 VC

Địa thế chung quanh khu vực phòng thủ của Tiểu đoàn 1/8 tạo rất nhiều bất lợi cho hai Trung đoàn địch trong kế hoạch xử dụng toàn khối9 (mass) để đè bẹp quân trú phòng bằng tấn công biển người, bởi vì các khu rừng tre già rất rậm rạp bao bọc từ ba hướng Bắc, Đông và Nam của căn cứ đã hoàn toàn cản trở địch trong việc điều động nhanh chóng hàng ngang. Hơn nữa các cây tre không đủ sức để che chở hỏa lực bắn thẳng cũng như pháo binh yểm trợ của quân ta, nên địch đã chịu tổn thất nặng nề trong hai đợt tấn công đầu tiên vào quân trú phòng vào sáng 24/5/71. Riêng hướng Đông, địch có thể điều động toàn thể hai tiểu đoàn để xung phong ồ ạt vào quân trú phòng, tuy nhiên địch đã bị vô hiệu hóa bởi những quả mìn tự động bằng đạn pháo binh, những quả mìn tự động Claymore, hỏa lực bắn thẳng của các chiến xa M 41 và bộ binh, và hỏa lực pháo binh yểm trợ từ BCH/CĐ8.

Địch cũng không đạt được yếu tố bất ngờ trong kế hoạch tấn công vì những quả mìn tự động cũng như các toán nghe ngóng và phục kích của quân ta.[9]

image107Ngoài ra địch lại hoàn toàn coi thường yếu tố an ninh[9] trong việc liên lạc truyền tin. Tất cả các cuộc đàm thoại bằng bạch văn trong máy truyền tin địch đã bị Đại uý Bảo nghe rõ để chuẩn bị đối phó trước khi địch ra tay hành động. Yếu tố thiếu an ninh nầy cũng là một lý do cho việc địch thiếu yếu tố bất ngờ trong các kế hoạch tấn công vào quân ta.

Địch lại quá chủ quan khi rà máy và nghe lóm các cuộc đàm thoại bằng bạch văn của quân trú phòng. Từ ngày 24/5/71 đến đêm 28/5/71, địch đã áp dụng trận địa pháo liên tục ngày đêm, để tạo thiệt hại và uy hiếp tinh thần của quân trú phòng, tuy nhiên TĐ1/8 cũng như chi đoàn chiến xa chỉ bị thiệt hại tương đối nhẹ, dưới biển lửa hỏa lực pháo kích của địch. Lý do chính là nhờ sự phân tán mỏng của quân trú phòng, hầm hố kiên cố, và sự thiếu chính xác của các quả đạn pháo binh và hỏa tiễn địch. Địa thế phòng thủ không cho phép địch quan sát từ xa để điều chỉnh các quả đạn thiếu chính xác nầy. Vì vậy muốn điều chỉnh pháo binh và hỏa tiễn cho chính xác, tiền sát viên địch phải bò sát vào tuyến C để quan sát, tuy nhiên các tiền sát viên nầy đã gặp phải những quả mìn tự động, các toán phục kích cũng như các toán nghe ngóng của quân trú phòng. Tính chủ quan đã làm địch tin tưởng hoàn toàn vào việc nghe lóm truyền tin của quân ta để điều chỉnh hỏa lực cho trận địa pháo của địch. Những quả đạn trúng đích vào vị trí phòng thủ được báo cáo về BCH/TĐ là vô sự vì chúng ở xa quân trú phòng, trong khi những quả đạn nổ xa tuyến phòng thủ A, lại được báo cáo về BCH/TĐ là bị thiệt hại.

Sự chủ quan của địch cũng làm địch bị lầm lẫn trong kế nghi binh của quân trú phòng. Từ ngày 25/5/71 đến ngày 28/5/71, các đại đội luôn luôn than phiền về BCH/TĐ về việc thiếu nước uống, một số binh sĩ đã ngã bịnh và mất tinh thần. Ngoài ra các đại đội đồng thanh xin tiếp tế nước uống khẩn cấp, hay phải đánh gấp vào con suối để lấy nước uống. Địch hoàn toàn tin tưởng vào các cuộc đàm thoại trong máy truyền tin của quân trú phòng, bởi vì chúng thừa hiểu rằng các LLKK Hoa Kỳ đã không thể tải thương hay tiếp tế cho TĐ1/8 vì hỏa lực phòng không và trận địa pháo của chúng quá mạnh. Do đó địch chủ quan tin rằng cứ việc bao vây, pháo kích mạnh để ngăn chặn trực thăng tiếp tế và tải thương, là đủ để quân trú phòng đầu hàng vì thiếu nước uống. Sự thật, địch đã mắc mưu quân trú phòng trong kế hoạch “Trì Hoãn Chiến” để chờ tăng viện, theo kế hoạch “Điệu Hồ Ly Sơn” của Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 và tướng Hiếu.

Tiểu Đoàn 1/8 Và Chi Đoàn Chiến Xa Rút Quân Dưới Áp Lực Tấn Công Của Hai Trung Đoàn Địch

image109Khoảng 05:00G ngày 29/5/71, các toán nghe ngóng bí mật bò về tuyến C, trong khi trung đội thám kích rời BCH/TĐ để thám sát con đường mòn và QL7 về hướng Nam của căn cứ.Tất cả các hoạt động của quân trú phòng đều im lặng vô tuyến.

Khoảng 06:30G, BCH/TĐ nhận được ba tiếng “Click” trong máy truyền tin. Như vậy, theo ám hiệu đã được qui định sẵn, BCH/TĐ đã hiểu rõ rằng địch đã di chuyển khỏi các hầm hố cá nhân ở khoảng giữa đường từ tiểu đoàn đến chợ Snoul trên QL7 và con đường mòn.

Khoảng 07:00G, BCH ban hành khẩu lệnh hành quân như sau:

Tiểu đoàn sẽ xử dụng yếu tố nghi binh, thần tốc, bí mật tuyệt đối và phối hợp hỏa lực của nhị thức bộ binh-thiết giáp, để rút quân ngày 29/5/71.[9]

(1) Đại đội 1 dẫn đầu cuộc rút quân, tiến nhanh về chợ Snoul, dọc theo bên trái của QL7 để giao tiếp với Tiểu đoàn 2/7 tại chợ Snoul.

(2) Đại đội 2 cũng dẫn đầu rút quân, tiến nhanh về chợ Snoul, dọc theo bên phải của QL7 để giao tiếp với Tiểu đoàn 2/7 tại chợ Snoul.

(3) Chi đoàn trừ chiến xa theo sau Đại đội 2, tiến theo hàng dọc, để bảo vệ cạnh sườn phải của Đại đội 2, đồng thời trách nhiệm chở các thương binh nặng và các súng cối 81 ly của tiểu đoàn.

(4) Đại đội 3 được tăng phái một chi đội chiến xa, có nhiệm vụ bọc hậu và gom nhặt các thương binh tử sĩ của tiểu đoàn.

(5) Trung đội thám kích rời vị trí nghe ngóng để giao tiếp đầu tiên với Tiểu đoàn 2/7 tại chợ Snoul.

(6) BCH/TĐ theo sát Đại đội 1.

Huấn thị phối hợp được ban hành như sau:

(1) Lệnh xuất phát được ban hành trong máy truyền tin bằng ám lệnh, “Các đơn vị phải tiếp tục đào hầm hố để tử thủ” khoảng 08:50G.

(2) Các đơn vị phải áp dụng yếu tố bí mật tối đa, bằng cách phải để lại tất cả cảc lều chõng, và im lặng vô tuyến cho đến khi được lệnh rút quân.

(3) Các binh sĩ phải được giải thích cặn kẽ về yếu tố thần tốc bằng truyền khẩu, nhất là tuyệt đối cấm nằm xuống đất khi địch tác xạ bằng đạn bắn thẳng hay pháo kích của địch, bởi vì trì hoãn di chuyển là tử thần cho cuộc lui binh nầy.

(4) Các đơn vị phải tự tổ chức kế hoạch tải thương cho nhau, với điều kiện không được trì hoãn việc tiến quân thần tốc.

Khoảng 08:30G, Tiểu đoàn 2/7 làm chủ tình hình tại chợ Snoul.

Khoảng 09:00G, BCH/TĐ lại nghe rõ bốn tiếng “Click” từ máy truyền tin của trung đội thám kích. Như vậy, lực lượng địch đã hoàn toàn rời khỏi lộ trình rút quân của tiểu đoàn. Tiểu đoàn trưởng cho lệnh trong máy truyền tin rằng tiếp tục đào hầm hố để tử thủ. Chỉ trong vòng chưa đầy mười phút, các đơn vị cuối cùng của Đại độ 3 đã rời khỏi căn cứ, để chạy theo một chi đội chiến xa. Đại uý Bảo đã nghe rõ trong máy truyền tin địch, “Chúng ta đã mắc mưu đồ chó đẻ. Các đơn vị trở lại gấp rút để bao vây và đánh chết chúng nó.”

Khoảng 09:20G, Đại đội 2 và các chiến xa đã thấy rõ địch đang dàn hàng ngang bên cánh phải trong rừng cao su, vừa chạy vừa bắn vào quân ta. Đồng thời Đại đội 1 và BCH/TĐ cũng bị hỏa lực bắn thẳng của địch từ các rừng tre rậm rạp từ cạnh sườn bên trái. Pháo binh địch bắt đầu pháo kích từng chùm vào trục tiến quân của tiểu đoàn, trong khi Đại đội 3 báo cáo là địch đang theo bén gót đằng sau, nên yêu cầu đằng trước chạy nhanh hơn lên. Bất chấp biển lửa hỏa lực của địch, các chiến sĩ bộ binh cũng như thiết giáp tiếp tục vừa chạy vừa bắn trả vào quân địch. Hỏa lực của pháo binh từ BCH/CĐ8 cũng bắt đầu đánh phá các trục tiến quân của địch, làm địch trì hoãn xung phong vào cạnh sườn phải của Đại đội 2. Nhờ thế các đại đội có đủ thì giờ để tiếp tục mang theo các binh sĩ bị thương

Khoảng 09:30G, bốn phi cơ trực thăng của LLKK Hoa Kỳ đã bay sát trên đầu của Tiểu đoàn để yểm trợ trực tiếp cho trận tao ngộ chiến giữa địch và ta. May thay hỏa lực phòng không của địch hoàn toàn im hơi lặng tiếng. Lý do là địch đã sợ B52, nên đã di chuyển đêm hôm trước tất cả bộ binh cũng như các vị trí phòng không tại các vị trí nầy. Thế là các phi cơ tha hồ tung hoành trên không phận để tiêu diệt các cánh quân địch từ cạnh sườn phải, trái và đằng sau Đại đội 3. Đồng thời hỏa lực hùng hậu của các chiến xa cũng như bộ binh đã phối hợp để tiêu diệt hàng trăm con thiêu thân trong rừng cao su, bên phải của Đại đội 2, đang tìm cách xung phong tuyệt vọng vào các cánh quân di chuyển thần tốc của toàn thể tiểu đoàn và thiết giáp. Tướng Hiếu, Tư lệnh Sư đoàn 5, cũng đã can đảm bay trên phi cơ chỉ huy sát ngọn cây cao su, ra chỉ thị cho tiểu đoàn tiếp tục tiến nhanh hơn, để tránh mưu đồ bao vây của địch trong trận tao ngộ chiến ngoạn mục nầy. Sự xuất hiện bất ngờ của tướng Hiếu trên đầu các lực lượng lui quân cũng gia tăng thêm tinh thần chiến đấu cho các chiến sĩ, để họ tiếp tục chạy nhanh hơn dưới biển lửa của trận địa pháo địch.

Khoảng 10:30G, toàn thể Tiểu đoàn 1/8 và các chiến xa đã giao tiếp với Tiểu đoàn 2/7 tại chợ Snoul. Các chiến xa hoàn toàn được bảo toàn, trong khi Tiểu đoàn 1/8 chỉ có thiệt hại tương đối nhẹ, mang theo tất cả các thương binh về BCH/CĐ8 tại Snoul.

Lý Do Thành Công Của Cuộc Rút Quân Của TĐ1/8 Và Thiết Giáp

Nghi binh[9] là một yếu tố chủ yếu cho sự thành công của việc rút quân, dưới áp lực tấn công, bao vây của hai trung đoàn địch trong năm ngày và năm đêm tại căn cứ của Tiểu đoàn 1/8. Nếu địch cứ tiếp tục chiếm giữ các hầm hố đã đào sẵn tại khoảng giữa chợ Snoul và vị trí của tiểu đoàn, tiểu đoàn sẽ phải chịu một thiệt hại rất nặng, nếu may mắn chọc xuyên được phòng tuyến của địch. Nếu tiểu đoàn không đủ sức để chọc thủng tuyến chặn địch nầy, chắc chắn là toàn bộ Tiểu đoàn 1/8 và chi đoàn chiến xa sẽ bị bao vây và bị tiêu diệt bởi hai trung đoàn địch.

Nhờ có yếu tố nghi binh, nên yếu tố thần tốc là yếu tố chủ yếu thứ nhất cho sự thành công của cuộc lui binh nầy.[9]Các binh sĩ đều hiểu rõ rằng, thời gian trì hoãn việc di động lui quân sẽ là tử thần cho họ, nên tất cả binh sĩ đã biểu lộ lòng quyết chiến và lòng gan dạ, bằng cách bất chấp hỏa lực địch để tiếp tục vừa chạy vừa bắn trả vào quân địch.

Phối hợp toàn diện trong việc điều binh, hỏa lực giữa thiết giáp-bộ binh, pháo binh[9] và hỏa lực không quân của LLKK Hoa Kỳ đã vô hiệu hóa âm mưu tấn công và bao vây của hai trung đoàn địch.

Tướng Hiếu đã biểu lộ lòng can đảm khi xông pha trận mạc với các chìến sĩ đang lâm trận, đã nâng cao tinh thần chiến đấu và niềm tự tin cho toàn thể các chiến hữu đang rút lui, trước hỏa lực và lực lượng áp đảo của hai trung đoàn địch.[10,11]

Chiến Đoàn 8 Rút Quân Dưới Áp Lực Tấn Công
Và Bao Vây Của Hai Sư Đoàn 5 Và 7 VC

CÁC ĐƯỜNG LỐI HÀNH ĐỘNG

Đây là một cuộc rút quân hầu như tự sát, bởi vì Chiến đoàn 8 phải rút quân đơn thương độc mã trước sự bao vây và tấn công liên tục của hai Sư đoàn 5 và 7 VC, từ ngày 24/5/71 đến ngày 31/5/71. Nghi binh theo lối dùng truyền tin không còn hữu hiệu được nữa, bởi vì địch đã biết cách chơi máy truyền tin của quân ta rồi! Hai chiến đoàn ở hướng Tây-Nam Snoul vẫn án binh bất động trong các ngày trên, trong khi LLXKQĐ3 đang hoạt động ở phía Nam Đồn điền Chup cho đến ngày 29/5/1971, mới được lệnh Quân đoàn về Thiên Ngôn (Tây Ninh), và chỉ được tăng phái cho Sư đoàn 5 kể từ ngày 31/5/71. Chiến đoàn 8 chỉ còn trông cậy vào hỏa lực yểm trợ của LLKK Hoa Kỳ trong cuộc rút quân sinh tử nầy. Vì vậy, Đại tá Dzần, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 8, phải đắn đo chọn lựa một trong hai giải pháp thực tế để hoàn thành nhiệm vụ bất khả kháng nầy.

