THỬ ĐỀ NGHỊ MỘT DỰ ÁN HÌNH THÀNH ĐỐI LỰC ĐỂ CỨU QUỐC, KIẾN QUỐC, TỒN CHỦNG

23 Tháng Chín 201312:00 SA(Xem: 6679)

THỬ ĐỀ NGHỊ MỘT DỰ ÁN HÌNH THÀNH ĐỐI LỰC

ĐỂ CỨU QUỐC, KIẾN QUỐC, TỒN CHỦNG

TIẾN SĨ HÀ THẾ RUYỆT

 

TÓM LƯỢC NỘI DUNG DỰ ÁN:

I. PHẦN MỞ: Đã đến lúc phải Hợp Lực Hành Động để cứu nước, giữ nòi. Châm Ngôn về Hợp Lực. 
II. PHẨN I: Kỹ thuật hình thành Đối Lực: Cơ Cấu Tổ chức quy mô, chân chính, dân chủ, mạnh và hữu hiệu
III. PHẦN II: 

A: Sơ lược Lý tưởng đấu tranh, y cứ trên ý chỉ của Tổ Tiên thời lập quốc qua vài Di Thuyết: Tiên Rồng; Gậy Thần Sách Ước; Bánh Chưng-Bánh Dầy;Phù Đổng Thiên Vương; Tiên Dong-Chử Đồng Tử..; chứng tỏ tư tưởng Việt đã cao, đẹp gần với đích Chân-Thiện-Mỹ; Và tràn dầy tính chất Nhân Bản-Dân Tộc-Xã Hội; - Vượt trội hơn chủ thưyết Kark Marx rất xa; Chưa nói đến tinh hoa văn hóa tích lũy trong suốt hơn 4000 năm lịch sử, trong đó có các tư tưởng của Duy Dân, Nhân Vị, Sinh Tồn... 

B: Kỹ thuật tổ chức đấu tranh quy mô, hữu hiệu, cùng lúc công khai, bí mật theo mô thức của Giáo Hội La mã và Hạch Tâm Thể của ông Lý Đông A

IV. KẾT LUẬN: Các ý chính trong dự án.

 

PHẦN I: ĐÃ ĐẾN LÚC PHẢI HỢP LỰC HÀNH ĐỘNG DỂ CỨU NƯỚC, GIỮ NÒI.

CUỘC ĐẤU TRANH ĐỂ CỨU NƯỚC, GIỮ NÒI LÀ CỦA TOÀN DÂN

CỨU QUỐC LÀ BẢO TOÀN LÃNH THỔ, LÃNH HẢI, CHỐNG LẠI SỰ XÂM LƯỢC VÀ ÂM MƯU ĐỒNG HÓA CỦA TRUNG CỘNG.

KIẾN QUỐC LÀ LÀM DÂN GIẦU, NƯỚC MẠNH, MỌI NGƯỜI VIỆT CÙNG ĐƯỢC HƯỞNG TỰ DO, HẠNH PHÚC

TỒN CHỦNG LÀ CƯỜNG DÂN LỰC, NUÔI DÂN TRÍ, DƯỠNG DÂN KHÍ, BẢO VỆ DÂN VĂN, PHÁT HUY VĂN HIẾN, ĐỂ NÒI GIỐNG VIỆT KHÔNG BỊ DIỆT

 

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐANG HÈN VỚI GIẶC, ÁC VỚI DÂN.

NHƯNG HÌỆN TẠI KHÔNG CÓ LỰC LƯỢNG NÀO

CÓ THỂ LÀM CÁCH MẠNG TỔNG NỔI DẬY, LẬT ĐỔ,

HAY NGAY CẢ HỢP TÁC ĐỂ CHUYỂN ĐỔI ĐƯỢC THỰC TRẠNG

 

NÊN, CÓ MỘT VIỆC, TUY RẤT KHÓ, NHƯNG CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC,

LÀ HỢP NHAU THÀNH MỘT ĐỐI LỰC

CÓ MỘT ĐỐI LỰC, RỒI MỚI CÓ THỂ TÙY CƠ CƯƠNG, NHU, HAY CƯƠNG NHU PHỐI TRIỂN MÀ HÀNH ĐỘNG

TRONG NƯỚC

NHÂN DÂN ĐÃ ĐỨNG LÊN; THẾ HỆ TRỂ ĐÃ QUYẾT TỬ

 

CÁC LỰC LƯỢNG ĐẤU TRANH TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

NGOÀI NHỮNG CÔNG VIỆC ĐANG LÀM;

NGOÀI NHỮNG VIỆC PHÊ BÌNH, CHỈ TRÍCH CÁC TỒI TỆ CỦA CỘNG SẢN

ĐÃ ĐẾN LÚC

TẤT CẢ PHẢI QUYẾT TÂM HỢP LỰC HÀNH ĐỘNG

CƯƠNG QUYẾT HÌNH THÀNH MỘT ĐỐI LỰC

GIÚP CÁC CHIẾN SĨ DÂN CHỦ ĐANG TRANH ĐẤU TRONG NƯỚC

TÌM MỘT GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM.

HÃY CHẤP NHẬN NHAU, LIÊN HOÀN THẾ HỆ

CÁC TỔ CHỨC, CÁC THẾ HỆ ĐẾN VỚI NHAU,TRONG ĐỐI LỰC LIÊN HỢP HỖ TƯƠNG GIÚP NHAU CÙNG THĂNG HÓA
SỨC LÕI CHỦ ĐỘNG

SỨC LÕI CƠ BẢN LÀ NHỮNG THÀNH PHẦN TRUNG NIÊN, THANH NIÊN NGOÀI NƯỚC, VÀ NHỮNG NHÀ ĐẤU TRANH DÂN CHỦ TRONG NƯỚC, GIẦU LÒNG YÊU NƯỚC, NĂNG ĐỘNG, ĐÃ VÀ ĐANG BỊ TÙ

 

X X

X

 

ĐẠI HỌA MẤT NƯỚC đã diễn ra trước mắt. Chủ TịchTập Cẩm Bình gặp Tổng Thống Barack Obama tại Palm Springs trong hai ngày 7 và 8 tháng tháng 6, năm 2013. Họ trao đổi nhau nhiều thứ. Quan trọng nhất với chúng ta, là họ đã mật trao đổi với nhau cái gì về Biển Đông, mà mới đầu Hoa Kỳ ồn ào, nhưng sau khi gặp Tập Cẩm Bình lại im thin thít? Hậu qủa sẽ tác động tai hại nào cho Việt Nam?

Ta dự đoán, khi hai người có vai trò quan trọng nhất trên thế giới, mà lại có thẩm quyền nhất ở quốc gia mình, các thỏa thuận mật, có thẻ được giữ kín lâu dài, gặp nhau riêng, họ sẽ hỏi thẳng nhau, đặc biệt anh muốn có gì, và muốn tránh gì? Họ sẽ mặc cả cho và lấy, để hai bên đều có lợi và tương đối yên lòng.

Tập Cẩm Bình, bản chất độc tài, nhiều tham vọng, muốn Biển Đông là của mình, có lẽ muốn Việt Nam trở nên như Tây Tạng, muốn Mỹ tôn trọng Hiệp Ước mật giữa Mao Trạch Đông và Nixon năm 1972, muốn tiếp tục con đường Đặng Tiểu Bình đã vạch, Phát triển kinh tế, ngự trị Phi Châu, dùng dân da đen Phi Châu tác động dân da đen tại Mỹ; gây ảnh hưởng mạnh với các nước Nam Mỹ chống Hoa Kỳ, dùng chiến lược, lấy nông thôn Nam Mỹ bao vây thành thị Hoa Kỳ, dấu kín nanh vuốt, đợi khi Trung Cộng đủ mạnh, sẽ tạo bạo loạn trong nội địa Mỹ và dứt điểm, tiến lên làm bá chủ hòan cầu. Cơ Bản lực lượng Đồng Minh của Trung Cộng là Nga Sô, BRIC (Brazil, Russia, India, và China,) và các nước Trung Á, Karzistan, Pakistan... Tập Cẩm Bình nhiều tham vọng nhưng biết mình, biết người, lúc này cần có Mỹ, không muốn có chiến tranh và đối đầu với Mỹ, nên rất nhún nhường. 

Hoa Kỳ, có lẽ chỉ muốn thế giới và Trung Cộng giữ nguyên trạng. Trung Cộng hợp tác với Mỹ và thế giới để phát triển kinh tế và duy trì hòa bình. Cụ thể là muốn Bắc Hàn, cùng Iran không có võ khí nguyên tử. Không muốn Trung Cộng can thiệp vàoTrung Đông. Không muốn Trung Cộng tiếp tục làm nóng trái đất.

Sau hai ngày, lúc cuối, Tập Cẩm Bình đã lộ rõ thái độ vui mừng, hớn hở. 

Có gì liên hệ đến Hiệp Ước Mật 1972, giữa Tổng Thống Nixon và Chủ Tịch Mao Trạch Đông, mà chúng ta đã biết phần nào hậu qủa qua các năm 1974, và 1975;- Về Biển Đông,Trung Cộng trước nay vẫn rất lộng hành. Tại Biển Đông, Hoa Kỳ, theo mật ước 1972, tiếp tục không can thiệp vào sự tranh chấp lãnh hải giữa các quốc gia Á Châu. Trung Cộng đã trao đổi việc Bắc Hàn phải bỏ tham vọng có võ khí nguyên tử, để được gì ở Biển Đông? Hoa Kỳ và Trung Cộng sẽ làm gì tại Việt Nam? Hoa Kỳ đã muốn dồn nỗ lực về Á Đông để ngăn cản sự bành trướng của Trung Cộng. Liệu có tiếp tục tìm cách nỗ lực kéo Việt nam ra khỏi quỹ đạo của Trung Cộng? Tại sao sau đóTập Cẩm Bình, trong 3 ngày 19 đến 21 tháng 6 năm 2013 đã trải thảm đỏ, long trọng đón rước Trương Tấn Sang? Trong chính sách thi hành Đối Tác Chiến Lược Tòan Diện, họ đã cùng nhau ký hơn 10 Hiệp Ước, mà nội dung các mặt hai nước đã coi nhau như một, trong đó có ngoại giao, an ninh, quốc phòng, kể cả 6 tỉnh biên giới và các cửa khẩu cũng đều chung quản lý. Như vậy Việt Nam đã coi như là một tỉnh của Trung Cộng?

 Đảng Cộng Sản Việt Nam, trước sự phẫn uất của dân chúng trong và ngoài nước, ngày 24 , 25 tháng 7 năm 2013, đã cử ông Trương Tấn Sang và phái đòan sang Hoa Kỳ. Ông Trương Tấn Sang cũng đã cùng Tổng Thống Obama và các viên chức Hoa Kỳ, tuyên bố Hợp Tác Chiến Lược Tòan Diện, các mặt, kể cà kinh tế, giáo dục, an ninh, Quốc Phòng, và tôn trọng Hiấn Chương Liên Hiệp Quốc về Nhân Quyền. Ông Trương Tấn Sang cũng bác bỏ chủ quyền 9 đoạn lưỡi bò của Trung Quốc. Người ta đã có hy vọng ông Trương Tấn Sang và nhóm cán bộ trẻ, trở nên thành một Gobachew và nhóm Glasnot của Việt Nam. Nhưng khi ông Trương Tấn Sang về nước, không những các nhà đấu tranh dân chủ vẫn bị đối xử khe khắt, mà sau đó, ông Nguyễn Tấn Dũng lại vừa ban hành nghị định 72, có hiệu lực vào tháng 9 năm 2013, quy định các blogs, hay các trang mạng xã hội như Facebook, Twitter, chỉ được dùng để cung cấp và trao đổi thông tin cá nhân, không được trích đăng, thu thập, hay cung cấp thông tin tổng hợp. Như vậy là tiêu diệt hẳn quyền tự do ngôn luận trên net và những trừng phạt, bắt bớ sẽ nhiều hơn.

Trung Cộng vẫn hết sức tìm mọi cách để đô hộ, đồng hóa Việt Nam. Có một số người cộng Sản Việt Nam cũng cố đang vùng vẫy. Nhưng họa mất nước, thực tế ngày ngày vẫn càng thêm nguy ngập. CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?

Trong nước, NHỮNG NGƯỜI YÊU NƯỚC ĐÃ ĐỨNG LÊN, từ các dân oan, đến các tôn giáo, các nhà trí thức, các cựu tướng lãnh cùng các cán bộ cộng sản thức tỉnh, và các nhà đấu tranh dân chủ. Tuổi trẻ đã vùng lên, dũng cảm quyết tử đấu tranh, những Tạ Phong Tần, Điếu Cầy, Việt Khang, Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Uyên Phương, Đinh Văn Kha, Trần Huỳnh Duy Thức, hàng nhiều trăm người, không sợ chết, hiên ngang trong trại tù, trước tòa án, trên các bloggers, và ngày 30 tháng 6 năm 2013 cũng dã dám nổi loạn trong trại giam. HỌ ĐÃ QUYẾT TỬ ĐỂ ĐỒNG BÀO, ĐỂ DÂN TỘC ĐƯỢC QUYẾT SINH.

NGƯỜI HẢI NGOẠI ĐÃ LÀM GÌ để giúp người trong nước? Phê Bình, chỉ trích cộng sản thậm tệ. Đấu tranh nhân Quyền. Người nói cương quyết lật đổ cộng sản, kẻ chủ trương thay đổi cộng sản bằng diễn biến hòa bình, nhưng chỉ nói, không làm. Chẳng ai nói phải làm sao để lật đổ được cộng sản, hay làm sao để có thể thay đổi cộng sản từ tòan trị sang tự do, dân chủ bằng Diễn Biến Hòa Bình. Nói là cần thiết, nhưng hành động mới thực sự làm thay đổi được tình thế. Chẳng tổ chức nào hành động, tạo dựng những cơ sở, nhân sự, phuơng tịện và tiến tới hành động cụ thể để làm những việc ấy. Chỉ nói, chỉ chỉ trích cộng sản và úy kỵ những khác biệt của nhau, thì đến bao giờ cộng sản mới đổ. Nhiều người nói: Cộng sản sẽ phải đổ, tự nó sẽ đổ; nhưng không biết tại sao nó đổ, và đến bao giờ. Cũng có người nói là Hoa Kỳ sẽ làm, quốc tế sẽ làm cộng sản đổ, nhưng không biết Hoa Kỳ và Quốc Tế làm gì để cộng sản đổ và bao giờ họ làm. Chúng ta chỉ có ước muốn suông, nhưng rất cực đoan với ước muốn suông đó. Cho nên chúng ta cứ chia rẽ. CHO NÊN CHÚNG TA MÃI BẤT LỰC.