(1) Áp Dụng Kế Hoạch Trì Hoãn Chiến

Muốn áp dụng kế hoạch trì hoãn chiến, Chiến đoàn 8 cần phải có đủ ba điều kiện chủ yếu để bảo toàn lực lượng lui quân và chấp nhận một sự tổn hại tương đối nhẹ. Điều kiện thứ nhất là chiến đoàn phải có một lực lượng quân số gần tương đương với địch. Điều kiện thứ hai là chiến đoàn phải có thêm lực lượng tăng viện, để ít nhất uy hiếp cạnh sườn và mặt hậu của địch, cũng như cung cấp hỏa lực yểm trợ cho chiến đoàn trong khi lui binh. Điều kiện thứ ba là phía hậu của lộ trình lui binh phải được bảo toàn an ninh. Chẳng may, Chiến đoàn 8 không có các điều kiện nêu trên. Chiến đoàn 8 đang đương đầu với một lực lượng địch gấp năm hay sáu lần, trong khi hai chiến đoàn bạn ở hướng Tây-Nam vẫn án binh bất động, đồng thời LLXKQĐ3 vẫn chưa được tăng phái cho Sư đoàn 5 để giữ an ninh mặt hậu của lộ trình rút lui của Chiến đoàn 8. Tuy nhiên Chiến đoàn 8 còn có một lợi điểm hơn địch, Đại đội A của LLKK Hoa Kỳ yểm trợ trực tiếp cho chiến đoàn trong cuộc lui quân nầy. Do đó Đại tá Dzần phải tự đặt câu hỏi, “Liệu khả năng không yểm của đại đội không kỵ nầy có đủ sức để thay thế ba điều kiện cần thiết nêu trên hay không?” Ba yếu tố cần thiết cho sự thành công của không yểm là hỏa lực phòng không của địch, thời tiết và địa thế. Từ ngày 24/5/71 đến ngày 29/5/71, thời tiết rất tốt, thuận tiên rất nhiều cho không yểm, tuy nhiên khả năng phòng không của địch rất hùng hậu, đến nỗi các phi công không thể hạ cánh để tải thương và tiếp tế cho Tiểu đoàn 1/8, ngoài ra địa thế của khu vực hành quân hoàn toàn bất lợi cho không yểm, bởi vì những khu rừng cao su già quá rậm rạp và những rừng cây quá dày đặc từ Snoul đến biên giới Việt Nam. Do đó LLKK Hoa Kỳ rất khó nhận diện các cuộc chuyển quân của địch và ta ở trên đất, ngoại trừ dọc theo hai bên QL 13 về hướng Đông-Nam được khai quang khoảng 50 mét. Ngoài ra, LLKK Hoa Kỳ cũng không có sĩ quan liên lạc ở trên đất với bộ binh để điều chỉnh và tác xạ theo yêu cầu trực tiếp của Chiến đoàn 8. Căn cứ vào những điều kiện khả hữu trên của chiến trường lúc bấy giờ, Đại tá Dzần nhận định rằng LLKK Hoa Kỳ không thể thay thế ba điều kiện chủ yếu đã thiếu mất cho sự sống còn của Chiến đoàn 8 trong kế hoạch trì hoãn chiến nầy. Như vậy Đại tá Dzần đã thấy rõ rằng, nếu áp dụng kế hoạch trì hoãn chiến trong trường hợp nầy, hai sư đoàn địch sẽ có đủ thì giờ để điều động quân từ hướng Đông-Bắc và Tây-Bắc của Snoul để bao vây, cắt đứt các đơn vị, và tiêu diệt toàn bộ Chiến đoàn 8.

(2) Áp Dụng Kế Hoạch Rút Lui Bất Ngờ Và Thần Tốc [9]

Theo kế hoạch nầy, Chiến đoàn 8 phải chấp nhận một sự thiệt hại rất nặng nề, nhất là các vật dụng nặng nề và cồng kềnh, không thể di chuyển kịp thời với bộ binh và thiết giáp. Ưu điểm của kế hoạch nầy là địch không có thì giờ điều động toàn bộ hai sư đoàn cùng pháo binh và hai tiểu đoàn phòng không để bao vây, và tổ chức trận địa pháo lên các quân ta, không có hầm hố ẩn núp ở ngoài trời trong khi đang lui binh. Dĩ nhiên thà chấp nhận thiệt hại nặng nề còn hơn là bị tiêu diệt toàn bộ chiến đoàn, hay là bị bắt sống bởi hai sư đoàn địch. Hơn nữa chiến đoàn còn có hy vọng sẽ có dịp tiêu diệt lực lượng địch, hay gây thiệt hại cho địch trong khi lui binh. Do đó Đại tá Dzần đã sáng suốt chấp nhận phải thi hành bất đắc dĩ cái hạ kế, “Nhất Công, Nhì Thủ, Tam Tẩu”, để cứu sống Chiến đoàn 8 trong nhiệm vụ lui binh gần như tự sát nầy.

QUAN NIỆM HÀNH QUÂN LUI BINH

Xử dụng yếu tố nghi binh và điều quân thần tốc, dưới hỏa lực không yểm của Đại Đội A của LLKK Hoa Kỳ, trong hai giai đoạn: giai đoạn 1 sẽ lui binh từ Snoul đến Tiểu đoàn 3/9 trong ngày 30/5/71, và giai đoạn 2 sẽ lui binh từ Tiểu đoàn 3/9 đến LLXKQĐ3, để trở về Lộc Ninh trong ngày 31/5/71.[9]

PHÂN CÔNG GIAI ĐOẠN 1

(1) TĐ1/8 được tăng phái chi đoàn thiết vận xa M113, làm nỗ lực chính, phá vỡ tuyến bao vây của địch, để giao tiếp với TĐ3/8 và Tiểu đoàn 3/9 trong ngày 30/5/71.

(2) TĐ2/8 bảo vệ cánh sườn phải cho TĐ1/8 cho đến khi TĐ1/8 giao tiếp với TĐ3/8. Sau đó theo sau TĐ1/8 để làm lực lượng trừ bị cho chiến đoàn.

(3) BCH/CĐ theo sau TĐ1/8.

(4) Đại đội công vụ và trung đội quân y trách nhiệm thu góp các thương binh và tử sĩ của TĐ1/8 và TĐ2/8.

(5) TĐ2/7 được tăng phái chi đoàn chiến xa, làm lực lượng bảo vệ phía hậu của chiến đoàn.

(6) TĐ3/8 phản công ra khỏi vị trí phòng thủ, bố trí yểm trợ cho TĐ1/8 và TĐ2/8, sẵn sàng di chuyển theo sau BCH/CĐ từ vị trí của TĐ3/8 đến TĐ3/9 để làm lực lượng trừ bị cho chiến đoàn.

(7) TĐ3/9 xử dụng hai đại đội để phản công ra khỏi vị trí phòng thủ, sẵn sàng yểm trợ và giao tiếp với TĐ1/8 trong ngày 30/5/71.

(8) Đại đội A của LLKK Hoa Kỳ yểm trợ trực tiếp cuộc lui quân.

(9) Tiểu đoàn pháo binh xử dụng một nửa số đạn pháo binh để bắn phá các mục tiêu địch về hướng Tây-Bắc và Đông-Bắc trong đêm 29/5/71, để đánh lạc hướng địch trong kế hoạch rút quân ngày mai, 30/5/71, đồng thời xử dụng một nửa số đạn dược còn lại để bắn phá từng chùm lên các mục tiêu trên đường tiến quân của TĐ1/8 và TĐ2/8 trong ngày 30/5/71. Sau đó phá hủy các khẩu súng trước khi lui binh.

HUẤN THỊ PHỐI HỢP

(1) Xử dụng yếu tố thần tốc để đánh xả láng nếu cần để tránh khỏi bị bao vây của địch.

(2) Tuyệt đối bảo mật truyền tin.

(3) TĐ1/8 và TĐ2/7 bố trí quân về hướng Tây-Bắc và Đông-Bắc, xử dụng các toán tuần thám và phục kích trong hai hướng nầy trong đêm 29/5/71, để đánh lạc hướng địch trong kế hoach rút quân của ta trong ngày 30/5/71.

PHÂN CÔNG GIAI ĐOẠN 2

(1) TĐ3/8 được tăng phái một chi đoàn chiến xa, làm nỗ lực chính để về biên giới VN, vượt tuyến xuất phát lúc 07:30G ngày 31/5/71 để tiến dọc theo bên phải QL13. Nếu cần, TĐ3/8 sẽ đánh xả láng theo kế hoạch thần tốc để phá vỡ vòng vây của địch.

(2) TĐ3/9 bảo vệ cánh sườn trái của TĐ3/8 dọc theo bên trái của QL13. Nếu cần, TĐ3/9 sẽ đánh xả láng theo kế hoạch thần tốc để phá vỡ vòng vây của địch.

(3) BCH/CĐ theo sau TĐ3/8.

(4) TĐ2/7 bảo vệ cánh sườn phải của TĐ3/8.

(5) TĐ2/8 làm lực lượng trừ bị cho chiến đoàn, theo sau BCH/CĐ.

(6) TĐ1/8 tiếp tục được tăng phái chi đoàn thiết quân vận M113, bảo vệ phía hậu của chiến đoàn

(7) Đại đội A của LLKK Hoa Kỳ yểm trợ trực tiếp cuộc lui quân.

DIỄN TIẾN HÀNH QUÂN GIAI ĐOẠN 1

Chiều ngày 29/5/71, TĐ1/8 đã tung ra ba toán phục kích và hai toán tuần thám về hướng Tây-Bắc của Snoul, đồng thời các binh sĩ tiểu đoàn đã hiểu rõ nhiệm vụ đánh xả láng ngày mai, 30/5/71, để mở đường máu cho các lực luợng theo sau. Quan niệm hành quân ngày 30/5/71 cũng tương tự như quan niệm hành quân của ngày 29/5/71 trong cuộc lui binh của TĐ1/8 từ hướng Bắc về chợ Snoul, nên họ đã quen thuộc với kế hoạch sắp đến của chiến đoàn vào hôm sau. Tuy nhiên trong ngày 30/5/71, các binh sĩ TĐ1/8 hiểu rõ là họ sẽ đóng vai trò của những chàng hiệp sĩ “Samurai” để xung phong thẳng vào địch, và chỉ nằm xuống khi họ bị thương hay tử thương mà thôi.

TĐ1/8 đã nghe rõ trong đêm 30/5/71, rất nhiều phi cơ oanh tạc liên tục từ hướng Tây-Bắc và Đông-Bắc của Snoul. Như vậy tướng Hiếu cũng đang áp dụng kế hoạch nghi binh để trợ giúp cho kế hoạch lui quân của Chiến đoàn 8 vào ngày 30/5/71. Các cuộc oanh tạc nầy còn có mục đích tiêu diệt và ngăn chặn các cuộc chuyển quân của địch từ hướng Tây-Bắc và Đông-Bắc của Snoul về hướng Đông-Nam của cuộc lui binh vào ngày mai, 30/5/71.

Khoảng 08:00G ngày 30/5/71, không quân oanh tạc các mục tiêu trên lộ trình rút quân của Chiến đoàn 8, cũng như các mục tiêu chiến thuật, để ngăn chặn các cuộc điều binh bao vây của địch.

Khoảng 08:30, pháo binh CĐ8 bắn phá từng chùm trên lộ trình tiến quân của TĐ1/8 để giao tiếp với TĐ3/8 đang bị địch bao vây.

Khoảng 09:00G, TĐ1/8 xử dụng Đại độ 2 và Đại đội 3 cùng chi đoàn M113 làm nỗ lực chính vượt tuyến xuất phát, trong khi Đại đội 1 bảo vệ cạnh sườn trái của Đại đội 2. Các cấp chỉ huy từ tiểu đoàn trưởng đến trung đội trưởng đều trang bị thêm súng cá nhân M16, để xung phong tuyến đầu với binh sĩ. Vượt khỏi tuyến xuất phát khoảng một cây số, TĐ 1/8 đã thấy rõ địch dưới các hầm hố cá nhân trong rừng cao su, bắt đầu đồng loạt khai hỏa khi tiểu đoàn tiến sát vào địch khoảng 200 mét, đồng thời pháo binh địch bắt đầu mở trận địa pháo từng chùm lên lộ trình tiến quân của tiểu đoàn. Bất chấp biển lửa của địch, Chi đoàn Thiết quân vận M113 cùng Tiểu đoàn 1/8 tiếp tục vừa di chuyển vừa bắn trả, từ cây cao su nầy đến cây cao su đằng trước của lộ trình tiến quân, mặc dù đã có một số binh sĩ bị gục ngã.

image111Khoảng 09:40G, địch xử dụng trận địa pháo lên toàn trục tiến quân của Chiến đoàn 8, đồng thời Tiểu đoàn 2/8 bị địch chọc thủng phòng tuyến từ cánh sườn phải, phải chạy ép về phía Tiểu đoàn 1/8. May thay sáu phi cơ trực thăng trang bị vũ khí và hỏa tiễn của LLKK Hoa Kỳ đang quần thảo trên các ngọn cây cao su, để tác xạ vào địch đang xung phong ồ ạt vào Tiểu đoàn 2/8, chặn đứng ngay đợt xung phong đầu tiên của địch vào Tiểu đoàn 2/8. Đồng thời Tiểu đòan 1/8 nghe rõ trong máy truyền tin rằng Tiểu đoàn 2/7 đang bị áp lực pháo kích và xung phong ở đằng sau. Tướng Hiếu đã bay trên đầu của Tiểu đoàn 1/8, ra lệnh trực tiếp cho tiểu đoàn phải chọc thủng phòng tuyến địch gấp với mọi giá, để mở đường máu cho chiến đoàn đang bị địch bao vây ở đàng sau. Bấy giờ địch và ta đang quần thảo trong vòng khoảng 100 thước, nên Tiểu đoàn 1/8 và Chi đoàn thiết quân vận M113 chỉ trông cậy vào hỏa lực cơ hữu để xung phong đánh cận chiến với địch đang ở trong các hầm hố cá nhân. Khẩu lệnh xung phong được truyền rất mau đến các binh sĩ ở hàng đầu, bởi vì các sĩ quan chỉ huy đều ở vị trí hàng đầu với các binh sĩ trong lúc nầy. Bất chấp hỏa lực bắn thẳng từ phía trước, bên hông phải cũng như trận địa pháo tàn khốc của địch, những chàng “Samurai” của thiết giáp và bộ binh vừa bắn vừa xung phong vào tuyến phòng thủ của địch. Xác địch và ta đã lẫn lộn trên các hầm hố cá nhân và giao thông hào của địch, trong khi các thiết vận xa tiếp tục chạy cán lên địch không chạy kịp ra khỏi các hầm hố. Máu địch của địch và ta đã hòa lẫn cùng nhau trong trận đánh cận chiến để đời và ngắn ngủi, không đầy khoảng mười lăm phút đồng hồ, để toàn thể Tiểu đoàn 1/8 và các chiến sĩ anh hùng thiết giáp vượt qua khỏi tuyến kháng cự của hơn một tiểu đoàn địch. Hình ảnh Tiểu đoàn trưởng và Tiểu đoàn phó của Tiểu đoàn 1/8 phải bật khóc trên tuyến kháng cự nầy, khi họ thấy và nghe những tiếng kêu cứu đau lòng của các chiến hữu bị thương nặng đang nằm bên xác địch, “Đại Bàng ơi, đừng bỏ em, cho em theo với,” đủ nói lên cái mức độ tàn khốc và đau lòng của trận chiến xung phong cảm tử nầy của thiết giáp và bộ binh. Những khuôn mặt đau đớn, cùng những cặp mắt van xin cầu khẩn của các chiến hữu phải bị bỏ lại cho đại đội công vụ đằng sau thu nhặt, vẫn còn xuất hiện thường xuyên trong các giấc mộng hãi hùng của sĩ quan Tiểu đoàn trưởng 1/8 trên mảnh đất tạm dung nầy.

Thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, các chàng “Samurai” tiếp tục thanh toán các ổ kháng cự đàng sau trên đường giao tiếp với Tiểu đoàn 3/8 với một đoạn đường còn lại khoảng chừng hai cây số. Đa số các ổ kháng cự của địch đã hoảng sợ bỏ chạy trước khi quân ta vượt qua, nên Tiểu đoàn 1/8 và chi đoàn thiết vận xa đã giao tiếp với Tiểu đoàn 3/8 vào khỏang 11:00G, tuy nhiên Tiểu đoàn 2/8 và BCH của chiến đoàn vẫn còn bị kẹt lại ở đàng sau, bởi vì địch đã xử dụng trận địa pháo và tấn công cánh sườn phải của Tiểu đoàn 2/8 quá mãnh liệt. Tiểu đoàn nhận lệnh phải ở lại và án ngữ quanh khu vực Tiểu đoàn 3/8, để yểm trợ cho cánh quân ở đàng sau đang quần thảo ngang ngửa với địch. Đại uý Bảo có đủ thì giờ để rà máy truyền tin địch, nghe rõ địch đang ra lệnh cho các đơn vị điều động để bao vây và chia cắt Chiến đoàn 8 còn lại ở đàng sau, cũng như những tiếng phàn nàn của địch trong việc di chuyển các ổ phòng không từ hướng Bắc của Snoul về hướng Đông-Nam tại khu vực đang giao tranh của địch và ta. Đại uý Bảo liền báo gấp cho BCH của chiến đoàn về âm mưu nầy của địch, đồng thời nghe rõ Tướng Hiếu chỉ thị cho Chiến đoàn vượt gấp theo Tiểu đoàn 1/8. Chính tướng Hiếu đã can đảm bất chấp hỏa lực địch, bay sát trên các ngọn cây cao su để quan sát địch, và chỉ thị cho LLKK Hoa Kỳ tác xạ tiêu diệt các cánh quân địch đang xung phong vào Tiểu đoàn 2/8 và Tiểu đoàn 2/7. Đại tá Dzần cùng Thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 1 thiết giáp vượt lên với Tiểu đoàn 2/8 để tấn công vào địch bên cánh sườn phải của tiểu đoàn 2/8, yểm trợ hữu hiệu cho Tiểu đoàn 2/8 đang cố gắng ép qua bên trái để tiến nhanh qua lỗ hổng do Tiểu đoàn 1/8 đã phá vỡ để tiếp tục giao tiếp với Tiểu đoàn 1/8. Sau cùng, BCH, Thiết đoàn 1 và Tiểu đoàn 2/8 đã anh dũng tiêu diệt cánh quân địch ở bên sườn phải để mở đường cho Tiểu đoàn 2/7 theo sau, dưới áp lực tấn công và trận địa pháo tàn khốc của địch. May mắn thay địch không có đủ thì giờ để di chuyển các ổ phòng không từ hướng Tây-Bắc và Đông-Bắc của Snoul về hướng Đông-Nam để bắn phá các trực thăng yểm trợ của LLKK Hoa Kỳ. Do đó các anh hùng đồng minh tha hồ tiêu diệt các cánh quân của địch đang điều động bao vây Chiến đoàn 8, theo chỉ thị của tướng Hiếu.

Khoảng 12:00G, Tiểu đoàn 1/8 và chi đoàn thiết quân vận nhận lệnh tiếp tục tiến quân từ vị trí Tiểu đoàn 3/8 đến vị trí bố quân của Tiểu đoàn 3/9, trong vòng khoảng chín cây số dọc theo hướng Đông-Nam của QL13. Địch bắt đầu gia tăng trận địa pháo khi Tiểu đoàn 1/8 vừa rời khỏi vị trí, với mục đích trì hoãn cuộc lui binh của quân ta, tuy nhiên Tiểu đoàn 1/8 và chi đoàn thiết quân vẫn bất chấp biển lửa của pháo binh địch, vượt khỏi khu vực trận địa pháo khoảng hai trăm thước, để tiếp tục thanh toán các ổ kháng cự địch dọc theo QL13. Trong giai đoạn nầy, Tiểu đoàn 1/8 và chi đoàn thiết quân vận chỉ trông cậy vào hỏa lực cơ hữu của mình, bởi vì LLKK Hoa Kỳ phải dành ưu tiên cho các cánh quân ở đàng sau, đang quần thảo với địch từng giây từng phút để cố vượt ra khỏi vòng vây của địch. May mắn thay Tiểu đoàn 1/8 và chi đoàn thiết quân vận chỉ gặp phải những ổ kháng cự và phục kích địch tương đối yếu ớt, nên nhờ hỏa lực yểm trợ hùng hậu của các chiến xa cũng như kế hoạch điều binh nhanh chóng của bộ binh, TĐ1/8 và chi đoàn thiết quân vận đã giao tiếp với Tiểu đoàn 3/9 vào khoảng 17:30G trong ngày, trong khi BCH chiến đoàn và các đơn vị theo sau phải tiếp tục quần thảo với địch theo sau bén gót, cũng như phải đương đầu với các cuộc phục kích vận động chiến của địch dọc theo QL13.

DIỄN TIẾN HÀNH QUÂN GIAI ĐOẠN 2

image113Đêm 30/5/71, Chiến đoàn 8 phòng thủ ngoài khu vực phòng thủ của Tiểu đoàn 3/9, trong khi pháo binh và không quân đánh phá suốt đêm dọc theo QL13 đến Snoul, để tiêu diệt và ngăn ngừa các cuộc chuyển quân của địch về hướng Đông-Nam của QL13. Trong đêm nầy, sương mù dày đặc suốt đêm đến khoảng 9:30G sáng ngày 31/5/71, đến nỗi bộ binh chỉ thấy nhau trong tầm khoảng cách không quá mười lăm thước, vì vậy cuộc lui quân phải bị trì hoãn khoảng hai tiếng đồng hồ theo kế hoạch đã dự trù.

Từ 07:30G đến 09:30G ngày 31/5/71, pháo binh của LLXKQĐ3 liên tục bắn phá các mục tiêu dự trù trên lộ trình lui quân, trước khi Chiến đoàn 8 vượt tuyến xuất phát để giao tiếp với LLXKQĐ3, mới được tăng phái cho Sư đoàn 5 trong ngày nầy, 31/5/71.

Khoảng 09:30G, chiến đoàn bắt đầu lui quân về hướng Đông-Nam của QL13 theo kế hoạch dự trù, trong khi LLXKQĐ3 cũng tấn công từ biên giới về hướng Tây-Bắc dọc theo QL13, theo thế trên đe dưới búa để áp đảo đối phương. Các trực thăng yểm trợ hỏa lực của LLKK Hoa Kỳ cũng bắt đầu đánh phá các mục tiêu hai bên QL13 để bảo vệ cạnh sườn cho bộ binh.

Khoảng 11:30G, Tiểu đoàn 3/8 và Tiểu đoàn 3/9 đã giao tiếp với LLXKQĐ3, trong khi BCH Chiến đoàn 8 đang lọt ổ vận động phục kích của địch, và Tiểu đoàn 1/8 cũng đang bị địch uy hiếp ở đàng sau, đồng thời LLXKQĐ3 cũng đang giao tranh mạnh hai bên QL13, cách BCH/CĐ khoảng 500 thước. Đại tá Khôi yêu cầu Đại tá Dzần dừng lại, để chờ cho LLXKQĐ3 thanh toán xong địch rồi mới di chuyển, tuy nhiên Đại tá Dzần quyết định đánh gấp theo thế “Trên Đe Dưới Búa” để phá âm mưu bao vây của địch. BCH Chiến đoàn 8 và BCH Thiết đoàn 1 đã anh dũng xung phong vào ổ phục kích để tiêu diệt địch, dưới sự yểm trợ của LLXKQĐ3 và LLKK Hoa Kỳ. Trung tá Đinh Văn Tọa, Trung đoàn phó Trung đoàn 8, và Thiếu tá Trương Hồng Cẩm, Thiết đoàn phó Thiết đoàn 1, đã anh dũng tử trận trong cuộc xung phong nầy. LLXKQĐ3 cũng đã anh dũng tiến lên tiêu diệt địch khoảng hơn 4/5 quân số.

Khoảng 12:30G, LLXKQĐ3 hoàn toàn làm chủ chiến trường, để đơn vị cuối cùng của chiến đoàn, Tiểu đoàn 1/8, rút quân an toàn về biên giới.

Tại Sao Hai Sư Đoàn VC Thất Bại Bao Vây Để Tiêu Diệt Chiến Đoàn 8?

Địch đã mắc mưu kế nghi binh của tướng Hiếu và Đại tá Dzần trong đêm 29/5/71, nên địch cứ lầm tưởng rằng Chiến đoàn 8 sẽ mở cuộc hành quân tấn công họ về hướng Tây-Bắc hay hướng Đông-Bắc vào ngày 30/5/71. Do đó địch đã lầm lẫn không cho điều động hai tiểu đoàn phòng không và tập trung thêm bộ binh, từ hướng Tây-Bắc hay hướng Đông-Bắc về hướng Đông-Nam, để tham gia trực tiếp chiến trường ngày 30/5/71 tại khoảng một cây số trên QL13 ở hướng Đông-Nam của Snoul.

Cuộc rút quân bất ngờ và thần tốc của Chiến đoàn 8 cũng như hỏa lực không yểm của LLKK Hoa Kỳ đã hữu hiệu tiêu diệt và chận đứng, hay trì hoãn các cuộc điều binh của địch từ hướng Tây-Bắc hay hướng Đông-Bắc về hướng Đông-Nam để tham dự chiến trường thật sự ngày 30/5/71.[9]

Tinh thần quyết chiến của các chiến hữu Chiến đoàn 8 được khích lệ bởi sự hiện diện thường trực của tướng Hiếu, trong khi ông đã can đảm bất chấp hỏa lực pháo binh và bộ binh của địch, bay sát các cánh quân của địch, quan sát và điều chỉnh hỏa lực tác xạ của LLXK Hoa Kỳ cho chính xác vào các lực lượng địch.[10,11]

Đại tá Dzần cùng Thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 1 đã quyết định sáng suốt và can đảm vượt lên sát với Tiểu đoàn 2/8, để yểm trợ cho tiểu đoàn nầy đang bị địch uy hiếp cánh sườn phải cũng như để bẻ gãy kế hoạch bao vây và chia cắt của địch.

LLXKQĐ3 đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc lui binh cuối cùng của CĐ8 ngày 31/5/71. Nhờ thế, CĐ 8 chỉ bị thiệt hại nhẹ trong ngày lui binh ngày 31/5/71. Ngoài ra, LLXKQĐ3 cũng đã phá vỡ kế hoạch địch tiếp tục bao vây và tiêu diệt CĐ8.

Tình Báo Chiến

Mặc dù tướng Hiếu đã xử dụng các hàng rào điện tử[12] để dò thám những hoạt động di chuyển của địch trong vùng hành quân trách nhiệm của Sư đoàn, tuy nhiên địch đã khôn khéo tránh xa những vị trí trên. Ngoài ra địch luôn luôn lẩn tránh các cuộc hành quân tìm địch của CĐ8 xung quanh khu vực Snoul từ đầu tháng năm của năm 1971.

Vào khoảng giữa tháng năm, địch đã bí mật di chuyển Sư đoàn 7VC về chung quanh khu vực Snoul, để phối hợp với Sư đoàn 5VC trong việc chuẩn bị bao vây, tổ chức trận địa pháo, và tiêu diệt toàn bộ Trung đoàn 8 và các đơn vị tăng phái cho TRĐ8. Kế hoạch của địch đã bảo mật thật tuyệt diệu đến nỗi tình báo của ta và đồng minh chẳng ai hay biết.[7] Tuy nhiên tướng Hiếu với giác quan thứ sáu, đã thông báo CĐ8 trong công điện mật ngày 4/5/71[12], phải tổ chức phòng thủ kiên cố, và tổ chức các cuộc hành quân tấn công hạn chế, bởi vì ông đã có linh cảm là địch sắp xuất đầu lộ diện. Làm tướng mà có được cái linh tính nầy phải là một tướng lãnh tài ba hiếm có!

Khoảng ngày 15/6/71, hai tuần lễ sau trận Snoul, địch đã xử dụng kế hoạch phản tình báo rất tuyệt diệu, bằng cách thả rất nhiều tù binh từ hướng Tây Ninh trở về, ngoại trừ các binh sĩ thuộc Tiểu đoàn 1/8. Sở dĩ địch không thả các binh sĩ thuộc Tiểu đoàn 1/8, bởi vì TĐ 1/8 đã lâm chiến hơn sáu ngày và năm đêm với địch, nên các binh sĩ nầy đã hiểu rõ lực lượng thật sự của địch đã tham chiến trong các ngày trên. Riêng các binh sĩ thuộc các đơn vị khác đa số chỉ lâm chiến hai ngày trong cuộc lui binh, nên địch đã thành công trong việc nhồi sọ và tuyên truyền với các binh sĩ nầy là địch chỉ có một Trung đoàn tấn công CĐ8 mà thôi. Kết quả là Quốc Hội VNCH, Tướng Tư Lệnh Quân đoàn 3, tình báo của ta và đồng minh đã ngây thơ tin tưởng ở tin tức sai lầm nầy, để địch có cơ hội để chuyển bại thành thắng.