 

ĐÃ ĐẾN LÚC CHÚNG TA PHẢI THỨC TỈNH. Bất động là yếu hèn. Chia rẽ là phản động, là làm lợi cho cộng sản, là tay sai vô tình hay cố ý của địch. Chúng ta đang BẤT LỰC VỚI GIẶC VÀ KHÓ TÍNH VỚI BẠN; trong khi cộng sản hèn với giặc và ác với dân. Chúng ta phải anh dũng đứng lên, như các chiến sĩ trong nước, như tuổi trẻ trong nước đã anh dũng đứng lên. Công tác đứng lên đầu tiên là chấm dứt chỉ trích các đoàn thể quốc gia khác, chấp nhận họ như họ vẫn có, cả ưu lẫn nhược điểm.. Công tác thứ hai là đến với nhau, cương, nhu phối triền, hợp tác hỗ tương nhau, và tiến tới MỘT HỢP LỰC MẠNH. Công tác thứ ba là KHIÊM NHƯỢNG, đi vào TỔ CHỨC, TỔ CHỨC VÀ TỔ CHỨC, SINH HOẠT, SINH HOẠT VÀ SINH HOẠT, HÀNH ĐỘNG, HÀNH ĐỘNG VÀ HÀNH ĐỘNG. Có Đối Lực Mạnh- Biết Tổ Chức chu đáo, chặt chẽ, hữu hiệu- Biết sinh hoạt thường xuyên để giải qưyết những bất đồng, đạt mẫu số chung- Biết đẻ ra chương trình hành động, và cụ thể hành động, cương, nhu, hay cương nhu phối triẻn, chúng ta mới có thể CỨU ĐƯỢC NƯỚC. Cứu được nước, chúng ta mới có thể bảo vệ được giống nòi, mới có thể TỒN CHỦNG.

 

ĐÃ ĐẾN LÚC CHÚNG TA PHẢI HÀNH ĐỘNG - VẢ PHẢI HỢP LỰC ĐỂ HÀNH ĐỘNG HỮU HIỆU - MỚI CÓ THỂ ĐẠT MỤC TIÊU CỨU QUỐC, TỒN CHỦNG.

I. CHÂM NGÔN:
  1. Cứu Quốc-Tồn Chủng là sứ mệnh của mọi người Việt trong và ngoài nước, quốc gia và cộng sản.
  2. Muốn Cứu Quốc-Tồn Chủng phải làm Dân Giầu, Nước Mạnh. Muốn Dân được Giầu, Nước được Mạnh phải cứu được nước và xây dựng được đất nước.
  3. Muốn Cứu Quốc, Kiến Quốc phải có sức mạnh của toàn dân trong và ngoài nước.
  4. Muốn có Sức Mạnh của Tòan Dân, những Thành Phần Cơ Bản của Dân Tộc Trong và Ngoài Nước phải Đoàn Kết hay ít ra phải Liên Hợp với nhau.
  5. Muốn Đoàn Kết hay Liên Hợp với nhau, các tổ chức, các cá nhân trong nước, ngòai nước, cứ vẫn giữ nguyên Bản Vị mình, tổ chức mình, công việc mình, nhưng cùng đến với nhau, chấp nhận nhau khác biệt, cương hay nhu, tìm mẫu số chung, rồi phân công hành động, và tìm cách Làm Lợi Cho Nhau cả Tinh Thần lẫn Vật Chất. Tìm mẫu số chung sẽ có kết hợp. Mổ xẻ khác biệt chỉ đưa đến chia rẽ.
  6. Các thành phần Không Cộng Sản muốn thành công, không nên chống nhau về phương pháp đấu tranh, lật đổ cộng sản, hay diễn biến hòa bình, mà phải cùng chấp nhận nhau, sắp xếp hỗ tương nhau, cương, nhu phối triển, và tiến tới hình thành Một Đối Lực Mạnh. Có Một Đối Lực Mạnh mới có thể tạo áp lực với Chế Độ Cộng Sản trong nước, với các Thế Lực Quốc Tế Hải Ngoại, và mới có thể thực hiện được sứ mệnh Cứu Quốc-Tồn Chủng.
  7. Trong tương quan TA, BẠN, THÙ, thì TA là tất cả những người Việt theo đuổi mục tiêu CỨU QUỐC, TỒN CHỦNG và THEO CAI THIỆN, CHỐNG CÁI ÁC. BẠN là bất cứ ai giúp ta thực hiện mục tiêu Cứu Quốc-Tồn Chủng và Phát Huy Cái Thiện. THÙ là bất cứ Ngọai Bang và tay sai nào vừa tàn ác, vừa muốn xâm lăng, đồng hóa và tiêu diệt dân tộc ta. Đối với nhà đương quyền hiện hữu, ai thực tâm chống Trung Cộng, ai hiền lương là bạn, ai làm tay sai cho Trung Cộng, ai ác với dân, là thù. Trong thời kỳ đang hình thành Đối Lực, ta không chủ trương bạo động và lật đổ chế độ Cộng Sản VN. Ở tình thế đặc biệt, nếu nhà nước đương quyền có chính sách chân thành cởi mở, ta sẵn sàng cùng họ Cứu Quốc-Kiến Quốc. Cứu Quốc-Kiến Quốc khi ấy tuy hai, mà có thể là một.

 

II. MẪU SỐ CHUNG:

Mẫu Số Chung của Cộng Sản, Không Cộng Sản hay Quốc Gia đều là CỨU QUỐC-TỒN CHỦNG.

 

III. TÌM PHƯƠNG ĐẾN VỚI NHAU:
A. TỔNG QUAN
  1. Muốn đến được với nhau phải Chấp Nhận Khác Biệt của nhau, phải Tương Nhượng, Thỏa Hiệp để hai bên, các bên đều có lợi.
  2. Khác Biệt giữa Cộng Sản và Không Cộng sản, giữa Quốc Gia và Quốc Gia là khác biệt về :

 a) Mục Tiêu Tối Thượng

 b) Nhu Cầu Tối Thiết,

 c) Chính Sách Phải Theo,

 d) Hành Động Đang Phải Làm,

 e) Hành Động Sẽ Phải Làm.

 

B. CỘNG SẢN:
  1. Mục Tiêu Tối Thượng Của Chế Độ Cộng Sản Đương Quyền tại Việt Nam là Cứu Quốc, Tồn Chủng, nhưng cố thực hiện chủ thuyết và chế độ cộng sản tại Việt Nam.
  2.  Nhu Cầu Tối Thiết của cộng sản là Duy trì, củng cố chế độ Độc Đảng Chuyên Chế bằng mọi gía và mọi thủ đoạn.
  3. Chính sách phải theo của CS là Tòan Trị và Tập Sản.
  4. Hành Động Phải Làm của CS là:
    1. Tuyệt đối Đàn áp mọi cá nhân, mọi tổ chức xét ra có nguy hại cho chế độ.
    2. Đi giây trước quốc tế để duy trì quyền lợi cá nhân và phe đảng.
    3.  Duy trì chế độ, phe đảng, và chấp nhận bị Trung Cộng đồng hóa.

C. QUỐC GIA , KHÔNG CỘNG SẢN:
  1. Mục Tiêu Tối Thượng Của các Thành Phần Dân Tộc Không Cộng Sản Trong và Ngoài nước Việt Nam là Cứu Quốc-Tồn Chủng theo chủ trương Lấy Người làm Cứu Cánh, Xây dựng một chế độ mới thực sự tự do, dân chủ, trên tinh hoa văn hóa Dân Tộc và tinh hoa Hiến Chế thế giới.
  2. Nhu Cầu Tối Thiết của Quốc Gia là: xây dựng một xã hội tân tiến, hiện đại cho Việt Nam trên mọi bình diện, kinh tế, giáo dục, y tế, an sinh, quốc phòng, để dân no ấm, hạnh phúc và bảo vệ được giang sơn, nòi giống.
  3. Chính Sách Phải Theo của Quốc Gia là Tự Do, Dân Chủ, Bình Đẳng, và tôn trọng quyền Tư Hữu.
  4. Hành Động phải Làm của Quốc Gia là
    1. Thay thế sự chuyên chế độc đảng của cộng sản tại Việt Nam;
    2.  Thiết lập một Hiến Pháp mới do Quốc Hội Lập Hiến soạn thảo.
    3. Tùy thời cơ và hoàn cảnh thực hiện các phương pháp đấu tranh qua Diễn Biến Hòa Bình; Kháng Chiến Cách Mạng; hay Bằng Cách MạngTổng Nổi Dậy.

Trứơc các khác biệt rộng lớn của hai phía Quốc Gia, Cộng Sản, có một giải pháp nào cho Viêt Nam? Tiếp tục không đội trời chung như từ trước đến nay, đàn áp, giết chóc? Thỏa hiệp cùng chung tìm một giải pháp thay đổi êm đềm cho Việt Nam? 

Quốc gia nếu muốn lật đổ cộng sản phải có lực lượng.

Hai bên nếu muốn theo DIỄN BIẾN HÒA BÌNH, thay đổi êm đềm, Cộng sản phải muốn tự cởi trói, quốc tế phải tạo điều kiện, và quốc gia phải khiêm nhường, kiên nhẫn.


D. QUỐC CỘNG KHÔNG ĐỘI TRỜI CHUNG
  1. Cộng sản tiếp tục toàn trị, độc ác, tàn nhẫn với mọi thành phần chống đối.
  2. Quốc gia phải có anh hùng, có lãnh đạo, có tổ chức, có lực lượng, có hậu thuẫn quốc nội và quốc tế, và quan trọng hơn cả là phải có hành động cụ thể. Có thể khởi đầu bằng mã tấu, dao găm.

E. CỘNG SẢN, KHÔNG CỘNG SẢN TÌM ĐẾN VỚI NHAU BẰNG CHUYỂN BIẾN HOÀ BÌNH
  1. Mục Tiêu Tối Thượng có thể Thỏa Hiệp Chung cho Cộng Sản và Không Cộng Sản là: Thực hiện mẫu số chung: Cứu Quốc-Tồn Chủng. CỨU QUỐC là Làm Dân Giầu, Nước Mạnh, Tòan Dân sống trong Hạnh Phúc. TỒN CHỦNG là Bảo Tòan Lãnh Thổ, Lãnh Hải, Văn Hóa, Phong Tục, và hưng thịnh nòi giống.
  2. Muốn Cứu Quốc-Tồn Chủng phải có sức mạnh của tòan dân, trong và ngoài nước.
  3. Muốn có sức mạnh của tòan dân, Đảng Cộng Sản phải chủ động, thành tâm hợp tác với các Thành Phần khác nhau của Dân Tộc. Các Thành Phần Dân Tộc, các Đảng, gác bỏ hận thù, cùng phải đến với nhau, chấp nhận nhau khác biệt, và cùng nhau hợp tác trong một chế độ cởi mở như các quốc gia Đông Âu.
  4. Các Thành Phần Dân Tộc đều chung sức Làm Dân Giầu, Nước Mạnh.
  5. Các thành phần dân tộc phải kết hợp thành MỘT ĐỐI LỰC MẠNH, tạm chấp thuận nhà cầm quyền hiện hữu. Nhà cầm quyền hiện hữu chấp nhận sự hiện hữu của các lực lượng đối lập xây dựng.
  6. Từ Mẫu Số Chung các thành phần dân tộc đi tìm Những Tương Đồng Cục Bộ trong Đối Lực và giữa Đối Lực với nhà cầm quyền cộng sản.
  7. Trong khi cùng hợp tác làm những chương trình cục bộ, trong mục tiêu Cứu Quốc-Tồn Chủng, các bên sẽ cùng nhau vận động Quốc Tế, mở Hội Nghị, Tìm Một Giải Pháp Thích Hợp Cho Việt Nam.
  8. Có một Hiến Pháp mới.
  9. Có Tự Do Ứng Cử và Tự Do Bầu Cử: Đảng Mạnh, Được Dân Bầu Chọn sẽ cầm quyền. Đảng yếu sẽ đóng vai Liên Hợp hay Đối Lập.

F. QUỐC GIA VÀ QUỐC GIA.
  1. Từ các Khác Biệt, Đi tìm Mẫu Số Chung
  2. Từ Mẫu Số Chung đi tìm Những Tương Đồng Cục Bộ.
  3. Từ Tương Đồng Cục Bộ, hình thành các Khối: Cương, Nhu, Cương Nhu Phối Triển. Từ Các Khối hình thành Sự Đồng Bộ, với Cơ Cầu và Kế Hoạch, Chương Trình Hành Động của mỗi Khối.
  4. Từ Các Khối quy về Mẫu Số Chung thành Đối Lực.
  5. Từ Đối Lực thành Hợp Tác hay Chống đối với Nhà Đương Quyền tại Việt Nam.

G. Sau đây là phần cơ bản của DỰ ÁN. Dự án DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI KHÔNG CỘNG SẢN, hình thành MỘT ĐỐI LỰC MẠNH. Những thành phần không cộng sản liên hợp với nhau, chấp nhận nhau khác biệt, ưu điểm và nhược điểm, phương pháp đấu tranh CƯƠNG hay NHU hay CƯƠNG NHU PHỐI TRIỂN. Kỹ thuật hình thành một Đối Lực Mạnh là cách Tổ Chức, Sinh Hoạt và Điều Hành, và phải có Lý Tưởng hay hơn lý tưởng của Kark Marx. Chúng tôi xin trình bầy Kỹ Thuật Hình Thành Đối Lực ở Phần I, và ở phần II sơ phác Lý Tưởng Đấu Tranh, y cứ trên tư tưởng truyền thống Việt cùng một ít tinh hoa của thời đại.

DỰ ÁN CÓ HAI PHẦN:

PHẤN I: HÌNH THÀNH MỘT ĐỐI LỰC

PHẦN II: NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG VÀ NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC



PHẤN I: HÌNH THÀNH MỘT ĐỐI LỰC:


I. ĐÈ NGHỊ MỘT PHƯƠNG THỨC HÌNH THÀNH ĐỐI LỰC:


A. ĐỐI LỰC LÀ MỘT HỢP LỰC CỦA CÁC TỔ CHỨC CƯƠNG, NHU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC; CÓ THỂ MANG DANH MỘT TRONG CÁC TÊN SAU:
  • LIÊN MINH DÂN TỘC VIỆT NAM
  • LIÊN HỢP CÁC THÀNH PHẦN DÂN TỘC
  • HỘI ĐỒNG CÁCH MẠNG CỨU QUỐC
  • HỘI ĐỒNG ĐÒAN KẾT DÂN TỘC
B. MỤC TIÊU:
  • TÌM MỌI PHƯƠNG THỨC CÙNG HÀNH ĐỘNG, ĐỂ ĐẠT MỤC TIÊU: " CỨU NƯỚC- GIỮ NÒI"
  • CÓ NHỮNG KẾ HOẠCH, CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ LÀM "DÂN GIẦU, NƯỚC MẠNH."
  • TIẾN TỚI MỘT CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ DÂN CHỦ PHÂN QUYỀN, ĐA NGUYÊN. LẤY DÂN TỘC LÀM CĂN BẢN, LẤY CON NGƯỜI LÀM CỨU CÁNH, TÔN TRỌNG NHÂN QUYỀN VÀ DÂN QUYỀN..
  • CẦM QUỲỀN THEO SỰ CHỌN LỰA TỰ DO CỦA ĐA SỐ DÂN CHÚNG.
  • TRONG GIAI ĐOẠN CỨU QUỐC, HÌNH THÀNH MỘT ĐỐI LỰC MẠNH BAO GỒM CẢ CƯƠNG LẪN NHU, CÙNG PHÂN CÔNG HOẠT ĐỘNG TRONG HỖ TƯƠNG ĐỂ ĐẠT MỤC TIÊU.
  • NẾU CỘNG SẢN MUỐN TỰ THAY ĐỔI, CHÂN THÀNH CẦN SỰ HỢP TÁC CỦA ĐỐI LỰC THÌ ĐỐI LỰC CÓ THỂ TRỞ THÀNH ĐỐI LẬP XÂY DỰNG TRONG HỖ TƯƠNG, BẤT BẠO ĐỘNG, VỚI NHÀ ĐƯƠNG QUYỀN, TRÊN QUYỀN LỢI TỐI THƯỢNG CỦA DÂN TỘC.

C. BAN VẬN ĐỘNG:
  • Phương pháp theo Đồng Thuận, tiến từ ít đến nhiều, thành nhiều vòng thăng hóa.
  • Ban Vận Động gồm một số Nhân Sĩ Độc Lập, hay Cá Nhân Thành Viên các Tổ Chức, tự thấy có nhu cầu hình thành một Hợp Lực để sớm Giải Quyết vấn đề chính trị của Việt Nam.
  • Ban Vận Động có nhiệm vụ tiếp xúc với các Đoàn Thể, Nhân Sĩ để hình thành một Hợp Lực.
  • Khởi đầu, Ban Vận Động chia làm hai khối:
- Một Khối vận động những tổ chức quyết Lật Đổ Cộng Sản
- Một Khối Vận Động những tổ chức theo Phương Thức Diễn Biến Hòa Bình
- Sau HAI KHỐI hợp Thành MỘT ĐỐI LỰC, Cương Nhu Hỗ Tương Phối Triển để đạt Mục Tiêu Cứu Quốc-Tồn Chủng.
  • Ban Vận Động triệu tập các phiên họp để tiến tới Đại Hội.
  • Ban Vận Động đương nhiên giải tán khi Đại Hội họp để hình thành các Cơ Cấu của Đối Lực.
(XEM PHỤ BẢN DANH SÁCH CÁC TỔ CHỨC, CÁC NHÂN SĨ TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC CẦN VẬN ĐỘNG)
(XEM PHỤ BẢN DANH SÁCH CÁC CƠ QUAN TRUYỀN THÔNG VIỆT NAM VÀ QUỐC TẾ CẦN VẬN ĐỘNG)
(XEM PHỤ BẢN DANH SANH CÁC CƠ QUAN CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ CẦN VẬN ĐỘNG)

D. THÀNH PHẦN CỦA LIÊN MINH:
  • Các đơn vị trong Liên Minh là các tổ chức tôn giáo, chính trị, văn hóa, xã hội, cộng đồng, có Uy Tín, Thành Tích, hay Thực Lực từ 100 hội viên trở lên, được kiểm chứng.
  • Mỗi đơn vị tự chọn 3 Đại Diện để tham dự Liên Minh.
  • Các Nhân Sĩ có Uy Tín, Kiến Thức, Kinh nghiệm đấu tranh do Ban Vận Động thỉnh mời, được đa số Đại Biểu hiện diện trong Đại Hội chấp thuận

E. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA LIÊN MINH
Có Sáu Cơ Cấu:
  • Hội Đồng Đại Diện
  • Hội Đồng Lãnh Đạo
  • Hội Đồng Điều Hợp hay Hội Đồng Chấp Hành.
  • Hội Đồng Giám Sát và Kỷ Luật.
  • Hội Đồng Yểm Trợ Tài Chánh.
  • Hội Đồng Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do.

1. HỘI ĐỒNG ĐẠI DIỆN:
  • Nhiệm Vụ:
a. Là Đại Hội Đổng,
b. Ban hành, thảo duyệt các chính sách, dường lối, kế hoạch của Liên Minh.
c. Biểu quyết theo đa số chấp nhận, hay bãi nhiệm nhân sự của Liên Minh.
d. Trong khi tham gia Liên Minh, Đơn Vị tự giữ sự Độc Lập trong mọi sinh hoạt của Đơn Vị.
  • Thành Phần:
a. Mỗi Đơn Vị trong Liên Minh, có 3 Đại Diện tự chọn, trong Đại Hội Đồng.
b. Đại Diện của Đơn Vị có quyền tham gia mọi chức vụ trong các cơ cấu của Liên Minh.
  • Điều Hành
a. Đại Hội Điều hành theo Điều Lệ của Liên Minh.
b. Sự Độc Lập của Đơn Vị trong Liên Minh, sẽ không nghịch lại với Mục Tiêu, Chính Sách, Đường Lối của Liên Minh. Các phương thức đấu tranh Cương, Nhu có thể khác biệt, nhưng đều nhằm hỗ tương với Liên Minh trên con đường "Cứu Quốc-Tồn Chủng."


2. HỘI ĐỒNG LÃNH ĐẠO
  • Nhiệm Vụ:
a. Dự Thảo Đề Nghị Chính Sách, Đường Lối lên Đại Hội Đồng.
b. Ban Hành Kế Hoạch Hành Động
c. Bổ Túc, Hiệu Chỉnh các Chương Trỉnh Hành Động của Ban Điều Hợp.
d. Triệu tập các phiên họp Thường Trực hay Bất Thường của Đại Hội.
  • Thành Phần Hội Đồng Lãnh Đạo :
a. Khỏang từ 21 đến 25 người không hạn tuổi.
b. Là Thành Viên Chính Thức của Liên Minh
c. Tự Ứng Cử hay được Đề Cử
d. Được Đại Hội bầu chọn, thứ tự theo số phiếu cao hơn cả.
e. Tiêu chuẩn có thể được bầu chọn là giữ bản lãnh NGŨ ĐỨC
 1) Nhân Ái, Độ Lượng với mọi người.
 2) Đủ Trí và Dũng trong hành động.
 3) Trung Kiên với Tổ Chức và Dân Tộc.
 4) Quang Minh Chính Đại trong Việc Làm và Tài Chánh Liên Hệ.
 5) Vô Vị Lợi Trong và sau Cách Mạng: Không nhận bất cứ chức vụ nào ở đâu ngoài Hội Đồng Lãnh Đạo.
f. Tuyên Thệ trước Đại Hội với Quốc Dân quyết giữ Ngũ Đức.
  • Điều Hành:
a. Đại Hội Điều hành theo Điều Lệ của Liên Minh.
b. Sinh hoạt theo Nội Quy riêng theo tinh thần Điều Lệ của Liên Minh.

3. Hội Đồng Điều Hợp hay Hội Đồng Chấp Hành.
  • Nhiệm Vụ:
a. Linh động thực hiện Mục Tiêu, Chính Sách, Đường Lối, Kế Hoạch của Liên Minh.
b. Điều hợp Mục Tiêu, Chính Sách, Đường Lối, Kế Hoạch của Liên Minh cho phù hợp với Mục Tiêu, Chính Sách, Đường Lối, Kế Hoạch, Chương trình Hành Động cuả Các Thành Phần trong Liên Minh.
c. Thảo duyệt các kế hoạch và Chương Trình Hành Động của Liên Minh.
d. Có Sáng Kiến Chấp Hành bằng Lập Quy, để thực hiện, Chính Sách, Đường Lối, Kế Hoạch của Liên Minh. Các Lập Quy tự sáng tạo Kế Hoạch hay Chương Trình Hành Động Đặc Biệt, nội trong mười (10) ngày, phải báo cáo bằng văn bản, với những giải thích thích đáng, đến văn phòng Chủ Tịch Hội Đồng Lãnh Đạo.
e. Thiết lập và Quản trị Ngân Sách của Liên Minh.
f. Thiết lập Cơ Cấu Tổ Chức của Liên Minh.
g. Bổ nhiệm, diều hành, bãi nhiệm nhân sự thuộc các cơ cấu của Liên Minh.
h. Chịu sự giám sát trong mọi hành động, gián tiếp của nhân dân của Đại Hội Đồng, và trực tiếp của Hội Đồng Lãnh Đạo và Hội Đồng Giám Sát.
i. Tuyệt đối tuân theo kỷ luật do Hội Đồng Kỷ Luật ban hành.
  • Cơ Câú Tổ Chức của Hội Đồng Chấp Hành.
a. Ban Chấp Hành của Hội Đồng Chấp Hành,
b. Các Khối tùy theo nhu cầu:
  • Khối Chủ Lực:
Gồm các thành phần năng động nhất do các tổ chức thành viên của Liên Minh cung ứng
  • khối Vận Động thành lập Hội Đồng Truyền thông
  • Khối Liên Lạc Các Tổ Chức Quốc Nội:
- Phân Bộ Liên Lạc các Tôn Giáo
- Phân Bộ Liên Lạc Các Nhà Đấu Tranh Dân Chủ.
- Phân Bộ Liên Lạc Các Dân Oan
- Phân Bội Liên Lạc với Nhà Cầm Quyền
- Phân Bộ Liên Lạc với Các Cán Bộ CS CấpTiến
  • Khối Liên Lạc Các Tổ Chức Hải Ngoại:
- Phân Bộ Liên Lạc các Tổ Chức tại Hoa Kỳ
- phân Bộ Liên Lạc các Tổ chức tại Âu Châu
- Phân Bộ Liên Lạc các tổ chức tại Úc Châu
- Phân Bộ Liên Lạc với các tổ chức tại Á Châu
  • Khối Liên Lạc Quốc tế
- Phân Bộ Liên Lạc các chức quyền Hành Pháp, Lập Pháp,Tư Nhân Uy Lực tại Hoa Kỳ.
- Phân Bộ Liên Lạc các chức quyền Hành Pháp, Lập Pháp,Tư Nhân Uy Lực tại Âu Châu.
- Phân Bộ Liên Lạc các chức quyền Hành Pháp, Lập PhápTư Nhân Uy Lực tại Úc Châu.
- Phân Bộ Liên Lạc các chức quyền Hành Pháp, Lập Pháp,Tư Nhân Uy Lực tại Á Châu.
- Phân Bộ Liên Lạc các chức quyền Hành Pháp, Lập Pháp,Tư Nhân Uy Lực tại Phi Châu
 Các Phân Bộ khác.
  • khối Vận Động thành lập Hội Đồng Yểm Trợ Tài Chánh
  • khối Vận Động thành lập Hội Đồng Quốc Tế Yêm Trợ Việt Nam Tự Do
  • Các Tổ Chức Chuyên Biệt.
- Tổ Chức Điều Hợp các Thành Phần Chiến Đấu Cương.
- Tổ Chức Điều Hợp các Thành Phần Chiến Đấu Nhu
- Tổ Chức Điều Hợp các Thành Phần Xây dựng Tân Hiến Pháp.
- Tổ Chức Điều Hợp các Thành Phần Xây Dựng Tân Luật Pháp
- Tổ Chức Điều Hợp các Thành Phần Kiến Thiết KinhTế, Tài Chánh
- Tổ Chức Điều Hợp các Thành Phần Xây Dựng Tân Văn Hóa Giáo Dục.
- Tổ Chức Điều Hợp các Thành Phần Xây Dựng Tân Chính Sách Xã Hội, Y tế
  • Thành Phần Hội Đồng Chấp Hành:
a. Hội Đồng Chấp Hành gồm Một Chủ Tịch, Hai Phó Chủ Tịch, một Tổng Thư Ký, Một Phó Tổng Thư Ký, một Thủ Qũy, các Trưởng Khối và các Ủy Viên.
  • Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành là một trong các Ủy Viên của Hội Đồng Lãnh Đạo, do Hội Đồng Lãnh Đạo suy cử theo đa số tuyệt đối 2/3, và được Đại Hội Đồng chấp thuận theo đa số tương đối qúa bán.
  • Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành thành lập Ban Chấp Hành của Liên Minh.
  • Chủ Tịch Hội Dồng Chấp Hành diều khiển các cơ cấu của Hội Đồng Chấp Hành, bổ nhiệm, bãi nhiệm nhân sự, để thực hiện Mục Tiêu, Chính Sách, Đường Lối, Kế Hoạch, Chương trình Hành Động của Liên Minh. 
  • Các Sáng Kiến đặc biệt, và các du di linh động trong kế hoạch và chương trình hành động, phải do chính Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành quyết định.
  • Các khoản chi phải có hai chữ ký, một của Chủ Tịch HĐCH và một của Thủ Quy.
b. Các Trưởng Khối điều khiển các Khối Chuyên Môn.
c. Các Tổ Chức Chuyên Biệt thiết lập và thi hành các Chương Trình Đặc Biệt trong Quốc Nộì hay tại các Qúôc Gia Hải Ngoại của Hội Đồng Chấp Hành.
d. (Chúng tôi có thẻ đóng góp kế hoạch và chương trình kiến thiết Việt Nam, ý tưởng độc đáo đã viết ra phần nào trong hai cuốn "TÂM MINH BÚT", TÁC GIẢ ĐIỀN VIÊN HOÀNG VĂN MINH, VÀ TRONG CƯƠNG LẴNH CỦA ĐẢNG DÂN TỘC VIỆT NAM)
  • Điều Hành
a. Hội Điều Chấp Hành điều hành theo Điều Lệ của Liên Minh.
b. Sinh hoạt theo Nội Quy riêng do Ban Hội Đồng Diều Hành thiết lập theo tinh thần Điều Lệ của Liên Minh.