Trong khi đó tình báo của ta và đồng minh cũng như BTLQĐ3 lại xem thường những tin tức xác thực từ chiến trường Snoul gởi về từ Đại tá Dzần, qua tướng Hiếu. Đại tá Dzần đã kiên nhẫn nghe và đếm những vị trí pháo binh và phòng không của địch, để ước tính chính xác rằng địch đã xử dụng hai Tiểu đoàn pháo binh và hai tiểu đoàn phòng không xung quanh khu vực Snoul. Theo bản cấp số của VC, mỗi Sư đoàn VC chỉ có một tiểu đoàn pháo binh và một tiểu đoàn phòng không mà thôi. Đó là lý do Đại tá Dzần đã báo cáo với tướng Hiếu là địch có ít nhất cũng phải một Sư đoàn 5, được tăng cường ít nhất một tiểu đoàn pháo binh và một tiểu đoàn phòng không. Sự thật, địch đã xử dụng hai Sư đoàn 5 và 7 để tấn công Chiến đoàn 8 qua tin tức của một Tiền sát viên VC bị bắt sống bởi Tiểu đoàn 1/8 ngày 26/5/71[7]. Tuy nhiên Đại tá Dzần rất cẩn thận chỉ báo những gì ông đã thấy và nghe, bởi vì TĐ1/8 đã bị địch bao vây và tấn công liên tục năm ngày và năm đêm tại vị trí của Tiểu đoàn, nên Tiểu đoàn 1/8 không thể chuyển tên tù binh nầy về Bộ chỉ huy chiến đoàn. Trong ngày 29/5/71, TĐ1/8 phải rút quân cấp bách, nên tên tù binh nầy đã lẩn trốn trong khi binh sĩ Tiểu đoàn đang lo chiến đấu với địch để sinh tồn.

Dĩ nhiên tướng Hiếu hoàn toàn tin tưởng ở các tin từ Đại tá Dzần, bởi chính ông là vị tướng lãnh duy nhất bay trên chiến trường Snoul hằng ngày từ ngày 24/5/71 cho đến ngày 31/5/71, bất chấp cả các hỏa lực phòng không hùng hậu của địch ở hướng Bắc và Tây Bắc của Snoul. Chính tướng Hiếu đã trình lên Trung tướng Minh hai lần về tin tức chính xác nầy từ Đại tá Dzần, tuy nhiên Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 đã chủ quan bác bỏ tin nầy, vì ông chỉ dùng tin tức của đồng minh lúc bấy giờ là địch chỉ xử dụng một Trung đoàn địch để tấn công Trung đoàn 8 mà thôi, và hai Trung đoàn còn lại của Sư đoàn 5 VC để phục kích và cầm chân lực lượng xung kích của Quân đoàn tại khoảng một cây số trên QL13 trong nội địa Cam Bốt từ biên giới Việt Nam.[2]

Tóm lại, địch đã có rất nhiều lợi thế trên phương diện tình báo và phản tình báo trong trận chiến tại Snoul, bởi vì Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 không tin tưởng các báo cáo chính xác về lực lượng địch tham chiến tai Snoul từ Đại tá Dzần qua tướng Hiếu, và Trung tướng Quân đoàn 3 và Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa cũng đã bị mắc mưu kế hoạch phản tình báo của địch qua các tin tức từ binh sĩ được thả về ngày 15/6/71.

Phản Ửng Của Tư Lệnh Quân Đoàn 3

Căn cứ vào tin tức của VC[7] cũng như tin tức từ báo chí [13,14], Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3, tư lệnh Quân đoàn 3, kiêm tư lệnh chiến trường Cam Bổt, đã chuyển từ thế công lúc cố Đại tướng Đỗ Cao Trí còn làm Tư lệnh QĐ3, sang thế phòng ngự từ tháng tư năm 1971 cho đến ngày 31/05/71. Trung tướng cũng đã có một quyết định đúng trong dự định rút quân của CĐ8 cuối tháng năm 1971, bằng cách tăng phái lực lượng xung kích của Quân đoàn 3 cho Sư đoàn 5 trong ngày 31/5/71, theo lời của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi, Chỉ huy trưởng Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn 3.[6,27] Tuy nhiên lực lượng xung kích nầy đã được tăng phái quá trễ vào ngày 31/5/71, thay vì phải được tăng phái cho Sư đoàn 5 kể từ ngày đầu tiên của chiến trường, 24/5/71, hay ít nhất trước ngày lui binh, 29/5/71.

Đặc biệt từ ngày 24/5/71 đến ngày 31/5/71, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 đã án binh bất động nỗ lực chính của các Chiến đoàn ở khu vực Chup, Kampong Cham, và hai Chiến đoàn đang ở gần hướng Nam của Snoul;[10] ngoài ra, ông cũng không chịu báo cáo về BTTM tình hình và ý định của địch để xin thêm không yểm và lực lượng trừ bị.[10]

Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 chỉ để lại một số sĩ quan tham mưu của Quân đoàn 3 tại Lộc Ninh, và không có sự hiện diện thường trực của ông tại Lộc Ninh.[10,29] Trung tướng Minh cũng không bao giờ bay trên lãnh thổ Cam Bốt để thám sát tình hình và chỉ huy điều động hai nỗ lực chính và phụ của ông.[10]

Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 cũng đã từ chối nhiều lần việc tướng Hiếu yêu cầu xử dụng nỗ lực chính từ hướng Nam của Snoul để thi hành kế hoạch “Điệu Hổ Ly Sơn”, như đã thảo luận bí mật giữa hai vị tư lệnh từ trước.[2] Sau cùng, ông đã ra lệnh cho tướng Hiếu rút quân đơn thương độc mã, trước áp lực tấn công của hai Sư đoàn VC vào ngày 28/5/71.[2]

Các Đường Lối Hành Động Của Quân Đoàn

Trong cương vị của một vị Tư lệnh hành quân ở Cam Bốt, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 phải chọn lựa một trong các hành động như sau:

(1) Xử Dụng Kế Hoạch Điệu Hổ Ly Sơn, bằng cách điều động nỗ lực chính ở hướng Tây-Nam Snoul để đánh bọc hậu địch, xin tăng cường không yểm, đồng thời xin lực lượng tăng viện của BTTM cho lực lượng xung kích của Quân đoàn để tiếp tục giao tiếp với CĐ8 và đánh bọc hậu từ hướng Đông của Snoul, kể từ ngày 25/5/71.

(2) Xử Dụng Kế Hoạch Trì Hoãn Chiến Cho TRĐ8, bằng cách điều động một phần nhỏ của nỗ lực chính để uy hiếp phần sau lưng của địch, xin tăng cường không yểm đồng thời xin lực lượng tăng viện của BTTM cho lực lượng xung kích của Quân đoàn để tiếp tục giao tiếp với TRĐ8 và đánh bọc hậu từ hướng Đông của Snoul, kể từ ngày 25/5/71.

(3) Xử Dụng Kế Hoạch Trì Hoãn Chiến Hạn Chế Cho TRĐ8, bằng cách án binh bất động nỗ lực chính, xin tăng cường không yểm đồng thời xin lực lượng tăng viện của BTTM cho lực lượng xung kích của Quân đoàn để tiếp tục giao tiếp với CĐ8 và đánh bọc hậu từ hướng Đông của Snoul, kể từ ngày 25/5/71.

(4) Xử Dụng Kế Hoạch Lui Binh Trước Áp Lực Tấn Công Của Địch, bằng cách án binh bất động nỗ lực chính, tăng phái cho Sư đoàn 5 LLXKQĐ3 trong giai đoạn cuối của cuộc lui binh vào ngày 31/5/71, không xin tăng cường không yểm đồng thời không xin lực lượng tăng viện của BTTM cho lực lượng xung kích của Quân đoàn để tiếp tục giao tiếp với CĐ8 và đánh bọc hậu từ hướng Đông của Snoul.

Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 đã quyết định chọn đường lối hành động 4, bởi vì một vài lý do thầm kín, chỉ có ông có thể giải thích được cho các chiến hữu trong lúc nầy mà thôi. Là một vị tướng tài ba khi ông còn là Tư lệnh Sư đoàn 21 BB, Trung tướng Minh thừa hiểu rõ rằng với giải pháp 4, tức là một giải pháp hạ cách, CĐ8 phải chịu rất nhiều thiệt hại hay có thể bị tiêu diệt hoàn toàn cả CĐ8 nếu quân số địch hơn một Sư đoàn.

Những Lỗi Lầm của Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3

Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 đã vi phạm những điều căn bản trong nguyên tắc chiến tranh[9], khi ông thay thế cố Đại tướng Đỗ Cao Trí để làm Tư lệnh hành quân tại Cam Bốt.

Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 đã xử dụng tối đa lực lượng của Sư đoàn 18 và Sư đoàn 25 làm nỗ lực chính ở hướng Tây Nam của Snoul, cũng như tối đa lực lượng của Sư đoàn 5 làm nỗ lực phụ câu địch tại Snoul trong kế hoạch Điệu Hổ Ly Sơn. Vì thế ông chỉ còn lại một Chiến đoàn xung kích làm lực lượng trừ bị. Trong ngày 31/5/71, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 đã xử dụng quá trễ lực lượng xung kích nầy để giao tiếp với CĐ8, trong kế hoạch lui binh trước mùa mưa. Dĩ nhiên đáng lẽ ra ông phải xin lực lượng trừ bị cấp thời từ Bộ Tổng Tham Mưu cũng như Không quân Việt Nam để tăng cường cho CĐ8 từ những ngày đầu tiên lâm chiến của CĐ8, tuy nhiên trên thực tế ông đã không bao giờ báo cáo tình hình khẩn trương cũng như xin tăng viện trong các ngày trên.

Từ ngày 23/5/71 đến ngày 31/5/71, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 không bao giờ thị sát chiến trường hay đích thân chỉ huy cuộc hành quân, mà chỉ để lại một số sĩ quan tham mưu của Quân đoàn 3 tại Lộc Ninh, và không có sự hiện diện thường trực của ông tại Lộc Ninh[10,29], ngoại trừ thỉnh thoảng bay thăm viếng Bộ chỉ huy nhẹ Sư Đoàn 5 tại Lộc Ninh mà thôi.[10] Hơn nữa ông lại đặt lực lượng xung kích dưới quyền chỉ huy của Sư đoàn 5 quá trễ vào ngày 31/5/71, thay vì phải vào ngày 25/5/71. Quyết định quá trễ của ông đã bó tay tướng Hiếu trong việc xử dụng Chiến đoàn xung kích nầy để tiếp cứu CĐ8 và tiêu diệt địch kể từ ngày đầu tiên lâm chiến, 24/5/71.

Theo lời Đại tá Dzần, kế hoạch lui quân đã được trình lên BCH/QĐ3 và đã được chấp thuận, tuy nhiên BTL/QĐ quyết định trì hoãn ngày D lại sau 2 ngày, để Q.Đ. còn tổ chức kỷ niệm ngày thành lập Q.Đ. Việc hoãn lại ngày D có nhiều điểm bất lợi trên phương diện chiến thuật và an ninh bảo mật, bởi vì địch có đủ thì giờ để bôn tập, và kế hoạch H.Q. có thể bị tiết lộ.[28]

Thiếu trách nhiệm trong vấn đề chỉ huy[10] dẫn đến sự lượng giá sai lầm về tình hình địch và bạn trên chiến trường trong các ngày giao chiến với địch, bởi vì Tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 chỉ căn cứ vào bản ước tính tình báo sai lầm của Quân đoàn để chủ quan tin rằng lực lượng địch tham chiến tại Snoul chỉ có một Trung đoàn mà thôi, mặc dầu Đại tá Dzần và tướng Hiếu đă nhiều lần báo cáo lực lượng địch đang lâm trận ít nhất cũng phải trên một Sư đoàn tại Snoul[2]. Hậu quả của việc lầm lẫn chủ quan nầy đã đưa đến sự lầm lẫn của Tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 trong việc nhận định Điểm và Diện của địch trên nhãn quan của một vị Tư lệnh chiến trường tại Cam Bốt.

Lầm lẫn giữa Điểm và Diện dẫn đến sự chọn lựa đường lối hành động sai lầm cho trận chiến tại Snoul, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 chỉ căn cứ vào báo cáo của nỗ lực chính đang bị cầm chân bởi chỉ một Sư đoàn 9 của địch còn lại tại khu vực nầy, để cho rằng đây là Điểm, trong khi thực tế cho thấy Điểm là tại Snoul, và Diện là tại nổ lực chính tại hướng Tây Nam của Snoul! Đó cũng là lý do Trung tướng Minh không xin tăng cường lực lượng trừ bị của BTTM và không xin tăng cường không yểm của Không quân VN, mà chỉ trông vào lực lượng yểm trợ cơ hữu và của lực lượng không kỵ của Hoa Kỳ mà thôi.

Mặc dù sự chỉ huy và kế hoạch rút quân sai lầm của Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3, CĐ8 cùng các lực lượng tăng phái gồm Thiết giáp, LLXKQĐ3 và Pháo binh, đã chiến thắng cuộc lui binh dưới sự chỉ huy của tướng Hiếu, Đại tá Dzần, và Đại tá Khôi. Ngoài ra các chiến hữu tham chiến đã phá vỡ kế hoạch chiến lược dùng trận Snoul như là một ưu sách cho Hòa đàm tại Ba Lê, bằng cách bắt sống hay tiêu diệt toàn bộ lực lượng ta tham chiến tại Snoul7. Oái oăm thay Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 lại bỏ quên các chiến công thật sự của các chiến hữu của ông, bằng cách cất chức tướng Hiếu và Đại tá Dzần, cũng như đánh giá các chiến hữu trở về như là những bại binh!

Phản Ứng Của Tư Lệnh SĐ5

Nỗi đau lòng của tướng Hiếu là không còn một lực lượng trừ bị nào cả cho ông, bởi vì ông phải trách nhiệm bảo vệ cả một lãnh thổ nội địa quá lớn[15], lại phải phải xử dụng toàn thể Trung đoàn 8 để làm nhiệm vụ phòng thủ câu địch trong kế hoạch Điệu Hổ Ly Sơn của Quân đoàn, lại còn phải trách nhiệm lo giữ an ninh Quốc lộ 13 từ biên giới đến Snoul. Làm tướng thì ai cũng muốn ở thế công, nay tướng Hiếu phải chịu đặt mình trong thế thủ, lại không có lực lượng trừ bị ít nhất cũng phải một Trung đoàn để phản công tiêu diệt địch, thì làm sao mà lại không thấy đau lòng.

Tuy nhiên tướng Hiếu đâu có chịu ngồi yên. Tướng Hiếu đã ra lệnh cho Chiến đoàn 8 tiếp tục chủ động chiến trường bằng cách thường xuyên mở các cuộc hành quân hạn chế tìm địch và các hành quân viễn thám hằng ngày để thu thập tin tức về địch, ngoài việc thiết lập một số hàng rào điện tử để dò thám các cuộc di chuyển của địch chung quanh khu vực Snoul.[12] Ngoài ra tướng Hiếu cũng thường thăm viếng các đơn vị tại Snoul để đôn đốc việc hành quân cũng như tổ chức các công sự phòng thủ.[2,10,11] Nhờ thế tinh thần binh sĩ Trung đoàn 8 và các lực lượng tăng phái không hề bị sút giảm trong thời gian hành quân hơn hai tháng tại Snoul.