4. HỘI ĐỒNG GIÁM SÁT VÀ KỶ LUẬT
  •  Nhiệm Vụ
a. Tích cực tìm những ưu điểm của các tổ chức, những tương đồng trong Liên Minh, để truyền bá cho nhau và hỗ trợ nhau.
b. Tích cực giảm thiểu các mâu thuẫn và tìm các hoá giải những hiểu lầm, để củng cố tình đòan kết giữa các tổ chức và các thành viên trong Liên Minh.
c. Phát huy và tưởng thưởng đúng mức, kịp thời những ưu điểm của cán bộ để cổ võ tinh thần tích cực phấn đấu chung.
d. Tìm những sai sót để kịp thời chấn chỉnh, sửa chữa
e. Giám sát các khoản thâu, chi của Liên Minh
f. Tự giám sát và giám sát các hành vi của các vị trong Hội Đồng Lãnh Đạo, Hội Đồng Chấp Hành, và các nhân viên trong các cơ cấu của Liên Minh.
g. Giám sát việc thi hành và định giá các kế hoạch, chương trình hành động của Liên Minh.
h. Đề nghị lên Hội Đồng Lãnh Đạo các biện pháp cần bổ túc, về từng vấn đề thuộc Liên Minh.
i. Căn cứ theo Điều Lệ của Liên Minh, trong tinh thần xây dựng, xét xử và quyết định các Biện pháp kỷ luật với các nhân sự mà đa số các ủy viên trong Hội Đồng Kỳ Luật và Hội Đồng Lãnh Đạo xin truy xét.
  • Thành Viên
a. Hội Đồng Giám Sát và Kỳ Luật từ 9 đến 12 vị, gồm một Chủ Tịch, một Phó Chủ Tịch, một Tổng Thư Ký và 6 ủy viên.
b. Do Đại Hội Đồng công khai bầu chọn trong số các vị tự ứng cử hay được đề cử mà không từ chối. Ưu tiên nên dành cho Đại Diện các tổ chức Tôn Giáo, Chính Trị có thực lực hay uy thế.
c. 9 đến 12 vị có số phiếu cao nhất đắc cử. Vị có số phiếu cao nhất là Chủ Tịch. Vị có số phiếu cao thứ hai là Phó Chủ Tịch. Vị có số phiếu cao thứ ba, là Tổng Thư Ký. Các vị còn lại đều là Ủy Viên.
d. Nhiêm kỳ không giới hạn.
e. Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát-Kỷ Luật bổ nhiệm, điều khiển và bãi nhiệm, các nhân viên, thuộc HĐGS-KL trong các cơ cấu của Liên Minh.
  • Tổ Chức:
a. Hội Đồng Giám Sát- Kỷ Luật có một văn phòng Trung Ương
b. Nhiều văn phòng Đại Diện ở các Địa Phương.
c. Có hai hệ thống, một công khai, một bí mật.
  • Điều Hành
a. Đại Hội Điều hành theo Điều Lệ của Liên Minh.
b. Sinh hoạt theo Nội Quy riêng theo tinh thần Điều Lệ của Liên Minh.

5. HỘI ĐỒNG YỂM TRỢ TÀI CHÁNH

a. Hội Đồng Yểm Trợ Tài Chánh có nhiệm vụ làm ra tài chánh để yểm trợ cho các chương trình công tác Cứu Quốc- Tồn Chủng của Liên Minh.
b. Hội Đồng Yểm Trợ Tài Chánh do Ban Vận Động Liên Minh thành lập, và tự nguyện giữ vai trò thư ký cho Hội Đồng.
c. Khi có trên 12 vị tham gia, các thành viên trong Hội Đồng :
- Tự bầu Chủ Tịch, Phó Chủ Tịch, Tổng Thư Ký, Thủ Qũy;
- Tự xin giấy phép thành lập Cơ Quan Bất Vụ Lợi để trừ thuế;
- Tự thiết lập các cơ cấu và thủ tục điều hành.
d. Nếu có thể được thì một Ủy Viên Hội Đồng Lãnh Đạo của Liên Minh sẽ tình nguyện giữ vai trò Tổng Thư Ký cho Hội Đồng.

6. HỘI ĐỒNG QUỐC TẾ YỂM TRỢ VIỆT NAM TỰ DO

a. Hội Đồng Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do có nhiệm vụ vận động Quốc Tế cho các chương trình, công tác Cứu Quốc -Tồn Chủng của Liên Minh.
b. Hội Đồng Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do do Ban Vận Đông thành lập.
c. Khởi đầu tìm tới những vị trong:
 -"The Committee For a Free Việt Nam" hay "Hội Đồng Cho Một Việt Nam TỰ Do" TS Lê Phước Sang.
 - "The International Comittee For a Free VietNam" Cố Gíao Sư Nguyễn Ngọc Huy.
 - Những thành viên Quốc Tế của Phong Trào Nhân Bản mà Bác Sĩ Nguyễn Quốc Quân quen biết.
 - Những thành viên Quốc Tế Yểm Trợ "The National Congress" của Ông Bùi Diễm.
 - Những thành viên Quốc Tế Yểm Trợ Đảng Việt Tân
 - Những thành viên Quốc Tế Yểm Trơ Ông Nguyễn Hữu Chánh.
 - Những thành viên Quốc Tế tại các Quốc Gia mà các Nhân Sĩ Việt Nam quen biết.
d. Ban Vận Động tiếp xúc các vị trên.
e. Ban Vận Động mời các vị trên đến với nhau.
f. Các Vị Trên tự thành lập Hội Đồng Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do, tự bầu ban Lãnh Đạo, thiết lập Cơ Cấu và thủ tục Diều Hành.
e. Nếu có thể được thì một Ủy Viên Hội Đồng Lãnh Đạo của Liên Minh sẽ tình nguyện giữ vai trò Tổng Thư Ký cho Hội Đồng.

II. THỜI ĐIỂM:

A. HỢP LỰC HẢI NGOẠI:
1. Thời điểm để hình thành Hợp Lực Hải Ngoại là cuối năm 2014.
2. Ra mắt Hợp Lực Hải Ngoại vào Mùa Hoa Đào Nở 2015 tại Thủ Đô Hoa Thịnh.
3. Giới thiệu đại Diện trong nước có thể đến tham dự.
4. Giới thiệu Ban Chấp Hành của 6 cơ cấu của Đối Lực.

B. HỢP LỰC QUỐC NỘI
1. Thời điểm để hình thành Hợp Lực Quốc Nội là cuối năm 2014, qua Internet.
2. Ra mắt Hợp Lực Quốc Nội qua Internet vào Mùa Lễ Giỗ Đức Quốc Tổ Hùng Vương 2015, và quảng bá trong dịp ra mắt Hợp Lực Hải Ngoại tại Hoa Thịnh Đốn 2015.

C. ĐỐI LỰC:
1. Họp Hợp Lực Hải Ngoại và Hợp Lực Quốc Nội tại một Hải Đảo gần Guam hay tại một nước trong Đông Nam Á trong năm 2015.
2. Hình Thành Đối Lực trong năm 2015.
3. Công bố và ra mắt Đối Lực tại NewYork vùng có trụ sở của Lìên Hiệp Quốc trong năm 2015.

D. ĐỐI LỰC HÀNH ĐỘNG:
1. Đối lực công bố chính sách và chương trình hành động trước Quốc Tế cuối năm 2015.
2. Đối Lực tiến hành các chương trình hành động vào mùa xuân 2016.


PHẦN II: NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG VÀ NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC

A. MỞ ĐẦU:
Liên Minh là Một Liên Hợp các Tổ Chức, các thành phần cơ bản của Dân Tộc; tập hợp một cách hệ thống, những người có chung Một Lý Tưởng, Một Lập Trường Tranh Đấu, thành MỘT ĐỐI LỰC với Sứ Mệnh theo đuổi Mục Đích Tối Thượng là CỨU QUỐC-KIẾN QUỐC- TỒN CHỦNG hay Cứu Nước-Xây Dựng Đất Nước và Giữ Nòi.

CỨU QUỐC LÀ BẢO TOÀN LÃNH THỔ, LÃNH HẢI, CHỐNG LẠI SỰ XÂM LƯỢC VÀ ÂM MƯU ĐỒNG HÓA CỦA TRUNG CỘNG.
KIẾN QUỐC LÀ LÀM DÂN GIẦU, NƯỚC MẠNH, MỌI NGƯỜI VIỆT CÙNG ĐƯỢC HƯỞNG TỰ DO, HẠNH PHÚC
TỒN CHỦNG LÀ CƯỜNG DÂN LỰC, NUÔI DÂN TRÍ, DƯỠNG DÂN KHÍ, BẢO VỆ DÂN VĂN, PHÁT HUY VĂN HIẾN, ĐỂ NÒI GIỐNG VIỆT KHÔNG THỂ BỊ TIÊU DIỆT


Khi đã hình thành MỘT ĐỐI LỰC, Liên Minh, với mẫu số chung đã cùng nhau thỏa thuận, sẽ công bố Chủ Trưong chung. ( Thí dụ: cùng nhau tập trung sức, giúp các nhà đấu tranh trẻ ở trong và ngoài nước thành một LỰC LÕI của cả Liên MInh). Từ mẫu số chung, hình thành các Chính Sách, Đường Lối của Liên Minh. Rồi phân công ứng dụng thích hợp cho mỗi tổ chức theo mỗi đối tượng công tác. CƯƠNG, NHU, hay CƯƠNG NHU PHỐI TRIỂN mỗi tổ chức hướng theo MẪU SỐ CHUNG, có những Kế Hoạch, Chương Trình Hành Động riêng, Thực Tiễn, Khả Thi, theo mỗi Giai Đoạn Phù Hợp với Không Thời Gian trong giai đoạn đó. Tất cả các chương trình hành động riêng của mỗi tổ chức đều thi hành chính sách chung của Liên Minh, hầu đạt đựợc Mục Tiêu CỨU QUỐC-TỒN CHỦNG
.
Liên Minh lấy Dân Tộc làm căn bản, lấy Con Người làm cứu cánh, với mục tiêu tối thượng CỨU QUỐC-TỒN CHỦNG và xây dựng cho Việt nam một chế độ thực sự Tự Do, Dân Chủ, Nhân Chủ; kiến thiết một xã hội tân tiến, theo kinh tế thị trường, ấm no, thịnh vượng mọi mặt, trong đó giá trị làm Người phải được tuyệt đối tôn trọng. y cứ theo các giá trị trưyền thống Nhân Bản của Tổ Tiên và các giá trị văn hoá, văn minh nhân loại thời đại.
Sứ mạng đầu tiên của mọi người Việt là Cứu Quốc. Quốc Gia Việt Nam đang lâm nguy, vì bị giặc Nội Xâm tàn độc thống trị và bị Trung Cộng đang tiệm tiến xâm lăng, đồng hóa. Các Tổ Chức phải tỉm ra MẪU SỐ CHUNG, qua hành động, hóa gỉải giặc Nội Xâm và âm mưu đồng hóa của Trung Cộng.

Sứ mạng thứ hai là Kiến Quốc. Chế độ đương nhiệm đã và đang thất bại trên mọi lãnh vực văn hoá, giáo dục, quân sự, kinh tế, y tế, xã hội, khiến dân tộc nghèo hèn và đồng bào đói khổ. Các Tổ Chức hợp các chuyên viên, chung tìm một chương trình kiến thiết, quy mô suốt mặt, từng bước, có thể đưa đồng bào đến ấm no, hạnh phúc trong vòng một năm và đưa đất nước phú cường, sánh bước với năm châu trong một thời gian không lâu sau đó. Các Tổ Chức cũng chung nhau hình thành sẵn sàng vài ba Chương Trình (Projects) kinh tế, văn hóa, xã hội, từ thiện...cụ thể để có thể áp dụng ngay trong nước bất cứ khi nào có cơ hội.

Sứ mạng thứ ba là Tồn Chủng. Dân Việt trong nước đang bị chết dần mòn dưới nhiều hình thái. Môi trường bị ô nhiễm. Thức ăn, nước uống bị tẩm chất độc. Nghèo đói, hàng ngày không đủ chất dinh dưỡng. Bệnh hoạn không được chữa trị. Trẻ không được đi học. Lớn, xã hội băng hoại. Dân trí bị soi mòn. Dân tâm bị vật hóa. Dân khí thì tê liệt, hèn mọn. Trung Cộng lại tìm mọi cách tiêu diệt bằng chất độc, tàn phá bằng kinh tế, đồng hóa bằng văn học. Chẳng bao lâu Dân Việt sẽ không còn. Các Tổ chức trong Liên Minh hãy cùng nhau tìm một LỐI NHÌN CHUNG (a common vision) cho tương lai Việt, và soạn sẵn các chương trình để Củng cố Dân Lực, Nâng Dân Trí, Dưỡng Dân Khí, Phát Huy Dân Văn, Phục Hoạt Văn Hiến để Dân Việt cường mạnh cả tinh thần lẫn thể chất, không bao giờ có thể bị ngoại bang xâm lăng, đồng hóa, tiêu diệt.

SỨ MẠNG KHẨN THIẾT CỦA CHÚNG TA LÀ PHẢI CỨU NƯỚC, GIỮ NÒI.

Hiện nay, nhà Đương quyền thì "HÈN VỚI GIẶC, ÁC VỚI DÂN

Chúng ta thì rất tích cực phân tách, phê bình, chỉ trích những nhược điểm, những ác độc của nhà Đương Quyền tại Việt Nam. Mỗi tổ chức, mỗi cá nhân đang họat động hữu hiệu theo chương trình của riêng mình. Phần lớn chúng ta NÓI nhiều hờn LÀM. Nếu chúng ta có LÀM, thì việc LÀM đó nặng phần PHẢN KHÁNG và có tính cách CỤC BỘ. Chúng ta chưa có VIỆC LẢM ĐẠI QUY MÔ, TẬP THỂ, TÍCH CỰC TÁC ĐỘNG ĐƯƠC VÀO TÌNH THẾ CỦA VIỆT NAM.

ĐÃ ĐÊN LÚC chúng ta phải LÀM NHIỀU HƠN NÓI, PHẢI TÍCH CỰC LÀM.

Muốn LÀM cho hiệu qủa, chúng ta phải HỢP LỰC và hình thành MỘT ĐỐI LỰC MẠNH ĐỂ ĐẤU TRANH

Hình thành được MỘT ĐỐI LỰC, thì chúng ta có thể tùy tính thế mà CƯƠNG, NHU hay CƯƠNG NHU PHỐI TRIỂN, hay HỢP TÁC ĐỂ CHUYỂN ĐỔI, để đạt mục tiêu CỨU QUỐC-TỒN CHỦNG. 

Trong đấu tranh, chúng ta vừa theo đuổi, thực hiện lý tưởng, vừa có chính sách thực tiễn, vừa phải tổ chức có khoa học để bảo đảm thắng lợi.

Lý Tưởng ta theo đuổi phải thật Cao Đẹp, Nhân Ái mà đa số mong ước và Phương Pháp Tổ Chức phải Khoa Học Hữu Hiệu để có thể tranh đấu thành công.

Trong hiện trạng qúa nhiều khác biệt và nghi ngờ, đố kỵ, đến với nhau thành một Hợp Lực cũng khó ngang với lấp Biển vá trời. Nhưng đó là việc KHÔNG LÀM KHÔNG ĐƯỢC, nếu muốn thay dổi được thực trạng Việt Nam.

Chúng ta đừng mong CỘNG SẢN SẼ TỰ ĐỔ hay TỰ THAY ĐỔI
Chúng ta cũng đừng mong HOA KỲ hay QUỐC TỀ sẽ làm Việt Nam thay đổi.
Muốn Việt Nam thay đổi, CHÚNG TA PHẢI TỰ LÀM LẤY.
Muốn Tự Làm lấy, chúng ta phải biết HỢP LỰC, tiến tới MỘT ĐỐI LỰC, phải
biết tinh khôn, dung nhau và kiên nhẫn.
Có Lực, chúng ta sẽ vận động được Quốc Tế, và thuận với quốc tế để tạo THẾ.
Có LỰC, có THẾ, chúng ta sẽ cứu được nước, và hưng thịnh đất nước mà bảo vệ giống nòi.

I. LÝ TƯỞNG, LẬP TRƯỜNG, MỤC ĐÍCH, CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH, ĐUỜNG LỐI, KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG CỦA ĐỐI LỰC.

A. Dân Tộc Việt có một nền tư tưởng cổ truyền rất cao sâu, thực tiễn, khởi đầu từ Đức Thần Nông, người lập ra văn minh nông nghiệp, với Hà đồ, Lạc Thư, vạn vật không ngừng biến đổi, trong âm có dương, trong dương có âm, dương cực, thì sanh âm, âm cực thì sanh dương; tiếp theo, từ Đức lạc Long Quân, và các Đời Vua Hùng, với các Huyền Thọai, ca dao, tục ngữ, phong tục, tập quán, ý nghĩa gói ghém ẩn tàng, và thể hiện trong nếp sống thực tiễn của tòan dân, truyền lưu như sóng đáy qua các thế hệ, rất là độc đáo, cao sâu, nhưng ít ai giải trình căn kẽ.. Đến khi phục quốc, các Triều Đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, ngòai công trình Tổng Hợp TAM GIÁO, NGŨ GÍAO ĐỒNG NGUYÊN, còn bao nhiêu sáng tạo chữ viết, văn học, kỹ thuật, TẬP ĐẠI THÀNH CỔ, KIM, tạo nên nền văn minh vững chắc cho Dân Tộc Việt. Về tư tưởng chính trị cận đại, có nhiều hệ thống, mà ba hệ thống chính Duy Dân, Sinh Tồn, Nhân Vị, tự nó đã vượt qua Kark Marx rất xa.

Tính Nhân Ái của Người Việt là Đạo Làm Người, lấy Thương Yêu, đùm bọc làm nền tảng trong Đạo Tự Thân, Đạo Cha Con, Đạo Vợ Chồng, Đạo Anh Em, Đạo Thầy Trò, Đạo Bằng Hữu, và với tất cả là Đạo Làm Ngươi. Sụ độc đáo của Văn Minh Việt là LẤY NGƯỜI LÀM TRỤC, (Bánh Dầy, Bánh Chưng) hòa hợp cùng TRỜI, ĐẤT, cầm nắm được cái trục NHỊ NGUYÊN MÂU THUẪN, (Lưỡng Nguyên Tiên, Rồng- Gậy Thần, Sách Ước) HÓA GỈAI CÁC CỰC ĐOAN, ĐIỀU KHIỂN ĐƯỢC SỰ SỐNG CỦA MÌNH VÀ CỦA TẬP THỂ, VẬN DỤNG ĐƯỢC CÁC KHÁC BIỆT, TÌM MẪU SỐ CHUNG, TẬP ĐẠI THÀNH, (Tam Gíao Đồng Nguyên) TRÁNH THẢM HỌA MÂU THUẪN, VÀ XÂY DỰNG ĐƯỢC XÃ HỘI HÒA ÁI (Hình khắc trên Trống Đồng)
 
Sự thăng hóa ĐIỂN MẪU của Dân tộc VN tượng trưng bằng Hình Xoáy Ốc của Loa Thành, đi lên tương lai vô cùng trong Sinh Động Mở Tổng Hợp và trở về qúa khứ tận gốc trong gíó đáy của Tinh Hoa Truyền Thống Việt từ khởi thủy, uyên nguyên. Văn Minh Việt theo tinh thần Tổng Hợp là tiến lên vô cùng, dung hóa hết tinh hoa thế giới, trở về (phản phục) kết tinh với tinh hoa truyền thống, không bao giờ mất gốc.
 
LÝ TƯỞNG của Đối Lực là xây dựng một Văn Minh Mới theo Chủ Đạo Nhân Ái cho Dân Tộc Việt. Văn minh mới tổng Hợp các di chỉ đặc thù Văn Hoá Truyền Thống với các nền văn minh khoa học tân tiến TOÀN CẦU THỜI ĐẠI, làm nền cho nước Việt Nam Trường Cửu Thăng Hoá mãi mãi đến các đời sau, giúp Dân Tộc Việt và nhiều nước khác bước vào chu kỳ văn minh mới của Thời Đại Điện Tóan Không Gian.


 Thế giới ngày nay là thế giới của Khoa Học Điện Toán Không Gian trong Xã Hội Người mà Tự Do, Nhân Bản, Nhân Ái là căn bản.
 Trong Tự Do, các lý thuyết chỉ là giả thuyết, các hệ tư tưởng. ngay cả các tôn giáo chỉ có gía trị tương đối, không là chân lý tuyệt đối cho mọi người.
 Nhân Bản, Nhân Ái là giá trị đích thực của Người và với công bằng, tự do, no ấm, con Người mới thực sự là NGƯỜI có hạnh phúc.

Vũ trụ chưa biết vì sao hiện hữu, bao gồm triệu triệu Thiên Hà; Mỗi Thiên Hà dài rộng hàng triệu năm ánh sáng, trong khoảng không vô cùng vô tận, cấu tạo bởi các vật chất tinh năng, chi phối bởi các quy tắc Vật Lý nặng tính Hỗ Tương hơn là Mâu Thuẫn. Trái đất là một vật qúa nhỏ, nhỏ hơn hạt bụi, nhưng lại có các sinh vật, mà Con Người là Chủ Tể. Người không thuần là vật chất mà là một Tổng Hợp của Thể Chất, Tâm Linh và Trí Huệ. Xã Hội Người có các quy luật khác với Quy Luật của vũ trụ Vật Lý. Con Người coi giá trị tâm linh và Trí Huệ cao hơn vật chất. Người chỉ thấy hạnh phúc khi được sống trong yêu thương, tự do và có tư hữu. Người dùng trí huệ để biến cải các quy luật, tài nguyên thiên nhiên theo cách xử dụng của Người, để Người có hạnh phúc. Quy Luật Mâu Thuẫn là quy Luật đi tới, phân hóa, hủy diệt. Quy Luật Hỗ Tương Quân Bình Động của các phần tử trong Nguyên tử đã khiến vạn vật tồn tại trongVũ Trụ. Quy Luật Hỗ Tương Quân Bình Động đã tạo sự Tương Sinh khiến Xã Hội Người sinh trưởng, văn minh thăng hóa.

Trái đất tuy bé nhỏ, nhưng có đủ tài nguyên cung ứng nhu cầu vật chất, lại có dư cảnh đẹp hoa mỹ muôn hình vạn trạng, để tạo đời sống tinh thần cho con Người. Trái đất là Thiên Đường tạo hóa dành cho con người. Con người còn thơ ấu, tính tình hiền hòa, thân ái, ham muốn dịu dàng, âu yếm, yêu thương. Lớn lên càng có quyền thế càng trở nên ma qúai, gian tham, giảo quyệt, độc ác, tàn nhẫn. Người lớn đã tàn phá thiên nhiên và biến xã hội người thành Điạ Ngục. Trái đất không còn là Thiên Đường mà Tạo Hóa đã dành cho Con Người.
Phải phục hưng lại trái đất. Phải đem Nhân Ái lại cho Con Người. Trái đất nhỏ bé, Con Người là sinh vật hiếm qúy trong vũ trụ. Con Người phài biết thương qúy con Người và giữ trái đất trong lành, mãi mãi là Thiên Đương cho Xã Hội Người.

Người có quyền thế phải được bầu chọn để là những người biết lo Nhân Ái, Biết Đạo Làm Người, và biết Kinh Bang Tế Thế để làm dân giầu, nước mạnh, đem cơm no, áo ấm, đời sống tự do, hạnh phúc đến cho mọi người.

Chỉ có CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐA NGUYÊN TÒAN BÍCH mới có được các nhà CẦM QUYỀN NHÂN ÁI, TÀI BA, đem xã hội Người dần trờ về Thiên Đường mà Tạo Hóa đã tạo nên trái đất.

CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI bất cứ dưới hình thức nào cũng đưa tới LẠM QUYỀN, TÀN ÁC, BẤT NHÂN, đưa LOÀI NGƯỜI VÀO ĐỊA NGỤC, và TRÁI ĐẤT SẼ SỚM BỊ HỦY DIỆT.

Người phải biết quý trọng Người hơn qúy trọng vật chất.

Chủ Nghĩa duy Vật của Marx -Lenin lây Vật Chất làm căn bản, lấy Mâu Thuẫn làm quy luật, lấy vô sản làm nòng cốt, lấy đấu tranh giai cấp, cách mạng thường trục, kinh tế tập sản làm cách sống. Chủ Nghĩa Marx-Lenin chỉ có tác dụng một thời, khi tư bản cực quyền mới phát sinh, sự bóc lột con người cần được chế ngự. Nay thế giới đã tiến sang chu kỳ khác, chủ nghĩa Marx-Lenin không những đã trở nên lỗi thời, mà bản chất lại độc đóán, tàn ác, phi nhân, trái với văn hóa Việt.

Chủ Nghĩa Marx-Lenin không nên tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam, vì Văn Hiến Việt Nam xây dựng trên Nhân Ái, lấy Đạo Làm Người đối xủ với nhau, tương thân, tương kính. Kinh tế xưa có đặc tính xã hội, quân phân công điền, công thổ, không giai cấp. Chính tri nặng tính cha con, bằng hữu, dân chủ có từ cơ bản làng xã, phép vua thua lệ làng. Hãy phục hoạt nền văn minh ấy, thích nghi vào văn minh dân chủ, khoa học hiên đại. Nước Việt nhiều tài nguyên, phong cảnh hùng vĩ, dân Việt nhiều tài ba, nước Việt sẽ là Thiên Đường của Người Việt, không phải là Địa Ngục như hiện nay, dưới chế độ tập sản, độc đảng, tòan trị.

. CHỦ NGHĨA MARX-LENIN KHÔNG NÊN CÒN CHỖ ĐƯNG TRONG XÃ HỘI NGƯỜI HÔM NAY

B. LẬP TRƯỜNG: lập trường của chúng ta là lấy Dân Tộc làm căn bản, lấy con Người làm cứu cánh (Dân Tộc-Nhân Chủ)

1. LẤY DÂN TỘC LÀM CĂN BẢN, CHÚNG TA KHAI TRIỂN CÁC CHÍNH SÁCH SAU:


 Văn Hiến Việt rất đa dặng, sâu dầy, tích lũy từ Đức Thần Nông lập nền văn minh Nông Nghiệp, bị Hoàng Đê Hán xâm lăng, đồng hóa, chiếm lãnh tòan bộ văn minh, kể cả Kinh Dịch, đến Kinh Dương Vương lui về hai Châu Kinh và Châu Dương, đất Ba Thục, Tứ Xuyên; rồi Cha Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ lui về Động Đình Hồ, lập nước Văn Lang với các Vua Hùng thay nhau quản trị, sau bị linh lạc, rút về củng cố nước Việt hình chũ S hiện nay, qua các Triều Đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, tổng hợp biết bao nhiêu tinh hoa. Sách vở xưa, nay đã viết thật nhiều về văn hiến và văn minh Việt, và văn minh Bách Việt. Chúng tôi chỉ xin nêu lên vài ý chỉ đặc biệt gói ghém trong một số DI THUYẾT PHỔ THÔNG, mà đa số chúng ta đều biết để làm kim chỉ nam cho chính sách của Đối Lực. Sự lý gỉai ẩn ý của Tiền Nhân trong Di Thuyết sau đây là sự hiểu biết riêng của tác giả Dự Án.

1) DI THUYẾT TIÊN RỒNG:

 Di Thuyết Tiên Rồng là căn bản của Tư Tưởng Việt. Đó là chủ trương Bình Đẳng Quân Phân, Lưỡng Nguyên Song Trùng, tuy hai mà một, tổng hợp Nhị Nguyên Mâu Thuẫn: Tiên, Rồng cùng bình đẳng hỗ tương tồn tại. Mẹ đem 50 con lên rừng; Cha đem 50 con xuống biển. Đây là tính Đa Nguyên, của Dân Tộc Việt. Các Yếu Tố Căn Bản khác biệt cùng tồn tại, và bổ xung, hỗ tương cho nhau. Trong Chính Trị, các thành phần dân tộc phân thân, phụ trách những việc khác nhau, tùy sở trường, nhưng cùng trách nhiệm bảo tòan sinh mệnh quốc gia. Mẹ ở lại giữ non sông, có Vua Hùng cầm quyền, công khai, và linh động đối đầu hay thỏa hiệp với Cường Quyền xâm lược. Cha về hậu cứ, ẩn mình, bảo tòan tiềm năng, tinh hoa dân tộc, làm sức đáy, sẵn sàng khi Mẹ gọi thì trở về giúp nước. Hai bên, người công khai, kẻ bí mật, cùng có bổn phận bảo toàn sinh mệnh quốc gia. Bài học cho bây giờ là Nhà Cầm Quyền và Tổ Chức Đối Lập đều là Vợ Chồng hay anh em, con dân Việt. Dầu bản chất mỗi Bản Vị có khác nhau, nhưng quyền lợi của quốc gia, sinh mệnh của quốc dân vẫn là của chung. Mọi người đều có sứ mệnh thiêng liêng phải bảo vệ.