Đầu tháng 4/71, tướng Hiếu đã ở thường trực tại Bộ chỉ huy nhẹ của SĐ5 tại Lộc Ninh, để theo sát tình hình chiến trường tại Cam Bốt, đồng thời dễ dàng cho việc xử dụng phi cơ chỉ huy để thăm viếng các đơn vị hằng ngày. Ngày 21/4/71, Tướng Hiếu viết thư cho vợ: “Anh ở trên Lộc Ninh ngày thứ hai và mới về Lai Khê chiều thứ ba và tùy tình hình sẽ ở luôn đến thứ hai tuần tới,” chứng tỏ rằng tướng Hiếu thường có mặt tại Lộc Ninh để thi hành kế hoạch Điệu Hổ Ly Sơn của Quân đoàn.[2,12]

Trái hẳn với Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3,[10,13,14] tướng Hiếu đã có mặt thường xuyên trên đầu các đơn vị Chiến đoàn 8 đang lâm chiến với địch từ ngày 24/5/71 đến ngày 31/5/71. Đặc biệt từ ngày 24/5/71 đến ngày 30/5/71, ông đã thấy rõ hỏa lực phòng không và pháo binh của địch, đến nỗi các phi cơ tiếp tế hay tải thương không thể hạ cánh được, tuy nhiên tướng Hiếu đã bất chấp nguy hiểm để tiếp tục bay trên đầu các đơn vị đang lâm chiến với địch ở dưới đất, để chỉ huy và trấn an các binh sĩ. Nhờ thế, tướng Hiếu đã thấy rõ tình hình thật sự tại chiến trường để tin tưởng những báo cáo của Đại tá Dzần ở dưới đất.

Tướng Hiếu đã đề nghị lên Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 hai lần để xử dụng ít nhất hai Chiến đoàn từ hướng Tây Nam của Snoul để thi hành kế hoạch Điệu Hổ Ly Sơn của Quân đoàn, đồng thời xin thêm lực lượng trừ bị của Bộ Tổng Tham Mưu, để tăng cường cho lực lượng xung kích của Quân đoàn đang bị địch cầm chân tại biên giới, bởi vì địch đang xử dụng ít nhất Sư đoàn 5 VC tăng cường với ít nhất hai Tiểu đoàn pháo binh và phòng không của Sư đoàn 7VC. Oái ăm thay, ngày 28/5/71, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 ra khẩu lệnh cho tướng Hiếu là các lực lượng đang tham chiến tại Snoul phải lui quân đơn thương độc mã, bởi vì Trung tướng Minh vẫn chủ quan tin rằng Sư đoàn 5 VC chỉ xử dụng một Trung đoàn để tấn công CĐ8. Như vậy tướng Hiếu hoàn toàn bị bó tay trong việc xử dụng quân trừ bị để yểm trợ cho CĐ8 trong cuộc lui binh tự sát nầy.[2]

Tuy nhiên, tướng Hiếu đã không chịu bó tay hoàn toàn trong cương vị của một vị Tư lệnh chiến trường. Ông đã vùng vẫy cố gắng tìm kiếm tất cả những gì ông còn có thế có để cứu sống các chiến hữu của ông trong cuộc lui binh tự sát nầy. Ông đã yêu cầu Đại tá Raymond Kampe, Cố vấn trưởng Sư đoàn 5, xin Lực Lượng Không Kỵ của Hoa Kỳ tăng cường thêm khả năng yểm trợ cho CĐ8, ngoài một Đại đội Không Ky đã thường xuyên yểm trợ cho CĐ 8. Ông cũng yêu cầu Đại tá Raymond Kampe và Đại tá Tham mưu trưởng Quân đoàn 3 cùng bay với ông để dễ dàng phối hợp với lực lượng xung kích của Quân đoàn và hỏa lực yểm trợ từ Lực Lượng Không Kỵ của Hoa Kỳ.[10,11]

Đặc biệt từ ngày 29/5/71 đến ngày 31/5/71, tướng Hiếu đã biểu dương tinh thần trách nhiệm và chức vụ lương tâm của một vị tư lệnh chiến trường tại Cam Bốt, bằng cách bất chấp hỏa lực phòng không hùng hậu của địch, đã bay sát các toán rút quân ở dưới đất để điều động và trấn an tinh thần binh sĩ, bất chấp lời khuyên ngăn của Đại tá Dzần không nên cho trực thăng đáp xuống, vẫn cho phi cơ lao xuống để chứng kiến đại đội Thám báo8 lấy khẩu súng phòng-không của địch đặt gần sát chu vi ngoài căn cứ. Ngoài ra, ông lại đảm nhiệm luôn vai trò của một Sĩ quan Điều không, để yêu cầu Lực Lượng Không Kỵ của Hoa Kỳ bắn phá các mục tiêu, qua Đại tá Kampe. Nhờ thế địch đã bị trì hoãn trong việc chuyển binh để bao vây và tiêu diệt các chiến hữu ở dưới đất. Đặc biệt Lực Lượng Không Kỵ của Hoa Kỳ không bao giờ bắn lầm lên các quân ta ở dưới đất trong các ngày trên. Như vậy tướng Hiếu cũng làm tròn bổn phận của một Sĩ quan Điều không ngoại hạng nữa!

Đặc biệt đêm 30/5/71, tướng Hiếu đã xử dụng một kế nghi binh tuyệt diệu. Ông đã ra lệnh Không quân Việt Nam cũng như pháo binh của CĐ 8 bắn phá liên tục suốt đêm về hướng Bắc và Tây Bắc Snoul, đồng thời ông đã ra lệnh Đại tá Dzần xử dụng Tiểu đoàn 1/8 bố quân về hướng Tây Bắc Snoul, để địch lầm tưởng là Chiến đoàn 8 sẽ tổ chức tấn công vào các vị trí địch ở hai hướng nầy vào ngày mai, 30/5/71. Hiệu quả của kế nghi binh nầy đã được chứng minh khi Thiếu tá Hùng, Trưởng ban 3 Trung đoàn 8, nghe lóm trong máy truyền tin địch, “Tụi nó không có tấn công chúng ta đâu, chúng nó đang rút quân về hướng Đông. Các đơn vị ra khỏi vị trí phòng thủ để bao vây và tiêu diệt chúng gấp.”

Tóm lại, tướng Hiếu đã làm những gì ông có thể làm để cứu sống các chiến hữu của ông trong môt cuộc lui binh dưới áp lực tấn công của hai Sư đoàn 5 và 7 VC. Ngoài ra, tướng Hiếu cũng đã biểu dương ba đức tính của một tướng lãnh tài ba. Đó là Can Đảm, Mưu Lược và Linh Tính của một võ sĩ nhà nghề

Phản Ứng Của Chiến Đoàn Trưởng CĐ8

Đại tá Dzần đã tổ chức thường xuyên hành quân theo lệnh của tướng Hiếu, cũng như sáng kiến của ông. Ngoài ra, các toán viễn thám của các Tiểu đoàn luôn luôn hoạt động cả đêm lẫn ngày, kể từ ngày Chiến đoàn 8 trách nhiệm khu vực Snoul. Ông cũng đã xử dụng Pháo binh và Không quân đánh phá ngày đêm các lộ trình khả nghi về sự di chuyển của địch trong khu vực trách nhiệm của chiến đoàn. Hậu quả là địch đã đánh giá Snoul phải là một vị trí chiến lược cho chúng. Do đó, địch đã quyết định xử dụng hai Sư đoàn 5 và 7 VC để tấn công và tiêu diệt Chiến đòan 8 cho bằng được. Như vậy Đại tá Dzần đã thi hành đúng nhiệm vụ câu địch theo kế hoạch Điệu Hổ Ly Sơn của Quân đoàn.

Đặc biệt đêm 24/5/71, ông đã cho lệnh Pháo binh yểm trợ rất chính xác cho TĐ 1/8 trong khi đơn vị nầy đang bị địch tấn công tại vị trí tiền đồn của Chiến đoàn 8, khoảng hơn ba cây số về hướng Bắc của BCH/CĐ8. Từ ngày 25/5/71 đến ngày 31/5/71, ông đã cho lệnh Sĩ quan Truyền tin dò tần số của địch để nghe lóm địch đàm thoại trong máy truyền tin. Ông cũng đã kiên nhẫn nghe và đếm những quả đạn pháo binh địch cũng như hỏa lực phòng không của địch, để ước tính khả năng tham chiến địch tại khu vực Snoul. Ông đã ước tính gần đúng là địch đang xử dụng Sư đoàn 5, tăng cường ít nhất một Tiểu đoàn Pháo binh và một Tiểu đoàn Phòng không để tấn công CĐ8 và các đơn vị biệt phái. Vì thế chính ông đã báo cáo về BTL/SĐ5 trong ngày 25/5/71 về tình hình địch đang lâm chiến để xin tăng viện cho CĐ 8.

Đêm 28/5/71, ông cũng thông minh hiểu ngay kế nghi binh của TĐT/ TĐ1/8 dùng để rút quân TĐ1/8 về BCH/CĐ8 trong ngày 29/5/71 bằng cách nói bạch văn trong máy truyền tin với TĐT/TĐ1/8 rằng sẽ cho phi cơ B52 thả bom bình địa khu vực từ TĐ1/8 đến chợ Snoul vào ngày mai, 29/5/71. Ngoài ra, ông cũng đã xử dụng TĐ 2/7 để yểm trợ cho TĐ1/8, bằng cách cho lệnh TĐ2/7 tái chiếm chợ Snoul trong ngày 29/5/71, trước khi TĐ1/8 rút quân về chợ Snoul.

Đặc biệt ông đã lựa chọn đúng kế hoạch rút quân cho CĐ8 trong hai ngày 30 và 31/5/71, sau khi loại bỏ kế hoạch đánh ngược lên Kratié, bởi vì Trung tá Ninh, trưởng phòng 2 của Sư đoàn 5 thông báo rằng, Sư đoàn 5 không có lực lượng tăng viện trong ngày rút quân 29/5/71. Ông đã chọn yếu tố Nghi Binh, Bất ngờ, Thần Tốc và Hỏa Lực cùng Điều Binh,[9] để tránh được kế hoạch địch xử dụng hai Sư đoàn để bao vây và tiêu diệt toàn bộ TRĐ8 và các đơn vị biệt phái, bởi vì ông đã thấy đúng rằng thời gian sẽ là yếu tố chủ yếu trong việc sinh tồn của một cuộc lui binh đơn thương độc mã nầy của TRĐ8 và các đơn vị tăng phái, dưới áp lực tấn công của hai Sư đoàn địch.

Lượng Giá Chiến Trường

Lượng giá chiến trường được căn cứ trên ba yếu tố chủ yếu: sự tương quan lực lượng của hai bên, tình hình khả hữu lúc bấy giờ, và sự tổn thất của hai bên.

Chiến đoàn 8 đã phải tử thủ tại Snoul từ ngày 24/5/71 đến ngày 29/5/71, và phải rút quân theo lệnh với một quân số quá sức chênh lệch giữa ta và địch, 2000 quân của chiến đoàn để đối đầu với hơn hai sư đoàn địch vào khoảng hơn 20,000 quân. Như vậy, một binh sĩ của Chiến đoàn 8 phải đương đầu với 10 binh sĩ địch.

Trong một tuần lễ chiến đấu với hai sư đoàn địch, Chiến đoàn 8 không hề có các lực lượng bộ binh tăng viện từ hướng Tây-Nam của Snoul, như kế hoạch điệu hổ ly sơn đă dự trù. Như vậy ngoài giải pháp lui quân thần tốc và bất ngờ, Chiến đoàn 8 chỉ còn lại hai giải pháp khả hữu, rút lui theo kế hoạch trì hoãn chiến hay phải đầu hàng nhục nhã. Kế hoạch trì hoãn chiến chỉ đem lại sự tiêu diệt toàn bộ cho Chiến đoàn 8 như Đại tá Dzần đã thấy rõ trong phần nhận định của ông, và kế hoạch đầu hàng cả chiến đoàn không thể chấp nhận được cho danh dự của QLVNCH, nói chung, và của toàn thể chiến hữu Chiến đoàn 8, nói riêng. Ngoài ra, Chiến đoàn 8 sẽ mất tất cả quân trang, quân dụng, thiết giáp và pháo binh cho hai giải pháp không thể chấp nhận nêu trên. Hơn nữa với giải pháp lui binh thần tốc và bất ngờ, Chiến đoàn 8 vẫn còn có cơ hội để bảo toàn đa số chiến hữu, một số quân trang quân dụng, lại còn có dip để gây tổn thất nặng nề cho hai sư đoàn địch, nếu kế hoạch nầy được thành công. Sự thật cho thấy rằng hơn 85% quân số của chiến đoàn đã trở về Việt Nam an toàn.

Ngày 3/6/71, Tướng Hiếu xác nhận sự thiệt hại chính xác của ta và địch, trong năm ngày giao tranh và tử thủ tại Snoul, quân ta đã giết 1043 địch, trong khi bên ta có 37 tử thương, 167 bị thương, và 74 mất tích. [16] Ngoài ra, Đại tá Dzần cũng đã báo cáo chi tiết về sự tổn thất quân trang, quân dụng: 10 chiến xa và 14 thiết quân vận bị bắn cháy, 12 súng pháo binh bị phá hủy trước khi lui quân, 22 súng cối bị thất lạc, và một số quân xa. Con số hơn 200 súng cá nhân và phòng không của địch do TĐ1/8 và các đơn vị khác của CĐ8 lấy được không được tính vào sự lượng giá, bởi vì số vũ khí nầy đã bị CĐ8 bỏ lại cho địch, trong cuộc lui binh quá cấp bách nầy. Như vậy con số thiệt hại về nhân sự của Chiến đoàn 8 là 278, gồm bị chết, bị thương và mất tích; tức là 14% quân số của chiến đoàn, trong khi quân ta gồm thêm LLKK Hoa Kỳ[17] đã tiêu diệt 1043 địch. Kinh nghiệm cho thấy cứ một binh sĩ địch bị giết thì it nhất cũng phải có một binh sĩ địch bị thương. Do đó quân số tổn thất của địch vào khoảng 2086, có nghĩa rằng 10 binh sĩ thiệt hại của ta được đổi lại 75 binh sĩ thiệt hại của địch, trong năm ngày giao tranh tại khu vực Snoul, và hai ngày lui binh của Chiến đoàn 8 trước áp lực tấn công của hai sư đoàn địch. Con số 167 bị thương của quân ta được mang theo về Việt Nam trong cuộc lui binh, cũng đủ nói lên cuộc lui binh của Chiến đoàn 8 được diễn ra trong vùng trật tự và có kế hoạch. Trong số 74 bị mất tích của Chiến đoàn 8, chỉ có 26 binh sĩ tù binh được địch thả về từ hướng biên giới Tây Ninh khoảng hai tuần lễ sau ngày 31/5/71, ngoại trừ 6 binh sĩ tù binh của Tiểu đoàn 1/8 vẫn bị địch bắt giữ; 42 binh sĩ mất tích còn lại là đa số chiến hữu của Tiểu đoàn 1/8 và chi đoàn thiết quân vận đã tử trận trong khi xung phong để mở đường máu trong ngày lui binh, 30/5/71.