 Cha Lạc Long, ( con của vua Kinh Dương Vương, Hoàng Đế của hai lãnh điạ Châu Kinh và Châu Dương, vùng Bắc sông Dương Tử và Tứ Xuyên bây giờ; có mặt từ năm 2,879 trứơc Tây Lịch, đến nay là 4,892 tuổi Việt,) lấy Mẹ Âu Cơ con gái của vua Đế Lai, . Mẹ Âu Cơ là Tiên, Cha Lạc Long là Rồng. Rồng, Tiên là biểu tượng của Dương và Âm, lưỡng nghi trong Việt Dịch. Âm Dương tuy khác nhau về Bản vị, hình thái là mâu thuẫn, nhưng trong Dương có Âm, trong Âm có Dương, bản chất là hỗ tương và có Mẫu Số Chung là Thái Cực, là Đại Tự Nhiên, là Vũ Trụ. Trong xã hội NGƯỜI, âm dương bản chất không mâu thuẫn, mà Nam nữ hòa hơp, cần thiết hỗ tương gắn bó nhau mà tồn tại, sinh trưởng, thăng hóa. Từ Việt Dịch, Tiên Rồng, ta có Bản Vị Học Thuỳết. Bản Vị là một thực thể tự nó tồn tại và có đặc tính riêng, khác với Bản Vị khác. Tiên là một Bản Vị. Rồng là một Bản Vị. Hai Bản Vị có đặc tính khác nhau. Khác nhau là để bổ xung cho nhau những ưu, khuyết, là hỗ tương nhau, là yêu thương, che chở, đùm bọc nhau, là sinh trưởng. Tiên Rồng sinh trăm trứng, nở trăm con. Mỗi Con là một Bản Vị. Đứng riêng Tiên là một Bản Vị, Rồng là một Bản Vị. Trăm Con là Trăm Bản Vị khác nhau. Hợp nhau, Tiên là cơ năng của Rồng, Rồng là cơ năng của Tiên, cả hai bổ túc, hỗ tương nhau. Bản Vị và Cơ Năng Hỗ Tương Nguyên Nhân. Tiên và Rồng đẻ trăm con tạo thành Bản Vị mới là gia đình. Gia Đình là Bản Vị mới gồm Cha, Mẹ và con cái. Cha, Mẹ, Con, mỗi người là một Bản Vị nhỏ, rất khác nhau, trong Bản Vị mới chung là Gia Đình. Cha, Mẹ, Con Cái hợp nhau làm Gia Dình thịnh vượng. Cha, Mẹ, Con cái là những Cơ Năng của Bản Vị Gia Đình. Hỗ Tương nhau và không Mâu Thuẫn. Các Gia Đình kết hợp thành Quốc Gia. Quốc Gia là Bản Vị mới. Các gia Đình, rất khác biệt nhau, là những cơ năng, làm quốc gia chung thịnh vượng. Các quốc Gia hình thành Thế Giới. Các quốc Gia khác Biệt nếu theo đúng quy luật Hỗ Tương sẽ đi đến Tòan Cầu Hóa, bổ xung nhau làm Liên Hiệp Quốc hữu hiệu và thế giới thịnh vương, hòa bình. Nếu theo quy luật VẠN VẬT MÂU THUẪN, GIAI CẤP ĐẤU TRANH CỦA MARX, thế giới sẽ triền miên có chiên tranh, con người triên miênsống trong địa ngục.

THUYẾT TIÊN RỒNG HỖ TƯƠNG, NHÂN ÁI CỦA TA HAY HƠN THUYẾT MÂU THUẪN, CĂM HỜN CỦA KARL-MARX. XIN NHỮNG NGƯỜI VIỆT TRONG, NGOÀI NƯỚC CÙNG SUY NGHĨ MÀ TÌM PHƯƠNG HÀNH ĐỘNG

MỘT VẤN ĐỀ NỮA, CHÚNG TA CẦN SUY NGHĨ LÀ, ĐỂ CỨU NƯỚC, GIỮ NÒI, ÔNG CHA TA ĐÃ LẬP LÊN ĐỀN THỜ QUỐC TỔ, LẠI THIẾT LẬP HỆ THỐNG THỜ CÚNG ANH HÙNG, ANH THƯ DÂN TỘC TRONG CÁC ĐÌNH, ĐỀN, NHẤT LÀ TẬP TỤC TRANG TRỌNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN NGAY TRONG HỌ, TRONG NHÀ. NHỜ ĐÓ MÀ TA CÓ TINH THẦN YÊU THƯƠNG, ĐÙM BỌC, YÊU NƯỚC, YÊU NÒI. SAU MỘT NGÀN NĂM BẮC THUỘC, TINH THẦN ĐÓ ĐÃ BỊ LINH LẠC. CÁC TRIỀU ĐẠI VUA CHÚA, VÌ QUYỀN LỢI RIÊNG, ĐÃ LẤY KHỔNG GIÁO TÔN QUÂN LÀM TRỌNG. CÁC TÔN GIÁO DU NHẬP VÀO VIỆT NAM ĐÃ TÌM MỌI CÁCH ĐỂ PHÁT TRIỂN PHẨM VÀ LƯỢNG CỦA TÔN GIÁO MÌNH. QUA MỘT TRĂM NĂM PHÁP ĐÔ HỘ, VÀ TỪ KHI CỘNG SẢN CẦM QUYỀN TOÀN QUỐC ĐẾN NAY, SỰ TÔN THỜ QUỐC TỔ, CÁC ANH HÙNG, ANH THƯ DÂN TỘC, NHẤT LÀ SỰ THỜ CÚNG TỔ TIÊN TRONG HỌ, THỜ CÚNG ÔNG BÀ, CHA MẸ TRONG NHÀ GẦN NHƯ ĐÃ MAI MỘT. CHÚNG TA CÓ CHÙA CHIỀN, NHÀ THỜ Ở KHẮP NƠI. NHƯNG QUỐC TỔ, TỔ TIÊN ÔNG BÀ, CHA MẸ VẪN KHÔNG CÓ CHỖ ĐỂ THỜ. ĐẾN BAO GIỜ GIÒNG GIỐNG CHA LẠC LONG, MẸ ÂU CƠ MỚI PHỤC HOẠT LẠI Ý NGUYỆN CỦA TIỀN NHÂN TRONG NẾP SỐNG CỨU NỨOC, GIỮ NÒI, QUA CÁCH THỜ CÚNG, QUỐC TỔ, CÁC ANH HÙNG, ANH THƯ VÀ TỔ TIÊN, ÔNG BÀ, CHA MẸ?


2) DI THUYẾT BÁNH DẦY, BÁNH CHƯNG.

 Di Thuyết Bánh Dầy, Bánh Chưng là Cơ Bản củaTư Tưởng Việt: Từ Dịch thuyết chuyển sang Tam Tài. Người hòa hợp với Trời Đất, và là trung tâm của Trời Đất.

 Hùng Huy Vương, sau khi thắng Giặc Ân, đã gìa, trong chủ trương muốn hưng thịnh và bảo tòan quốc gia, phải tìm chọn người tài cho giữ trọng trách, đã bỏ lệ chọn con Trường nối ngôi. Vua muốn chọn người tài đức, nhân ngày Tết, truyền các quan Lang ai dâng "Của ngon, vật lạ mà có ý nghĩa sâu sắc ở đời, lên lễ Tổ Tiên" sẽ được nối ngôi. Hoàng tử thứ 18 là Lang Liêu mẹ mất sớm nghèo, không có quân gia để, có thể mua hay lên rừng, xuống biển tìm của ngon vật lạ như mọi người. 

 Đêm ngủ, nằm mơ thấy Mẹ chỉ cách dùng vật liệu thông thường cần yếu của dân gian như gạo nếp, thịt, đậu hành, tiêu..để làm Bánh Chưng, Bánh Dầy. Mẹ cũng giải thích ý nghĩa sâu sắc của Bánh Chung, Bánh Dầy. Bánh Dầy tròn, tuợng trưng cho Trời. Bánh Chưng Vuông, tượng trưng cho Đất. Nhân ở giữa tượng trưng cho Người. Từ Việt Dịch Hà Đồ, đến Lạc Thư, trong trời đất đã có xã hội Người. Có Người, Trời, Đất không còn chỉ là hiện hữu, mà hiện hữu với một ý nghĩa thiêng liêng. Người trở thành Trung Tâm của Trời Đât. Gạo, thịt, hành, đậu, tiêu, lá là toàn thể các giới trong dân gian, và người lãnh đạo. Lãnh Đạo cùng quấn quyện với dân gian để lo cho trời, đất, và Tổ Tiên, tạo nên xã hội Hòa Hài, Hạnh Phúc, mà hình khắc trên Trống Đồng đã thể hiện. Trời Đất, Người sau được diễn dịch qua thuyết Tam Tài. Người thấy Trời Đất có ý nghĩ thiêng liêng. Người có đời sống Tâm Linh và có kiến thức. Người không thuần là Vật chất. Từ thuyết Tam Tài, ta có thuyết Ngũ Hành, sinh hay khắc, tùy theo bản chất của năm Bản Vị, nguyên tố căn bản, nhưng chính là tùy sự chủ động của NGƯỜI trong tương quan sắp xếp. (Marx sau này đã rất sai lầm khi chủ truơng Duy Vật, lấy mâu thuẫn làm cơ bản biện chứng và giai cấp đấu tranh làm quy luật trong xã hội Người.)

 Làm xong, Hòang tử thấy qủa thực thơm, ngon và mới lạ. Đã dâng lên vua cha, để cúng Tổ Tiên vào ngày Tết. Vua cha hỏi ý nghiã. Hoàng Tử Lang Liêu đã giải thích rành rẽ trước triều đình. Vua và các quan, đều tâm tắc khen ngợi về đức hạnh và trí thức. Hoàng Tử Lang Liêu đã được Đúc Hùng Huy Vương truyền ngôi, lấy hiệu là Hùng Chiêu Vương, và được toàn thể quan, dân kính phục.

 Từ đó, gần 5,000 năm nay, dân Việt vẫn làm Bánh Chưng, Bánh Dầy để cúng lễ Tổ Tiên trong ngày Tết. 


3) DI THUYẾT GẬY THẦN, SÁCH ƯỚC:

 Gậy Thần, Sách Ứơc là Di Chỉ dành cho những người Lãnh Đạo Tối Cao của Dân Tộc. Đó là chính sách Hỗ Tương Quân Bình Động, kỹ năng và nghệ thuật Điều Hợp các Đối Xung, vận dụng tòan lực quốc dân để xây dựng và bảo vệ đất nước; cùng đối phó với mọi Biến Động kể cả những Biến Động bất thường trong xã hội.

 Tục truyèn, Thánh Tản Viên được ThiênThần trao cho một cây Gậy Thần, và Long Vương trao cho một Sách Ước. Thánh Tản Viên giúp vua Hùng dựng nước. Gậy Thần (Toàn Thể) là Cây Trúc 9 đốt, ruột trống, không thiên vị, có hai đầu đối xung, (Nhị Nguyên) đầu sinh, đầu tử, đầu nặng, đầu nhẹ, đầu âm, đầu dương...linh động vô cùng, luôn luôn biến đổi, đầu âm thành đầu dương, hay nghịch lại, tùy tình thế, tùy không, thời gian. Vì hai đầu Gậy Trúc luôn luôn biến đổi, nay là thiện, mai là ác, nay là bạn, mai là thù. điểm giữa của Gậy Trúc cũng luôn luôn biến đổi. Muốn điều khiển được Gậy Thần phải nắm được ĐIỂM GIỮA. Điểm Giữa là TRỤC, thể hiện MẪU SỐ CHUNG, là SỨC MẠNH TỔNG HỢP, là nơi HÓA GIẢI NHỊ NGUYÊN MÂU THUẪN. NhưngTrung Bình Điểm luôn luôn động và thay đổi. NGƯỜI, muốn nắm được Trung Bình Đìểm của Gậy Thần phài có đủ ĐỨC của Một vị THÁNH, tâm không thiên vị, có Linh Giác và Thiên Nhãn để LUÔN LUÔN nắm trúng được Trung Điểm QUÂN BÌNH ĐỘNG, xử dụng được tòan TỔNG LỰC, sức mạnh của toàn Gậy Thần, của Toàn ĐỐI LỰC, của TÒAN DÂN. Cò điều hành được sức mạnh Tổng Hợp của Toàn Dân, trong tất cả các thành phần khác nhau, nhiều khi mâu thuẫn trong xã hội, mới vào được SÁCH ƯỚC. Sách Ước là các trang giấy trắng tinh, muốn ước gì sẽ hiện lên thế đó. Đó là ý muốn là lý tuởng của Lãnh Đạo, là những dấu ấn Lịch Sử, trong ý chí và hành động của Lãnh Đạo và của Đối Lực, những người điều khiển Gậy Thần.

 Ẩn ý của Di Thuyết Gậy Thần Sách Ước thật rõ ràng. Hai Đầu là hai cực đoan. Chỉ biết Cực Đoan, mình mình đúng là Mâu Thuẫn. Trong xã hội có nhiều mâu thuẫn. Những mâu thuẫn lại luôn biến đổi. Người Lẵnh Đạo, muốn điều hợp được các thành phần, muốn vận dụng được các lực khác nhau trong xã hội, phải minh mẫn, không tư lợi, không thiên lệch, nắm vững mẫu số chung của các thành phần, lấy quyền lợi chung của quốc gia làm trọng, có những chính sách, chương trình khác nhau cho mỗi thành phần, để moị người đều vừa ý mà tận tâm, tận sức đóng góp. Có sức mạnh toàn dân, thì muốn làm gì theo ứoc muốn cũng dễ thành công. Thành công thì vào lịch sử. Lịch sử là Sách Ước. 

 Nguyên lý Gậy Thần, Sách Ước áp dụng cho cách đối nội mà cũng rất hữu hiệu cho chính sách đối ngọai. Lấy Quyền lợi quốc dân làm trung bình điểm, làm mẫu số chung cho các quốc gia hướng tới, ta có thể vận dụng được sự khác biệt và nhiều khi mâu thuẫn của các quốc gia trong công cuộc cứu quốc và kiến quốc.

4) DI THUYẾT PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG TỨC THÁNH GIÓNG

 Di Thuyết Phù Đổng Thiên Vương diễn tả bản chất độc đáo của người dân Việt, khi bình thường thì sống hiền hòa, khi quốc biến thì vùng lên cứu nước. Phù Đổng Thiên Vương cũng là nền tảng cho tâm thức và hành động cứu quốc của các Anh Hùng, Anh Thư dân tộc, cho cách hành sữ của các tướng lãnh và các chiến sĩ.

 Làng Phù Đổng thuộc Vũ Ninh, (Gia Lâm, Hà Nội) có một cậu bé, sinh ra đã ba năm, không đi, đứng, nói, cười. Đời Hùng Huy Vương, Giặc Thương Ân đến xâm lăng. Vua cho Sứ đi cầu nhân tài giúp nước. Câu bé thốt nhiên lên tiếng cho mời Sứ vào, yêu cầu cấp cho một con ngựa sắt, một giáp sắt, một nón sắt và một thanh kiếm. Nhận được Ngựa, giáp, nón và kiếm, cậu bé vươn vai thành NGƯỜI TO LỚN, nai nịt, nhẩy lên ngựa sắt, cho phun lửa, rồi vung kiếm,cùng quân, dân, tiên vào đánh giặc Ân. Giặc thua chạy. Kiếm nghênh địch nhiều, bị gẫy. Ngài nhổ tre bên đường hô quân dân đánh giặc. Giặc tan, Ngài không về triều nhận chức, mà lên núi Sóc Sơn rồi biến mất. Vua phong làm "Phù Đổng Thiên Vương. Nay Lễ Hội Thánh Gióng, vẫn được trọng thể cử hành vào các ngày 8,9 tháng 4 âm lịch.

 Dân Việt bình thưòng sống hiền hòa như trẻ thơ. Khi đất nước lâm nguy thì thốt nhiên trở nên những anh hùng cứu quốc. Cứu xong nước, thì không màng danh lợi, lại trở về sống điền viên vô danh trong dân gĩa, hay tự hòa mình trong thiên nhiên lạc cảnh. Trong bất cuộc chiến nào xưa nay, Dân Việt đều có rất nhiều các Anh Hùng, Anh Thư, hiện thân của Đức Thiên Vương Phù Đổng. Những Tạ Phong Tần, Phuơng Nguyên, Đinh Văn Kha, Cù Huy Hà Vũ....., Các nhà đấu tranh dân chủ, các bà mẹ Dân Oan trong nước đang là các Phù Đổng Thiên Vương của thời đại. Đấu tranh sẽ thành công khi tất cẳ đến với nhau thành ĐỐI LỰC.

5) DI THUYẾT TIÊN DONG CHỬ ĐỒNG TỬ

 Di Thuyết Tiên Dong- Chử Đồng Tử là biểu tượng của tinh thần TỰ DO HÔN NHÂN, KHÔNG PHÂN BIỆT GIAI CẤP, VÀ TINH THẦN NHÂN ÁI, TÍCH CỰC PHỤC VỤ QUỐC DÂN.

 Vào đời Hùng Vương thứ 3, vua Hùng Hy Vương sanh được một cô công chúa rất xinh đẹp, đặt tên là Tiên Dung. Tiên Dung tuy đa tài, nhưng tâm hồn thanh thoát, thích ngao du, dùng thuyền đi đó đây vừa thăm dân, vừa ngắm cảnh đẹp của trời đất. Khi đó, tại thôn Chử, có cậu Chủ Đồng Tử, mẹ mất, cùng cha là Ông Chủ Cù Vân đánh cá kiếm ăn. Nhà cháy, hai cha con chỉ còn một cái khố, thay nhau mặc, khi đi bán cá. Khi cha đau, dặn con nếu cha chết, giữ lại chiếc khố để mặc. Chử Đồng Tử, vì lòng hiếu thảo, khi cha mất đã mặc khố cho cha lúc mai táng. Sau đó, vì không có khố, chỉ bán cá ở ven sông.

 Một hôm Tiên Dung dong thuyền đến chơi tại khúc sông thôn Chử, thấy cảnh đẹp, nước trong, bãi sông thơ mộng, bèn sai quân hầu kiếm chỗ vây màn để tắm. Không ngờ nơi vây màn lại là chỗ Chử Đồng Tử vùi mình dưới cát để trốn. Khi Tiên Dung dội nước tắm, cát rôi đi, để lộ thân hình lõa thể của Chư Đồng Tử. Tiên Dung, ngạc nhiên, thanh thoát hỏi nguyên cớ. Chử Đồng Tử khai hết sự thực. Tiên Dung mến phục đức hiếu của Chử Đồng Tử, và cho rằng sự ngẫu nhiên gặp nhau trong cảnh này là do Trời Định, nên đề nghị cùng Chử Dồng Tử kết nghĩa vợ chồng. Chủ Đồng Tử thấy Tiên dung là Công Chúa quyền qúy, mình chỉ là dân gĩa nghèo nàn, nên sợ hãi và từ chối. Nhưng Tiên Dung nhất quỳết, Chủ Đồng Tử phải nghe theo. Tiên Dung trả quân lính về triều đình, một mình ở lại, cùng chồng sống cuộc sống riêng. Tiên Dung bán tư trang mở một cửa hàng bên sông, dần trở nên phát đạt. Tiên Dung và Chử Đồng Tử học được cách chữa bệnh và phép tu tiên, đem phần lớn tiền phân phát cho người nghèo, còn lại mua thuyền, vừa ngao du, vừ chữ bệnh. Tương truyền hai người khi đến Động Cửa Sót, vùng Hà Tĩnh, gặp được một vị Tiên. Tiên Ông trao cho một cây gậy và chiếc nón linh thiêng, truyền cho phép lạ, có thể biến khoảng trống thành lâu đài thành quách. Lâu Đài nơi Tiên Dung và Chử Đồng Tử ở, một đêm biến thành Đầm, gọi đó là Đầm Dạ Trạch,( nơi Triệu Quang Phục lập căn cứ đánh nhà Lương.) Vợ chồng Tiên Dung, Chử Đồng Tử đêm đó cùng cưỡi hạc về trời. Nay ta có Đền Dạ Trạch thở cả Tiên Dung lẫn Chử Đồng Tử, và có 4 ngày lễ lớn trong năm, ghi nhớ ngày sinh của Tiên Dung, của Chử Đồng Tủ, ngày thành hôn và ngày cưỡi hạc vể trời.

 Di Thuyết Tiên Dung Chử Đồng Tử mô tả thực trạng xã hội Việt Nam xưa, cũng có người giầu, kẻ nghèo, nhưng không ai có tâm thức giai cấp, giầu nghèo, chỉ là tạm cảnh, giữa người và người lại không có sự căm hờn nhau, mà chỉ đầy Nhân Ái. Tiên Dung và Chử Đồng Tử, sống suốt đời hòa hợp, thương yêu, qúy nhau trên giá trị tự thân Nhân Vị của mỗi người. Tiên Dung và Chủ Đồng Tử đều sống hồn nhiên, yêu chuộng và hòa hợp với Thiên Nhiên, nhân ái, gần gũi dân chúng, không ham sang, giầu, say mê giúp đỡ người nghèo, chữa bệnh cho người đau yếu. Đó là biểu tượng của ĐẠO TIÊN. ĐẠO TIÊN là đạo nguyên khởi của người Việt, trước khi có Đạo Phật, Đạo Lão, Đạo Khổng và các Đạo khác.. Câu nói "Suớng Như Tiên" và các hình khắc trên trống Đồng, cho to thấy cách sông hoà hài và hạnh phúc của xã hội Việt xưa.

XÃ HỘI VIỆT NAM XƯA NAY SỐNG HÒA HỢP VỚI THIÊN NHIÊN, XÂY DỰNG XÃ HỘI TRÊN TÌNH NGƯỜI, TRONG SỤ YÊU THƯƠNG, NHÂN ÁI, CĂN CỨ VÀO GÍA TRỊ TỰ THÂN CỦA MỖI NHÂN VỊ, KHÔNG CĂN CỨ VÀO TÀI SẢN VẬT CHẤT.

ĐEM GIAI CẤP VÀ CĂM HỜN VÀO XÃ HỘI VIỆT NAM LÀ TRÁI NGHỊCH VỚI VĂN HIẾN, VĂN HÓA VIỆT, TẠO NÊN THẢM HỌA CHO NGƯỜI VIỆT


6) CÔNG TÁC CỤ THỂ ĐỂ CỨU NỨƠC, GIỮ NÒI

ĐỂ DÂN TỘC MÃI MÃI TỒN TẠI, ÔNG LÝ ĐÔNG A ĐÃ ĐƯA RA CHÍNH SÁCH LỤC DÂN VỚI 6 TIỀN ĐỀ. (Nguời Viết Dự Án xin lý giải)

a. Phục Hưng Dân Tộc: Nghiên cứu, sưu tầm, khai phá, làm sáng tỏ lại các tinh hoa văn hoá, văn minh của dân tộc Việt từ khởi thủy, ít ra từ thời lập quốc, cho đến ngày nay, qua các Tư Tưởng, truyền thuyết, dịch lý, phong tục, tập quán, di vật, văn bản lưu truyền và công trình Thực Tiễn xây dựng văn hoá, chiến tích lịch sủ, tổ chức công quyền, sinh hoạt xã hội, lưu truyền qua các triều đại. Đặc biệt khai phá tinh hoa của các nền văn minh Nông Nghiệp, đồ đá, đồ gốm, trống đồng, đồ sắt, kiến trúc, thuyền bè . Tất cả là cơ bản xây dựng thành nền văn hóa, văn minh Việt về cả hai mặt vật chất và tinh thần, mà đặc thù về tinh thần là ý thức LƯỠNG NGUYÊN SONG TRÙNG, ÂM DƯƠNG HÒA HỢP, THIÊN ĐỊA, NHÂN TƯƠNG HỖ, NGŨ HÀNH SINH KHẮC TÙY DUYÊN, và cao độ văn minh là thiết lập ĐẠO LÀM NGƯỜI, con cháu biết hiếu kính tổ tiên, anh hùng dân tộc và đồng bào cùng sống với nhau chan chứa tình yêu thương, đùm bọc, tự do, an lạc, ấm no, hạnh phúc.

b. Phát Dương Dân Đạo: Dân Tộc Đạo là Đạo Làm Người trong nghĩa vụ trọn đạo vớI MÌNH, trọn đạo với NGƯỜI, và trọn đạo với TRỜI ĐẤT.
- Trọn đạo với MÌNH là chu toàn bổn phận với CHÍNH MÌNH, qua các công trình HƯỚNG TÂM, HƯỚNG THA và HƯỚNG THƯỢNG về cả BA MẶT Thể xác, Tâm Thần, và Trí Huệ, Kiến Thức. HƯỚNG TÂM là luyện tập cho Thể Xác mình bền giai, chịu đựng, khòe mạnh, tráng kiện; cho Tâm Thần mình minh mẫn, tươi sáng, lạc quan, an nhiên, tự trọng, độ lượng, nhìn xa, trông rộng; cho Trí Huệ mình lịch lãm, kinh nghiệm sâu dầy, học cao, hiểu rộng, biết rõ từ gốc đến ngọn của sự việc đảm trách. HƯỚNG THA là đem mình mỗi ngày một tốt đẹp ra xa hơn. HƯỚNG THƯỢNG là đem mình và chung quanh mỗi ngày một tiến lên trình độ cao hơn.
- Trọn đạo với NGƯỜI là tròn bổn phận đối đãi với Đời Trước, Đời Nay, và Đời Sau . Với Đời Trước là làm tròn nghĩa vụ, thờ cúng, nhớ ơn cha mẹ, ông bà đã khuất, cũng như với tổ tiên, anh hùng dân tộc, Anh Linh Quốc Tổ. Với Đời Nay là làm tròn nghĩa vụ với bản thân (tâm, thân, trí, như trên), cống hiến tài năng, tâm sức, săn sóc chu đáo cha mẹ, vợ, con, anh em, bạn bè, làng xóm, đất nước, đồng bào, nhân loại;. Với Đời Sau là làm tròn nghĩa vụ đối với các thế hệ tương lai, với giòng giống, chủng tộc, sao cho liên tục Sống, Còn, Nối, Tiến Hóa.
- Trọn đạo với TRỜI là thật lòng tôn kính các ĐẤNG THIÊNG LIÊNG tùy theo mỗi tôn giáo mình theo, và tôn giáo của Người chung quanh; Chuyên cần tụng niệm kinh cầu Giáo Lý. Nỗ lực thực hiện các Điều Răn, các Lời Dậy, các Nguyên Tắc Tín Điều thể hiện CHÂN, THIỆN, MỸ.
- Trọn đạo với ĐẤT là biết bảo vệ môi sinh cho trong lành; Khí hậu cho tinh khiết; Sông, ngòi, hồ, biển cho thông thoáng, sạch sẽ; Đất đai cho mầu mỡ; Cây cỏ cho xanh tươi.

Các nghĩa Vụ đó phải là nghĩa vụ tư nhiên của mỗi người, và tự mỗi người coi đó là bổn phận tự nhiên trong ĐẠO LÀM NGƯỜI.

c. Quảng Đại Dân Sinh: Trên lập trường lấy Người làm cứu cánh, trong cơ bản triết lý mọi người sinh ra đương nhiên được tôn trọng là một Nhân Vị, với giá trị là NGƯỜI, có tất cả các Quyền Làm Người, bản chất là Bình Đẳng, Bình Quyền, Bình Tâm, Binh Thức. Đảng Dân Tộc tạo điều kiện phát huy sức sống của Dân trong mọi giới, mọi thành phần, không phân biêt giai cấp, giai tầng xã hội, tuổi tác. Các chính sách an sinh xã hội: - Y Tế- Giáo dục, Lo xây dựng những công dân sung mãn cả ba mặt Tâm, Thân, Trí, Đức trong một xã hội lương hảo với phong hóa thuần mỹ, chan chứa tình người; - Lo bảo đảm ai cũng có công ăn, việc làm, những cơ hội đồng đều trong sinh hoạt kinh tế, bảo đảm mức sống tối thiểu trong cuộc sống cho mọi giới, nhất là những người nghèo, thất nghiệp, thương , phế, tàn tật, già cả; -Lo cung cấp y tế, giáo dục miễn phí cho những người không có, hay có lợi tức thấp, vv...Hơn hết, nhà cầm qưyền có bổn phận tuyệt đối phải bảo vệ được sự sống an toàn cho dân chúng, trong các mặt sinh hoạt, nhất là an ninh cá nhân cơ thể, cũng như những lạm dụng, gian giối, bóc lột. Phải tạo cho dân chúng được sống trong HẠNH PHÚC cả về Vất chất lẫn Tinh Thần.

d. Sáng Hoá Dân Văn: Văn hóa, văn minh dân tộc từ khởi thủy Viêm Đế Thần Nông đến nay, phải được phục hoạt nguyên vị, làm sáng láng dễ hiểu, phổ thông trong dân chúng, và cập nhật hóa, tổng hợp với tinh hoa văn minh thế giới thời đại mới, thành VĂN MINH VIỆT THỜI ĐẠI . Trong tinh thần “Triết Lý Nhập Dụng Nhân Sinh” và “Nhân Sinh Hiện Thực Triết Học, ” thì các tinh hoa văn hóa, văn minh đó, kể cả tinh thần Dân Tộc, Nhân Chủ phải được quyện nhuyễn vào trong các bản văn thuộc các cơ chế, từ Hiến Pháp, luật pháp, văn kiện thành lập các bộ, sở, cũng như biến thành phong tục, tập quán, lễ hội, nếp sống của dân chúng, để toàn dân tự động áp dụng tinh thần triết lý văn hóa vào sinh hoạt hàng ngày một cách tự nhiên, vì đã thâm nhập, thẩm thấu, như các lễ hội ta vẫn có, kể cả cách sống trong các Ngày Giỗ, Tết.