Tóm lại, Tướng Hiếu và Đại tá Dzần là hai vị chỉ huy tài ba của chiến trường, đã đánh bại cả hai sư đoàn địch, để cứu sống hơn 85% quân số, và để bảo tồn các vũ khí trang bị nhẹ của chiến đoàn. Trái lại, hai tướng tư lệnh của sư đoàn địch là những bại tướng, trong kế hoạch bao vây và tiêu diệt toàn bộ Chiến đoàn 8.[7,9] Tư lệnh Quân đoàn 3 phải tự hãnh diện cho sự chiến thắng anh dũng của quân ta trong cuộc lui binh nầy. Do đó, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 cũng phải chưa muộn để vinh danh các chiến hữu Chiến đoàn 8, tướng Hiếu và Đại tá Dzần và LLXKQĐ3, đã hoàn tất nhiệm vụ khó khăn và chiến đấu anh dũng với hai sư đoàn địch tại ngoại biên từ ngày 23/5/71 đến ngày 31/5/71.

Lượng Giá Chiến Trường Snoul Trên Phương Diện Chiến Lược Quốc Gia

Hiện tượng sụp đổ của chính thể VNCH vào ngày 30/4/75 là hậu quả của những biến cố liên hệ dây chuyền của Quân sự, Chính trị và Ngoại giao của các lực lượng tham chiến tại Việt Nam, kể từ tháng 8/69. Đặc biệt sự sai lầm của Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn là khởi điểm cho những biến cố về sau của lịch sử Việt Nam.

Chiến dịch bí mật đàm thoại hòa bình của chiến tranh Việt Nam đã đi vào một khúc quanh quan trọng của lịch sử, khi Kissinger đã bí mật họp mật mười hai lần tại Ba Lê với phái đoàn Bắc Việt từ tháng 8/69, như Nixon đã tiết lộ[18]. Hai cuộc hành quân vượt biên cấp quân đoàn của QLVNCH đồng loạt kể từ ngày 8/2/71, là hậu quả của chiến dịch hòa đàm nầy để mặc cả trên bàn hội nghị, Hành quân Lam Sơn 719 và Hành quân Toàn Thắng 1. Hành quân Lam Sơn 719, theo Nguyễn Tiến Hưng kể lại, được soạn thảo bởi Hoa Kỳ và đưa cho Đại tướng Cao Văn Viên ký[18,21]. Đây là một cuộc đem con bỏ chợ tại Hạ Lào, bởi vì bên ta chỉ có 25,000 quân để đương đầu với 36,000 địch quân, tăng cường thêm hai Sư đoàn thiết giáp tối tân của Nga Sô cùng với nhiều trung đoàn pháo binh và phòng không. Kết quả là quân ta bị thua to và mất đi rất nhiều chiến sĩ ưu tú, trong khi tướng Wesmoreland án binh bất động vì không dám đem bốn sư đoàn của Mỹ vượt biên để cùng tham chiến với QLVNCH[18]. Như vậy tướng Wesmoreland hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc Hành quân Lam Sơn 719 nầy. Tuy nhiên trong thực tế, QLVNCH đã chịu những búa rìu của báo chí cũng như phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ, để dẫn đến một sự chiến bại chiến lược trên phương diện quốc gia sau nầy. Ngoài ra đây là một cơ hội cho địch lượng giá khả năng chỉ huy điều binh trận địa chiến cấp quân đoàn của tướng lãnh ta và Hoa Kỳ, để chúng có yếu tố soạn thảo một chiến lược đấu tranh bằng trận địa chiến toàn diện về sau. May mắn thay, Đại tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh Quân đoàn 3, đã đích thân soạn thảo kế hoạch và chỉ huy trực tiếp Hành quân Toàn Thắng 1, để đem lại chiến thắng vẻ vang cho QLVNCH trong một cuộc hành quân cấp quân đoàn tại Cam Bốt. Do đó địch phải hoang mang trong việc lượng giá khả năng chỉ huy và điều binh trận địa chiến của tướng lãnh ta trên cương vị cấp quân đoàn sau hai cuộc hành quân viễn chinh của QLVNCH.

Nghị quyết tháng 5/71 do Bộ Chính Trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN là bước đầu để thăm dò lại khả năng chỉ huy và điều binh trận địa chiến của tướng lãnh ta trên cương vị cấp quân đoàn. Trận Snoul là khởi đầu cho Nghị quyết nầy. Địch đã xử dụng toàn bộ ba Sư đoàn 5, 7 và 9 để tấn công và bao vây Chiến đoàn 8 tại Snoul, đồng thời cầm chân nỗ lực chính của Quân đoàn 3 tại Tây-Nam Snoul, lực lượng tăng viện của LLXKQĐ3 tại Đông-Nam Snoul.

Chính những sự sai lầm của Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 trong lãnh vực chỉ huy cũng như lượng giá chiến trường trong trận đánh Snoul, đã thúc đẩy địch quyết định mở rộng thêm chiến lược trận địa chiến trên toàn lãnh thổ miền Nam trong năm 1972 về sau.

Vào ngày 30/3/72, địch đồng loạt mở rộng chiến trường bằng ba chiến dịch, chiến dịch Nguyễn Huệ phía Đông Nam Bộ là nỗ lực chính, chiến dịch Trị-Thiên cũng là nỗ lực chính, và chiến dịch Tây-Nguyên là nỗ lực phụ. Trong Chiến dịch Nguyễn Huệ, địch đã xử dụng toàn bộ ba Sư đoàn 5,7 và 9 để chiếm lãnh Lộc Ninh và các vùng lân cận, trước khi bao vây và tấn công An Lộc trong khoảng hai tháng. QLVNCH đã phải xử dụng Sư đoàn 5, hai Lữ đoàn Dù, một Liên đoàn 81 BCD, hai trung đoàn của Sư đoàn 21, cùng nhiều Liên đoàn Biệt động quân để giữ An Lộc, dưới sự yểm trợ hùng hậu của Không quân Hoa Kỳ, gồm cả các pháo đài bay B52. An Lộc đã được quân ta anh dũng giữ vững, tuy nhiên Quảng Trị đã bị mất trong tay địch, bởi vì các lực lượng trừ bị thiện chiến của ta đã bị cầm chân ở hai chiến trường Tây-Nguyên và An Lộc[25]. Đặc biệt trong Chiến dịch Nguyễn Huệ, địch đã học lóm mưu lược xử dụng truyền tin của quân ta trong trận Snoul, nên chúng đã xử dụng im lặng vô tuyến trước khi tấn công để đạt được yếu tố bất ngờ trong ngày đầu tiên của chiến dịch[7].

Chiến dịch Trị-Thiên và Nguyễn Huệ là hậu quả của sự ép buộc chính thể VNCH phải ký Hiệp định Ba Lê ngày 27/1/1973, sau khi Nixon đã gởi bức thư dọa dẫm Tổng thống Thiệu[18,19,24]. Tiếp theo là việc rút quân cấp bách của Mỹ và Đồng Minh trong vòng 60 ngày, căn cứ vào điều khoản 5 và 6 của hiệp định. Hơn nữa, căn cứ vào điều khoản 12(a), địch lại ở thế ngang hàng với chính thể VNCH, cũng như không phải rút quân khỏi miền Nam. Như vậy, chúng ta hầu như đã mất nước sau ngày ký Hiệp định Ba Lê gần như đầu hàng nầy[20,22,23].

Tiếp theo Hiệp định Ba Lê là việc Quốc Hội Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ quân sự cho VNCH, trong khi Nga Sô lại thừa thắng xông lên, tăng cường thêm viện trợ các vũ khí tối tân hơn cho Bắc Việt. Lại còn Đạo luật Quyền Hạn Chiến Tranh cho Tổng thống Hoa kỳ cũng được QHHK phê chuẩn vào hồi tháng 6/73[18] tăng cường thêm cho sự sụp đổ của miền Nam năm 75.[26].

Thử hỏi nếu kế hoạch “Điệu Hổ Ly Sơn” được Trung tướng Minh thi hành trong trận Snoul vào cuối tháng 5/71, liệu địch có đủ sức và tự tin để mở Chiến dịch Nguyễn Huệ mười tháng sau trận Snoul. Nếu không có Chiến dịch Nguyễn Huệ thì đâu có trận An Lộc, để khoảng một sư đoàn trừ bị thiện chiến của QLVNCH phải bị cầm chân tại An Lộc gần hai tháng. Nếu QLVNCH không bị cầm chân ở An Lộc thì chúng ta sẽ không mất Quảng Trị, bởi vì QLVNCH đã rảnh tay để có thể tăng cường ít nhất một sư đoàn trừ bị thiện chiến cho chiến trường tại Quảng Trị. Dĩ nhiên nếu chúng ta không mất Quảng Trị, thì đâu có sự ép buộc VNCH phải ký Hiệp định Ba Lê, bởi vì địch đã bị thất bại mặc cả trên bàn hội nghị, khi chiến dịch Trị-Thiên của địch bị đánh bại bởi quân ta. Do đó đâu có việc Quốc Hội Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ quân sự cho VNCH, cũng như việc duyệt ký Đạo luật Quyền Hạn Chiến Tranh cho Tổng thống Hoa kỳ vào hồi tháng 6/73[18]. Vì thế, lịch sử VNCH đã thay đổi hoàn toàn sau năm 1975, cũng như không có hiện tượng sụp đổ của miền Nam trong năm 1975, để hơn hai triệu người Việt Nam phải sống kiếp lưu vong ở Hải ngoại, cũng như hàng vạn thuyền nhân bỏ mạng trên biển cả để tìm tự do, cũng như những năm tháng tù tội tàn nhẫn của địch dành cho Quân dân miền Nam.

Đôi Lời Tâm Tư và Khẳng Định Của Tác Giả

Tác giả đã viết đầy đủ chi tiết phần năm ngà;y năm đêm tử thủ của TĐ1/8 đễ tường trình các thẩm quyền, tuy nhiên các chi tiết đã bị loại bỏ trong bài này, bởi vì hai lý do. Lý do thứ nhất là để tránh sự ngộ nhận là tác tiả đã cố đánh bóng cho tác giả, TĐ1/8 và chi đoàn thiết giáp. Lý do thứ hai chủ đích của bài này là để vinh danh cho toàn thể các chiến hữu đãm tham dự cuộc hành quân này, gồn bộ binh, thiết giáp và pháo binh. Phần còn lại về TĐ1/8 phải được viết vì có liên hệ đến tất cả Chiến đoàn 8, và tướng Hiếu.

Tác giả khẳng định rằng, Tướng Hiếu, Đại tá Dzần, Tướng Khôi cùng tất cả chiến hữu CĐ 8 và LLXKQĐ3 đã anh dũng chiến thắng hai sư đoàn VC trong trận thư hùng tại chiến trường ngoại biên từ ngày 24/5/71 đến ngày 31/5/71.

Các phần nhận định và phê bình về Quân đoàn và Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3, sự lượng giá chiến trường trên phương diện chiến lược quốc gia là do sự suy luận của tác giả, chỉ là một tiểu đoàn trưởng trực tiếp tham dự trận nầy, căn cứ vào các dữ kiện hiện có trong tay, nên có thể thiếu khách quan và trung thực. Vì thế, tác giả đã tìm cách liên lạc với Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 từ tháng 01/2004 cho đến ngày Trung Tướng về cõi vĩnh cửu để trình Trung tướng đọc lại, để sửa sai, đính chính theo sự hiểu biết của Trung tướng cũng như vinh danh cho các chiến hữu tham dự cuộc hành quân nầy. Tác giả cũng đã đề nghị với Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3, thay thế phần nói về Quân đoàn 3, phê bình về Trung tướng, và sự lượng giá chiến trường trên phương diện chiến lược quốc gia, bằng phần những minh xác của Trung tướng do chính Trung tướng viết trong bài nầy, để Quân sử VNCH được soi sáng và công minh. Nhờ thế các chiến hữu và Cộng đồng hải ngoại sẽ hiểu rõ những nỗi khó khăn và đau lòng của Trung tướng, để thông hiểu và vinh danh Trung tướng, một vị tướng lãnh tài ba đã cầm quân giữ nước.

Đau đớn thay tác giả không có sự hồi âm từ Trung tướng cho đến ngày Trung tướng về cõi vĩnh cửu, và đó cũng là lý do bài nầy đã phải cho lên mạng lưới internet, để độc giả cùng tham gia với tác giả trong nỗ lực tìm hiểu một sự kiện thật của Quân sử VNCH trong cuộc hành quân tại Snoul.

Tác giả ao ước đã từ lâu rằng phần viết về Quân đoàn 3 và Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 của tác giả là sai lầm, nếu có sự lên tiếng chính thức sửa sai của Trung tướng, để tác giả được có cơ hội xin lỗi Trung tướng cho tội phạm thượng của một thuộc cấp, cũng như chia xẻ những khó khăn và đau lòng của Trung tướng trong trận Snoul nầy. Hơn nữa tác giả cũng như người Việt có dịp để hiểu rõ sự thật của lịch sử, để có dịp vinh danh Trung tướng, cũng như đoàn kết lại thành một khối duy nhất, không còn việc đánh phá lẫn nhau nữa. Đây cũng là viên đạn cuối cùng của người lính già để trả nợ núi sông, để yên lòng an dưỡng tuổi già. Hôm nay, 28/04/2004, tôi biết rằng Trung tướng im lặng vì nhiều lý do riêng tư. Dù lý do riêng tư nào, tôi vẫn kính trọng Trung tướng.

Hình ảnh những khuôn mặt đau khổ của các chiến hữu phải bị bỏ lại trong cuộc lui binh thần tốc, những giòng nước mắt của các quả phụ, thân phụ và thân mẫu của các tử sĩ tại hậu cứ của TĐ1/8 tại Lai Khê sau khi TĐ trở về, cũng như hình ảnh của một lão tướng ngoài 74 tuổi, Chuẩn tướng Trần Quang Khôi[29], vẫn còn uất ức về trận Snoul và trận Dambe[30] liên hệ đến việc chỉ huy của Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3, sau bao năm trong ngục tù Cộng sản, rồi nay lại phải đi “cày” với cái tuổi ngoài 78 để mưu sinh, là những động lực chính cho việc tác giả viết bài nầy vào ngày 02/02/2004.

Bốn năm sau, VN sắp bị nguy cơ mất nước vào tay Trung Cộng đến nơi, bởi chính sách độc tài, tham nhũng, hận thù của CSVN, cũng như CĐHN vẫn còn chia rẽ phân hóa và chưa chịu thống nhất lại thành một khối. Đó là động lực của bài cập nhật hóa này để thức tỉnh hai phe cho việc cứu nguy Tổ quốc yêu quí VN. Độc giả đang đi ngược giòng lịch sửm chứng kiến trận đánh Snoul năm 1971 để thức tỉnh một trách nhiệm lương tâm cho đến khi về cõi vĩnh cửu. Những hành động của các nhân vật trong trận đánh chỉ là những hành động thông thường của người lính VNCH trong các trận đánh vô danh hay hữu danh trong quá khứ. Tuy nhiên máu và nước mắt của các chiến hữu và thân nhân của họ đã đóng góp vào một biển hồ bằng máu và nước mắt của quân cán miền Nam. Chính cái biển hồ khô cạn này đã trải đường cho CĐVNHN có cuộc sống no ấm hay thành đạt của thế hệ thứ hai. Vì thế CĐHNVN không nỡ nào quên đi cái trách nhiệm lương tâm, để tiếp tục sứ mạng đang dang dở của những kẻ đã trải đường cho CĐ.

Sự Thật và Hậu Quả

Chủ đích của bài nầy là nói lên một sự thật của quân sử QLVNCH, bởi vì sự thật phải được trả lại cho lịch sử.

Tướng Hiếu và Đại tá Dzần cùng các chiến hữu của hai ông đã chiến thắng anh dũng trong cuộc rút quân đơn thương độc mã dưới áp lực của hai Sư đoàn địch, dưới nhãn quan của một Tư lệnh Sư đoàn và Trung đoàn trưởng. Đại tá Khôi, Tư lệnh LLXKQĐ3, cùng LLXKQĐ3 cũng đã chiến thắng địch và bẻ gãy kế hoạch bao vây để tiêu diệt toàn bộ CĐ8 trong ngày 31/5/71. Tuy nhiên Trung tướng Minh đã thất bại dưới nhãn quan của một Tư lệnh Quân đoàn, bởi vì ông đã chọn lựa một kế hoạch rút quân sai lầm cho Chiến đoàn 8, cũng như tăng viện LLXKQĐ3 cho Sư đoàn 5 đã quá trễ, đồng thời ông cũng đã để mất một dịp để tiêu diệt toàn bộ hai Sư đoàn địch trong kế hoạch Điệu Hổ Ly Sơn, như đã dự trù bí mật giữa hai vị Tư lệnh tướng lãnh nầy[2]. Hậu quả là hai Sư đoàn nầy được nuôi sống để chúng có dịp mở cuộc tấn công vào Lộc Ninh và An Lộc khoảng mười tháng sau.

Sự yếu kém tình báo của ta và đồng minh, thiếu trách nhiệm chỉ huy, chủ quan tin tưởng quá nhiều vào tình báo của ta, đồng thời không chịu nghe những báo cáo chính xác về khả năng của địch đang lâm chiến tại Snoul của tướng Hiếu và Đại tá Dzần, đã làm Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 lầm lẫn trong cương vị của một vị Tư lệnh Quân đoàn. Vì thế tướng Minh và Quốc Hội VNCH đã vô tình làm thay đổi bộ mặt thật của chiến trường, từ một kẻ chiến thắng để trở thành một kẻ chiến bại trên phương diện chiến thuật cũng như chiến lược. Hậu quả là có trên ba mươi phần trăm chiến hữu đào ngũ sau khi đã trở về VN, bởi vì họ cảm thấy bị bỏ quên, và sự nhân nhượng hình như đầu hàng của những điều khoản trong Hiệp ước Ba Lê năm 1973.

Vì thế lịch sử VNCH có thể thay đổi nếu không có những sự sai lầm như trên.

Kết Luận

Bây giờ chúng tôi đã mất hết chỉ còn nhau, chúng tôi chỉ cầu mong cho Trung tướng Tự lệnh Quân đoàn 3 an nghỉ nơi chốn vĩnh cửu cũng như Quốc Hội VNCH xem lại một sự thật của lịch sử, để họ xích lại gần chũng tôi hơn. Dù sao thì tình huynh đệ chi binh vẫn còn trường tồn bất diệt, để giúp ích cho sự đoàn kết quân dân trong công cuộc đấu tranh chống Cộng hiện nay.

Tham Khảo

[1] Nguyễn Văn Tín, Trang Nhà Tướng Hiếuhttp://www.generalhieu.com/

[2] Mạn Đàm giữa tướng Hiếu và tác giả ngày 17/12/71 tại Đà Lạt

[3] Các E-mail ngày 04/11/03, 18/11/03, 21/11/03 giữa ba sĩ quan tham mưu của Sư đoàn 5 Sư đoàn 7VC và tác giả

[4] Nguyễn Văn Tín, Trận Snoul Theo Lời Tường Thuật Báo New York Timeshttp://www.generalhieu.com/snoul-nyt-u.htm/

[5] Lệnh Hành Quân HQ/TT02/71/B5/KB của Sư đoàn 5, do tướng Hiếu ký ngày 04/5/71,http://www.generalhieu.com/TT02-u.htm/

[6] E-mail của tướng Trần Quang Khôi ngày 20/11/03

[7] Lê Kinh Lịch, Trận Đánh Ba Mươi Năm, nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, 1996, tr.405-406, 421, 432,http://www.generalhieu.com/xnun-u.htm/

[8] Carl J.Haaland, Operational Report-Lessons learned 3/17 Air Cavalry, 30 April 1971,http://splorg.org/vietnam/orll.html/

[9] Carl von Clausewitz, Principles of War, The Military Service Publishing Company, Harrisburg, Pennsylvania

[10] Mạn đàm giữa một sĩ quan tham mưu cao cấp của Quân đoàn 3 và tác giả ngày 22/11/03

[11] Mạn đàm với Colonel Raymond Kampe, cựu Cố vấn trưởng Sư đoàn 5, và tác giả ngày 24/11/03

[12] Nguyễn Văn Tín, Hành Quân Snoulhttp://www.generalhieu.com/Snoul-u.htm/

[13] Trần Quang Khôi, Tường Trình Về Vai Trò Của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh Và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III,http://vietnam.glypto.com/webhtml-01/LD3KyBinh-1975-001.php

[14] Trần Quang Khôi, Fighting to the Finish, Armor, March-April 1996, p. 19-25,http://www.generalhieu.com/tqkhoi2-2.htm/

[15] George G. Layman, Các Khó Khăn Sư Đoàn 5 Gặp Phải Trong Chương Trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh,http://www.generalhieu.com/vnmization5ID-u.htm/

[16] Internet: http://members.aol.com/spur317f/private/cambodia.htm

[17] Internet: http://members.aol.com/bear317/vcg.txt/http://www.generalhieu.com/huychuong-my-snoul-u.htm

[18] Nguyễn Tiến Hưng & Jerold L. Schecter, Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập, C&K Promotion, Inc., Los Angeles, tr. 75, 78, 267,417.

[19] Trần Văn Đôn, Our Endless War: Inside Vietnam, Novato, CA: Presido Press, 1978

[20] Goodman, Allen E., The Lost Peace: America’s Search for a Negotiated Settlement of the Vietnam War, Stanford, CA : Hoover Institution, 1978

[21] Nguyễn Duy Hinh, Hành Quân Lam Sơn 719, Indochina Monographs, US. Army Center of Military History, 1979

[22] Isaacs, Arnolds, Without Honor: Defeat in Vietnam and Cambodia, New York: Vintage Books, 1983

[23] Kissinger, Henry A., The White House Years, Boston: Little Brown, 1979

[24] Nixon, Richard, The Memoirs of Richard Nixon, New Yorks: Grosset and Dunlap, 1978

[25] Ngô Quang Trưởng, The Easter Offensive of 1972, Indochina Monographs, U.S Army Center of Military History, 1980

[26] Cao Văn Viên, The Final Collapse, Indochina Monographs. Washington D.C.: U.S Army Center of Military History, 1983

[27] Thư của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi, Tư lệnh LLXKQĐ3, ngày 5/01/2004

[28] E-mail của Đại tá Bùi Trạch Dzần, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 8, ngày 04/01/2004

[29] E-mail của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi, Tư lệnh LLXKQĐ3, ngày 15/01/2004

[30] Hà Mai Việt, Thép và Máu, Thiết Giáp trong Chiến Tranh Việt Nam

 TÌNH HÌNH ĐẶC BIỆT (Từ ngày 24/5/71 đến ngày 30/5/71) (Căn cứ vào tài liệu của VC, bản tin tức của LLKK Hoa Kỳ, nghe lóm qua máy truyền tin, tù binh VC của TĐ 1/8, và một số sĩ quan VC hồi hưu ở VN) 

image115

Trần Văn Thưởng 

Ngày 02 tháng 02 năm 2004.
Cập nhật ngày 10/05/2008

(Đôi lời giới thiệu về tác giả của trang chủ: Sau khi tham gia trận đánh Snoul với tư cách Tiểu Đoàn Trưởng TĐ1/8, tác giả được bổ nhiệm về trường Võ Bị Đà Lạt. Đến năm 1974, tác giả được đề cử theo học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp tại Leavenworth, và đến ngày mất nước tháng 5/1975 thì bị kẹt lại bên Mỹ. Hiện giờ tác giả là giáo sư toán tại một viện đại học Hoa Kỳ.)

* tựa của Văn Hóa

XEM THÊM:

image116
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu

Những Ai Muốn Tướng Hiếu Chết?
(Những giả thuyết quanh cái chết của Tướng Hiếu)

Nguyễn Văn Tín

Đến ngày hôm nay cái chết của Tướng Hiếu vẫn còn là một bí ẩn. Do đó có rất nhiều giả thuyết được nêu ra: tự sát, lỡ tay lẩy cò, chủ mưu thảm sát với lý do quân sự, lý do thù vặt cá nhân hay tập đoàn, lý do chính trị. Sau đây xin góp nhặt tất cả những giả thuyết, bất luận thực hư, hợp lý hay viển vông. Mục đích chính là tập trung một chỗ tất cả các giả thuyết về cái chết của Tướng Hiếu; công việc phân tách, tổng hợp và nhận định để đi tới kết luận ai là thủ phạm, xin để dành cho chính độc giả.

Chính Tướng Hiếu
1. Đại Tá Nguyễn Khuyến viết: "Tôi sửa soạn đi ăn trưa với một vài người bạn ở Sài Gòn lên thăm thì được Phòng An Ninh Quân đoàn điện thoại báo cho biết Tướng Hiếu đã dùng súng lục tự vận tại văn phòng. Tôi rất bàng hoàng và kinh ngạc vì đó là chuyện khó tin. Tôi mới chào từ biệt ổng cách đây chừng 15 phút sau buổi họp. Tôi thấy ổng vẫn vui vẻ như thường lệ, không có triệu chứng gì của một kẻ chán đời. Làm sao có chuyện tự vận?"

2. Thông tín viên UPI viết: "Tư Lệnh Phó QLVNCH bảo vệ Sài Gòn được khám phá bị bắn tối thứ ba sau một cuộc cãi vả về chiến thuật với cấp trên của mình. Các nguồn tin quân sự nói là có vẻ ông tự vận. Các nguồn tin đó nói Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu chết với một vết thương do một viên đạn gây nên ở miệng tại văn phòng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 ven biên phi trường quân sự Biên Hòa, cách Sài Gòn 14 miles."

3. Alan Dawson viết: "Phó Tư Lệnh Quân Đoàn 3 vùng bao quanh Sài Gòn, Tướng hai sao Nguyễn Văn Hiếu, đã chết. Tin đồn ông tự vận tại văn phòng ở Biên Hòa sau một cuộc cãi vả với thượng cấp ông, Tướng ba sao Nguyễn Văn Toàn, liên quan đến việc bảo vệ vùng Thủ Đô." (55 Days - The Fall of South Vietnam, 1975)

4. John Prados viết: "Năm 1975, Tướng Hiếu giữ chức tư lệnh phó vùng quân sự bao gồm Sài Gòn; ông tự vận khi rõ ràng là Miền Nam Việt Nam sắp cáo chung." (The Hidden History of the Vietnam War, 1995)

Không ai hết: tai nạn rủi ro súng lẩy cò
1. Đại Tá Nguyễn Khuyến viết: "Theo lời Trung Tá Quyến, Chỉ huy trưởng Quân cảnh Quân đoàn 3 thì đây là một tai nạn súng lục cướp cò. Không có bằng chứng về giả thuyết Tướng Hiếu bị ám sát hay tự sát. Tôi cũng đồng ý về nhận xét này của Quân cảnh vì theo tin tức chúng tôi nhận được thì biết Tướng Hiếu rất thích súng lục. Ông đã từng giựt giải vô địch thiện xạ súng lục. Trước đó ít lâu, ông được ai đó biếu cho một khẩu súng lục, loại hiếm có. Ông rất quý khẩu súng này nhưng phiền một cái là nó hay bị cướp cò. Cái khóa an toàn bị hỏng sao đó nên dễ bị cướp cò. Ông đã giao cho Bộ chỉ huy 3 Tiếp vận sửa đi sửa lại mấy lần rồi. Đây là tin tức tôi nghe được từ Đại tá Khang, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy 3 Tiếp vận kể lại."

2. Tướng Nguyễn Văn Toàn viết: "Bất ngờ vào ngày (không nhớ) lúc bay hành quân về thì được tin anh Thiếu Tướng Hiếu đã tử nạn ở văn phòng. Tôi liền bay đến văn phòng Thiếu Tướng Hiếu thì tôi thấy anh ấy đã chết bởi một viên đạn súng lục trổ từ mắt lên đầu và chết ngay nơi bàn giấy. Sự tử nạn của anh Hiếu là do súng lục cướp cò mà ra."

3. Tướng Hoàng Xuân Lãm viết: "Thiếu Tướng đã qua đời vì một tai nạn súng nhỏ tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 sau khi chủ tọa một cuộc họp hành quân."

4. Tướng Lâm Quang Thi nói: "Có thể là anh Hiếu chết vì súng lục cướp cò. Tôi còn nhớ hồi chúng tôi còn là Thiếu Tá ở Quân Đoàn 1, Đà Nẵng, chúng tôi thường bắn súng lục thi vào cuối tuần. Anh Hiếu bắn giỏi hơn tôi, vì hay mài dũa nòng súng dữ lắm."

Tập Đoàn Tham Nhũng
1. Trong cuốn Blind Design (1995) Tướng Hoàng Văn Lạc nêu tên các Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Đặng Văn Quang, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên và Đồng Văn Khuyên trong số tập đoàn tướng lãnh tham nhũng giết hại Tướng Hiếu:

Khi Hương được bổ nhiệm Chủ Tịch Ủy Ban Bài Từ Tham Nhũng, với sự phụ tá của Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Thiệu đồng ý cho Hương duyệt xét hồ sơ của Viên. Trong một bữa cơm gia đình ở Vĩnh Long, Hương nói với tôi là ông đề nghị với Thiệu duyệt xét hồ sơ của Viên, và sau này hồ sơ của Quang nữa. Tôi giải thích cho Hương là cho dù Viên có bị loại, thì Viên cũng được thay thế bởi Quang, chứ không phải bởi Trí. Hơn nữa, rất khó cho Thiệu và Hương cách chức Viên. Vì lẽ không đủ bằng chứng Viên hành sự thiếu sót hay bất trung, và Viên khôn ngoan đủ để cho Thiệu có lấy được bằng chứng. Dưới sự bao che của Viên, Khuyên sẵn sàng hy sinh cho Viên. Khuyên, mặt khác, được sự hỗ trợ của MACV vì ông luôn đồng ý với cố vấn trong việc chu toàn bổn phận quản trị tiếp tế, chuyên chở, tồn kho, và các dịch vụ tiếp vận khác cung ứng cho các cuộc hành quân được thành công.

Hương bắt đầu tập trung điều tra vào Quang nhưng Thiệu tìm đủ mọi cách để bao che cho Quang vì bảo vệ Quang tức là bảo vệ mình vì các dịch vụ của Quang và của Thiệu là một. Tướng Hiếu thu thập và hoàn tất hồ sơ về Quang và trở nên bất mãn. Ông xin trở lại Quân Đội.

Hương thất vọng và thôi không đeo đuổi các viên chức cao cấp, và thay vào đó, ông chú tâm vào những viên chức thấp bé hơn.
{...}

Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Vùng 3 Chiến Thuật, và cựu phụ tá cho Phó Tổng Thống phụ trách chống tham nhũng, cũng chết một cái chết đáng nghi ngờ. Tướng Hiếu trẻ trung, đầy nhiệt huyết, nhiều khả năng và trong sạch, và giới truyền thông báo chí cho là cái chết của ông là do bàn tay của các tướng lãnh tham nhũng.

2. Phạm Lê Hiệp viết:
Tôi xin đóng góp ý riêng về cái chết của Tướng Hiếu. Tướng Hiếu bị giết vì đã điều tra chuyện tham nhũng của Tướng Toàn. Đường giây tham nhũng ấy do gia đình ông bà Thiệu đứng đầu. Do đó, việc Tướng Toàn ra lệnh giết Tướng Hiếu để ếm nhẹm là chuyện đương nhiên. Cũng có nguồn tin nói rằng: Ông Trần Văn Hương chỉ thị cho TT Hiếu điều tra chuyện tham nhũng của ông Thiệu. Khi ông Thiệu đưa TT Toàn về làm Tư Lệnh, ông ta đã ra lệnh TT Toàn hạ sát TT Hiếu. Nếu TT Hiếu thật sự bị súng cướp cò khi đang chùi súng thì đạn phải vào bụng hay đùi."

3. Kỳ Phong viết:
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu chỉ huy Sư Đoàn 22 Bộ Binh năm 1964 khi ông còn mang lon Đại Tá. Tin đồn cho là ông bị đàn em của Tướng Đặng Văn Quang sát hại khi Tướng Hiếu sắp sửa phúc trình các hành động tham nhũng của Tướng Quang năm 1974.

4. Vào cuối tháng 3/1975, khi Thiệu bị áp lực mạnh từ tứ phía muốn ông từ chức Tổng Thống, và người kế vị sẽ là Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, tập đoàn tướng lãnh tham nhũng - trong số đó có cả ông Thiệu - lo sợ số mạng của họ sẽ giống số mạng Tướng Nguyễn Văn Vỹ trong vụ tham nhũng Quỹ Tiết Kiệm năm 1972, vì họ biết là ông Hương sẽ cử Tướng Hiếu vào chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng. Khi đó, chắc chắn là các xấp hồ sơ tham nhũng mà ông Thiệu đã ngâm tôm ếm nhẹm sẽ được khui ra. Do đó họ thấy cần phải hành động ngăn chận Tướng Hiếu trước.

Tướng Nguyễn Văn Toàn hay Tướng Đồng Văn Khuyên
Phạm Lê Hiệp viết:
Tôi xin mạn phép đưa thêm một giả thuyết về chuyện Tướng Hiếu. Có lẽ Tướng Hiếu bị Tướng Toàn hoặc Tướng Đồng Văn Khuyên ra lệnh giết vì ông ta có kế hoạch phản công tại Xuân Lộc. Nếu kế hoạch này được áp dụng và thành công, VNCH có thể kéo dài cuộc chiến thêm vài ba năm nữa. Trong những năm đó biết đâu chừng ông Thiệu lại không liên kết với Trung Cộng hay Pháp để tạo một thế đứng chính trị mới cho miền Nam. Thế đứng đó sẽ bất lợi cho Hoa Kỳ và Bắc Việt. Vì lý do đó, Bắc Việt hay Hoa Kỳ phải chận đứng kế hoạch của Tướng Hiếu. Tướng Toàn (một người buôn gạo và quế cho Cộng Sản và rất thân Mỹ) hay Tướng Khuyên (Cộng Sản nằm vùng) là người đã ra lệnh hạ sát Tưóng Hiếu.

Tướng Trần Thiện Khiêm
Phạm Lê Hiệp viết:
Tôi xin thêm một giả thuyết nữa về cái chết của tướng Hiếu. Trong năm 1974, hai ông Thiệu Khiêm xung-đột với nhau vì chuyện bầu-cử năm 1975. Nguyên-nhân là khi ông Thiệu đề cử ông Khiêm làm thủ-tướng thay ông Nguyễn văn Lộc (phe ông Kỳ), ông đã hứa hẹn với ông Khiêm là vào năm 1975 ông Khiêm thay thế ông ta trong chức-vụ tổng-thống.

Sau vài năm cầm quyền, ông Thiệu tham-quyền cố-vị đã sửa hiến-pháp để ông ta có thể tranh-cử một lần nữa. Ông Khiêm giận nên đã đưa những tài-liệu tham-nhũng của ông bà Thiệu cho LM Trần Hữu Thanh. Ông Thiệu trả đũa bằng cách cách chức một số người thuộc vây cánh ông Khiêm.

Tháng 1/1975 trước cuộc tấn-công Phước Long, ông Thiệu đang phân-vân không biết làm gì với những lời hối-thúc của hai cố-vấn Ted Serong (Úc) và Vanuxem (Pháp, mật-thám của Mỹ). Ông Serong khuyên ông Thiệu triệt-thoái vùng I và II đem quân về tái phối-trí và xin viện-trợ của một nước khác (xem toàn bộ tập hồ-sơ triệt-thoái "Give me 10 more years" tại thư-viện của TT LB Johnson). Ông Vanuxem thì khuyên nên thoả-hiệp với Pháp. Cùng lúc ấy, các đại-sứ VNCH tại Âu Châu và Á Châu đều được điệp-viên Trung-Cộng tiếp-xúc đề-nghị VNCH thoả-hiệp ngoại-giao với Bắc Kinh. Nếu ông Thiệu đồng-ý, Trung-Cộng sẽ cúp viện-trợ và cắt ống tiếp-liệu của Bắc Việt (khoảng 5000km ống dẫn dầu đến tận Lộc Ninh).

Ông Thiệu vì tin vào mấy lá thư cam-đoan tái-chiến của cựu TT Nixon đã không chịu áp-dụng giải-pháp quân-sự hay ngoại-giao nào ngoài việc tiếp tục xin viện-trợ quân-sự của Mỹ. Khi Ban Mê Thuột thất-thủ, ông Thiệu đem kế-hoạch tái phối-trí quân-đội áp-dụng tại QĐ II và QĐ I. Quân Đoàn II rút theo đường 7B bị Cộng Quân đuổi đánh tan rã. Quân Đoàn I bị cô-lập phải rút bằng đường biển bị thiệt hại nặng nề. QĐ III và IV trở thành phòng-tuyến của VNCH. Lúc đó, nếu QĐ III cản được sức tiến công của Cộng Quân, ông Thiệu có thể quay sang Pháp hay Úc để xin viện-trợ. Ông Thiệu cũng có thể xin Trung Cộng can-thiệp sau khi đặt quan-hệ ngoại-giao . Nếu được như vậy, chắc chắn ông Thiệu sẽ còn giữ được chức mình vài năm nữa. Đó là điều mà TT Khiêm không muốn. Do đó, Tướng Hiếu với kế-hoạch tổng phản-công tại vùng III phải bị giết. Ai ra lệnh giết? Có thể là TT Khiêm (rất thân Mỹ) chăng? Trung Tá Quyến và Quân Cảnh Tư-Pháp dính líu thế nào? An-ninh quân-đội tại sao không điều tra ra được?

Tướng Nguyễn Văn Toàn
1. Khi phóng viên UPI và ký giả Alan Dawson nói là Tướng Tư Lệnh Phó Hiếu chết sau một cuộc cãi vả kịch liệt về chiến thuật với Tướng Tư Lệnh Toàn, chắc hẳn họ ngụ ý là Tướng Toàn bắn hay ra lệnh sai bắn Tướng Hiếu.

2. Denis Warner viết trong Certain History - How Hanoi won the war (1978): "Theo Tướng Dung, sát nhân là một người thân tín của ông Thiệu và là thượng cấp của Tướng Hiếu, tư lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, Tướng Nguyễn Văn Toàn.

3. Hoàng Khởi Phong viết trong Ngày N+...: "Đàn em tướng Toàn đã giúp tướng Hiếu, một tướng sạch khác đến nơi an nghĩ cùng tướng Thanh rồi."

4. Đại đa số giới quân sự cho là Tướng Toàn bắn Tướng Hiếu.

5. Các cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 3 Trần Hưng Đạo trường Võ Bị Đà Lạt, trong một buổi họp mặt ở California, có hỏi thẳng Tướng Toàn. Câu trả lời của Tướng Toàn là không.

6. Tướng Toàn viết trong thư gửi cho em Tướng Hiếu: "Bất ngờ vào ngày (không nhớ) lúc bay hành quân về thì được tin Thiếu Tướng Hiếu đã tử nạn ở văn phòng."

7. Tướng Lý Tòng Bá quả quyết với em Tướng Hiếu là không phải Tướng Toàn bắn Tướng Hiếu vì khi Tướng Hiếu chết ở văn phòng thì ông đang họp với Tướng Toàn ở một phòng họp khác cũng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3.

8. Đại Úy Đỗ Đức, tùy viên Tướng Toàn, nói là cả ngày hôm Tướng Hiếu chết, Tướng Toàn ở trong văn phòng làm việc; Tướng Toàn về tư dinh khoảng 5 giờ 30 chiều; một chập sau thì có tin Tướng Hiếu chết.

9. Đại Tá Lê Văn Trang nói là trong một dịp ông qua California, ông được Trung Tá Quyến cho hay là theo ý ông thì chính Tướng Toàn bắn Tướng Hiếu.

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
1. Phóng viên UPI viết: "Không biết sự kiện Tướng Hiếu chết có liên quan gì với vụ oanh tạc Dinh Độc Lập của ông Nguyễn Văn Thiệu xảy ra sáng thứ ba cùng ngày không?"

2. Phóng viên Denis Warner viết trong Certain History - How Hanoi won the war (1978):

Trong hai tuần lễ tiếp sau, có vô số tin đồn đảo chánh. Một tối, một viên sĩ quan tham mưu làm việc tại Bộ Tổng Tham Mưu gọi điện thoại tại phòng tôi mướn ở khách sạn Continental và cho tôi hay là một cuộc đảo chánh đang tiến hành và tôi có thể an toàn mà viết là ông Kỳ sẽ lên nắm chính quyền trước sáng hôm sau. Người đó rất đáng tin cậy nên tôi đã bước xuống khỏi giường và khởi sự viết thiên phóng sự. Nhưng rồi, suy nghĩ lại (hay tại tôi nhát sợ phải đối mặt với các toán binh ngoài đường phố khi không có giấy phép di chuyển), tôi đã xé bỏ vào thùng rác và đi ngủ trở lại.

Như vậy lại còn hay hơn.

Thực sự thì ông Kỳ có kế hoạch đảo chánh, dùng tới không quân, lính dù, và lực lượng đặc biệt. Ông khựng lại vào phút chót chỉ vì ông tin là Đại Sứ Martin đã đồng ý gây áp lực để ông Thiệu từ chức. Tôi không rõ Tướng Hiếu, tư lệnh phó Vùng 3 Chiến Thuật (tuyến phòng Sài Gòn) có liên hệ tới vụ đảo chánh không, nhưng vào tối ngày 7 tháng 4/1975 ông bị bắn và giết tại bàn giấy ở Biên Hoà. Theo Tướng Dung, sát nhân là một người thân tín của ông Thiệu và là thượng cấp của Tướng Hiếu, tư lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, Tướng Nguyễn Văn Toàn. Đúng 8 giờ 22 phút ngày hôm sau, khi đường Catinat đầy nghẹt xe cộ qua lại, một chiến đấu cơ F5E do Trung Úy phi công KQVN Nguyễn Thành Trung lái, bay trên đầu thành phố rồi bổ đầu đâm thẳng xuống Dinh Độc Lập.

3. Tướng Phạm Văn Đổng nói: "Ông Trần Văn Hương chỉ thị cho Thiếu Tướng Hiếu điều tra chuyện tham nhũng của ông Thiệu. Khi ông Thiệu đưa Trung Tướng Toàn về làm Tư Lệnh Quân Đoàn III, ông ta đã ra lệnh Trung Tướng Toàn hạ sát Thiếu Tướng Hiếu."

4. Ai cũng biết là Tổng Thống Thiệu rất sợ bị đảo chánh. Tướng Vĩnh Lộc nói Tổng Thống Nhà Nam sợ đến cả chính bóng hình mình, và run rét Dù hay Thiết Giáp đảo chánh. Tướng Trần Văn Đôn nói Thiệu sợ nếu có đảo chánh ông sẽ bị giết như ông Diệm. Tướng Lê Quang Lưỡng nói Thiệu đang tâm xẻ Sư Đoàn Dù ra làm ba, khi ông đưa Sư Đoàn này từ Quân Đoàn 1 về, vì sợ Dù đảo chánh. Ông Thiệu thà mất nước chứ không muốn mất ghế Tổng Thống. Thiệu dám hy sinh cả một đoàn quân Dù ưu tú và cả một quốc gia thì có xá gì tính mạng một Tướng Hiếu một khi ông nghi Tướng Hiếu đứng ra cầm đầu đảo chánh. Tướng Trần Văn Đôn đã dùng tiếng Pháp "méchant" để mô tả Thiệu như là một con người độc ác (The Fall of South Vietnam. Statements by Vietnamese Military and Civilian Leaders, by Stephen T. Hosmer, Brian M. Jenkins, and Konrad Kellen).

5. Nhân một buổi đại hội toàn quốc cựu tù nhân chính trị tại Cali, một người hỏi riêng Tướng Toàn nghĩ sao về vụ Tướng Hiếu là người hay xông pha ngoài mặt trận lại chết vì súng lẩy cò thì được Tướng Toàn trả lời, "Ông Thiệu nay đã chết rồi, thôi bỏ chuyện đó cho qua đi."

Nguyễn Văn Tín
Ngày 05 tháng 10 năm 1999
Cập nhật ngày 13.09.2003
27 Tháng Mười Một 2018(Xem: 6297)
22 Tháng Hai 2018(Xem: 8426)
10 Tháng Mười Hai 2017(Xem: 6889)