e. Chỉnh Sức Dân Trị: Cuộc sống khi đã có tổ chức thì hành vi của mỗi người trong xã hội, dù là người cầm quyền hay dân chúng, đều có liên hệ đến vận mệnh chung. Các hành vi đó, dù là việc riêng của cá nhân, hay hành xủ trong gia đình, trong tổ chức, trong làng xóm, trong cơ sở, đều có liên hệ đến chung quanh, và đương nhiên có tác dụng vào xã hội. Các hành vi có tác dụng vào xã hội thì ít, nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, theo nghĩa rộng, đó là hành vi chính trị. Chính trị theo nghĩa chuyên môn, là uốn nắn lại những điều sai, trái, đem chúng trở lại sự ngay chính. Giáo dưỡng là khởi điểm và chung điểm của chính trị. Dân chúng cần phải được giáo, dưỡng thường trục, thăng hóa từ sơ khai, phổ thông, đến cao cấp trung học, đại học. Gíáo, Dưỡng chú trọng cả hai mặt KIẾN THỨC và TÂM THỨC, phổ thông và chuyên nghiệp, trong các sinh hoạt xã hội, nhất là sinh hoạt trong gia đinh, và chính trị ngoài cộng đồng, quốc gia, thế giới. Cần cho người dân có những phán đoán và quyết định vừa theo theo lương tri vừa theo lý trí, nên có nhiều phần đúng, chính xác, trong mọi việc, kể cả việc bầu cử và ứng cử, hầu đóng góp hữu hiệu vào việc xây dựng cộng đồng, cứu quốc và kiến quốc hay tạo dựng một nền văn minh mới cho Nhân Loại. Nền văn minh đó đặt cơ sở trên Tiến Bộ Khoa Học,và trên Nhân Ái, đưa loài người VĂN MINH MÃI LÊN đồng thời chuyển xã hội loài người từ NHÂN ĐẠO TINH TIẾN hiện nay, dến ngày mai NHÂN ĐẠO ỔN ĐỊNH.

f. Trọn Vẹn Dân Vực:
Lãnh địa và lãnh hải, đất đai, và các khu vực ảnh hưởng của dân tộc, do ông cha, trong suốt giòng lịch sử từ khi lập quốc cho đến mãi mãi về sau, cần được cháu con truyền nối ra sức bảo vệ, giữ gìn, phục hồi, khai mở, bằng tất cả mưu lược, cố gắng, và máu xuơng của mỗi người, nhất là người cầm quyền. Kẻ chiên bại để mất nước, hay để nước rơi vào quân ngoại xâm hay nội xâm, đã là nỗi nhục, có khi phải lấy cái chết để đền tội. Những kẻ đang cầm quyền, và đang sống trong, ngoài nước mà cam tâm làm Việt Gian, làm tay sai cho ngoại bang, đem đất nước hiến dâng cho ngoại bang, tạo điều kiện cho ngoại bang xâm lấn, đồng hóa, tiêu diệt, thì những kẻ phản quốc đó không những bị phỉ nhổ, mà toàn dân phải đứng lên lật đổ, loại bỏ, để cứu nguy, và bảo tồn đất nước. Trọn vẹn dân vực là một sứ mạng thiêng liêng của mỗi người dân Việt phải thực hiện, dầu phải chiến đấu hàng trăm, hàng ngàn năm, như lịch sử ông cha đã chứng minh.

c. Quảng Đại Dân Sinh: Trên lập trường lấy Người làm cứu cánh, trong cơ bản triết lý mọi người sinh ra đương nhiên được tôn trọng là một Nhân Vị, với giá trị là NGƯỜI, có tất cả các Quyền Làm Người, bản chất là Bình Đẳng, Bình Quyền, Bình Tâm, Binh Thức. Đảng Dân Tộc tạo điều kiện phát huy sức sống của Dân trong mọi giới, mọi thành phần, không phân biêt giai cấp, giai tầng xã hội, tuổi tác. Các chính sách an sinh xã hội: - Y Tế- Giáo dục, Lo xây dựng những công dân sung mãn cả ba mặt Tâm, Thân, Trí, Đức trong một xã hội lương hảo với phong hóa thuần mỹ, chan chứa tình người; - Lo bảo đảm ai cũng có công ăn, việc làm, những cơ hội đồng đều trong sinh hoạt kinh tế, bảo đảm mức sống tối thiểu trong cuộc sống cho mọi giới, nhất là những người nghèo, thất nghiệp, thương , phế, tàn tật, già cả; -Lo cung cấp y tế, giáo dục miễn phí cho những người không có, hay có lợi tức thấp, vv...Hơn hết, nhà cầm qưyền có bổn phận tuyệt đối phải bảo vệ được sự sống an toàn cho dân chúng, trong các mặt sinh hoạt, nhất là an ninh cá nhân cơ thể, cũng như những lạm dụng, gian giối, bóc lột. Phải tạo cho dân chúng được sống trong HẠNH PHÚC cả về Vất chất lẫn Tinh Thần.

d. Sáng Hoá Dân Văn: Văn hóa, văn minh dân tộc từ khởi thủy Viêm Đế Thần Nông đến nay, phải được phục hoạt nguyên vị, làm sáng láng dễ hiểu, phổ thông trong dân chúng, và cập nhật hóa, tổng hợp với tinh hoa văn minh thế giới thời đại mới, thành VĂN MINH VIỆT THỜI ĐẠI . Trong tinh thần “Triết Lý Nhập Dụng Nhân Sinh” và “Nhân Sinh Hiện Thực Triết Học, ” thì các tinh hoa văn hóa, văn minh đó, kể cả tinh thần Dân Tộc, Nhân Chủ phải được quyện nhuyễn vào trong các bản văn thuộc các cơ chế, từ Hiến Pháp, luật pháp, văn kiện thành lập các bộ, sở, cũng như biến thành phong tục, tập quán, lễ hội, nếp sống của dân chúng, để toàn dân tự động áp dụng tinh thần triết lý văn hóa vào sinh hoạt hàng ngày một cách tự nhiên, vì đã thâm nhập, thẩm thấu, như các lễ hội ta vẫn có, kể cả cách sống trong các Ngày Giỗ, Tết.

e. Chỉnh Sức Dân Trị: Cuộc sống khi đã có tổ chức thì hành vi của mỗi người trong xã hội, dù là người cầm quyền hay dân chúng, đều có liên hệ đến vận mệnh chung. Các hành vi đó, dù là việc riêng của cá nhân, hay hành xủ trong gia đình, trong tổ chức, trong làng xóm, trong cơ sở, đều có liên hệ đến chung quanh, và đương nhiên có tác dụng vào xã hội. Các hành vi có tác dụng vào xã hội thì ít, nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, theo nghĩa rộng, đó là hành vi chính trị. Chính trị theo nghĩa chuyên môn, là uốn nắn lại những điều sai, trái, đem chúng trở lại sự ngay chính. Giáo dưỡng là khởi điểm và chung điểm của chính trị. Dân chúng cần phải được giáo, dưỡng thường trục, thăng hóa từ sơ khai, phổ thông, đến cao cấp trung học, đại học. Gíáo, Dưỡng chú trọng cả hai mặt KIẾN THỨC và TÂM THỨC, phổ thông và chuyên nghiệp, trong các sinh hoạt xã hội, nhất là sinh hoạt trong gia đinh, và chính trị ngoài cộng đồng, quốc gia, thế giới. Cần cho người dân có những phán đoán và quyết định vừa theo theo lương tri vừa theo lý trí, nên có nhiều phần đúng, chính xác, trong mọi việc, kể cả việc bầu cử và ứng cử, hầu đóng góp hữu hiệu vào việc xây dựng cộng đồng, cứu quốc và kiến quốc hay tạo dựng một nền văn minh mới cho Nhân Loại. Nền văn minh đó đặt cơ sở trên Tiến Bộ Khoa Học,và trên Nhân Ái, đưa loài người VĂN MINH MÃI LÊN đồng thời chuyển xã hội loài người từ NHÂN ĐẠO TINH TIẾN hiện nay, dến ngày mai NHÂN ĐẠO ỔN ĐỊNH.

f. Trọn Vẹn Dân Vực: Lãnh địa và lãnh hải, đất đai, và các khu vực ảnh hưởng của dân tộc, do ông cha, trong suốt giòng lịch sử từ khi lập quốc cho đến mãi mãi về sau, cần được cháu con truyền nối ra sức bảo vệ, giữ gìn, phục hồi, khai mở, bằng tất cả mưu lược, cố gắng, và máu xuơng của mỗi người, nhất là người cầm quyền. Kẻ chiên bại để mất nước, hay để nước rơi vào quân ngoại xâm hay nội xâm, đã là nỗi nhục, có khi phải lấy cái chết để đền tội. Những kẻ đang cầm quyền, và đang sống trong, ngoài nước mà cam tâm làm Việt Gian, làm tay sai cho ngoại bang, đem đất nước hiến dâng cho ngoại bang, tạo điều kiện cho ngoại bang xâm lấn, đồng hóa, tiêu diệt, thì những kẻ phản quốc đó không những bị phỉ nhổ, mà toàn dân phải đứng lên lật đổ, loại bỏ, để cứu nguy, và bảo tồn đất nước. Trọn vẹn dân vực là một sứ mạng thiêng liêng của mỗi người dân Việt phải thực hiện, dầu phải chiến đấu hàng trăm, hàng ngàn năm, như lịch sử ông cha đã chứng minh.

II LẤY NGƯỜI LÀM CỨU CÁNH, CHÚNG TA PHẢI BIẾT TÔN TRỌNG GIÁ TRỊ CỦA NGƯỜI (NHÂN VỊ,) HOÀN TẤT SÚ MỆNH NGƯỜI, VÀ THỂ HIỆN MỤC TIÊU XÃ HỘI :

a. Giá trị của NGƯỜI: (Nhân Vị): Vũ trụ có thể khởi có từ 13. 7 tỷ năm trước đây, sau một hiện tượng bật nổ lớn (Big Bang). Trái đất có thể được hình thành đã 4.57 tỷ năm. Con người có mặt trên trái đất từ hồi nào, chưa xác định hẳn, theo thuyết Tiến Hóa, hay theo thuyết Sáng Tạo. Các nhà khoa học cho rằng các sinh vật được sinh ra trên trái đất, trong đó có người Thái Cổ, có thể trên 150.000 năm rồi. Con Người có hình dạng gần như hiện tại, và tạo nếp sống tập đoàn, có thể bắt đầu khoảng 10,000 năm nay.
Kể từ khi con người hiện diện trên trái đất, trong vũ trụ, thì qua tư duy, Người đã nhận ra vũ trụ, cho vũ trụ một ý nghĩa, khai thác vũ trụ, trong đó có trái đất, để nuôi dưỡng sự sống của mình và tạo dựng cho mình những phúc lợi.
- Vũ trụ mênh mông vô tận, có trước người hàng triêu năm, vẫn chỉ là sự vật vô tri. Kể từ khi Người xuất hiện, Người tự thấy mình là trung tâm của vũ trụ, vì từ mình, mà vũ trụ được tìm hiểu và soi chiếu ra, khởi từ trái đất, tới hàng trăm ngàn giải Ngân Hà, rộng hàng trăm ngàn năm ánh sáng, trải xa trái đất hàng triệu năm ánh sáng. Trong văn hóa Việt, ý thức NGƯỜI là Trung Tâm Vụ Trụ, được thể hiện qua Bánh Chưng, Bánh Dầy từ đời Vua Hùng, sau khi thiết lập nền văn minh nông nghiệp, và khai triển qua lý thuyết Tam Tài, Âm Dương, Ngũ Hành.
- So với các sinh vật trên trái đất. Người được coi là một Linh Vật cao qúy, vì ngay chính trong tôn giáo thờ Đức Chúa Trời, thì Chúa Trời cũng lấy hiện thân mầu nhiệm của mình là hình của Con Người trên cõi thế gian này. Trong Thế Gian, Người là LINH VÂT, qúy báu hơn các vật khác, và có khả năng làm chủ, cùng xử dụng các sinh vật khác.
- Người có một vị thế quan trọng, mỗi người trong xã hội là một Nhân Vị, do đó, trong bất cứ một xã hội, một thể chế nào Người phải biết qúy trọng Người, mọi cơ cấu tổ chức xã hội, mọi hành vi giữa người với người, phải lấy Người làm cứu cánh để phục vụ, đem hạnh phúc lại cho Người.
- Lấy Người làm cứu cánh, ĐỐI LỰC tôn trọng mọi người và thiết lập một chế độ không những thi hành tất cả các Dân Quyền, Nhân Quyền, mà còn tạo các cơ chế, cùng phương tiện để Người hoàn tất sứ mạng của ĐẠO LÀM NGƯỜI

b. Sứ Mệnh Của Người: Tự thấy mình là sinh vật cao đẳng, khác với vật chất vô tri, và coi mình là Linh Vật, so với mọi sinh vật có mặt trên trái đất, Người tự thấy mình có một sứ mệnh linh thiêng trên trái đất, đối với chính mình, đối với mọi loài, và đối với vũ trụ. Nhận mình là Linh Vật, Người tự thấy mình là một tổng thể nhuần nhuyễn của các Linh Lực: Thể Chất, Sự Sống, và Đời Sống Tâm Linh, Đạo Đức, Tri Thức. Khác với vật chất vô tri, khác với các sinh vật không có đời sống tâm linh, đạo đức và tri thức, Người đã tạo dựng cho mình những SỨ MỆNH. Lập Tâm cho Trời Đất, Lập Mệnh cho Nhân Sinh, Quá Vãng, Khai Lai.

c. Mục Tiêu xã hội: Để đạt mục tiêu, Người biết tạo cuộc sống tập đoàn có tổ chức, - Hệ thống sáng hóa ngôn ngũ, rồi chữ viết, và các phương tiện truyền thông ngày thêm phong phú; - Cơ cấu hóa hệ thống sinh hoạt xã hội theo luật pháp, phong hóa để cuộc sống có an ninh, nền nếp;- Sáng tạo các hệ thống triết lý, tôn giáo, các tiêu chuẩn đạo đức, tu tập để cùng nhau sống trong an thái, hạnh phúc- Vận dụng quy luật thiên nhiên, sáng tạo các dụng cụ, xây dựng các tiến trình văn hoá, văn minh, kinh tế, sản xuất, để tạo phúc lợi cho chính mình. Lý tưởng của Người qua các tôn Gíáo, Triết Lý và mô thức Đạo Đức, xã hội, nhấn mạnh ý nghĩa và hạnh phúc của cuộc đời bắt nguồn từ TÌNH YÊU THƯƠNG, yêu mình, yêu người, và yêu vạn vật. Song song với công trình tạo dựng VĂN MINH VẬT CHẤT mỗi ngày một cao hơn, Người nỗ lực xây dựng cuộc sống theo tiến trình VĂN MINH NHÂN ĐẠO ( Nhân Đạo sơ Khai, Nhân Đạo Thành Lập, Nhân Đạo Tinh Tiến, Nhân Đạo ổn Định). 
ĐỐI LỰC trong tiến trình hoàn tất lý tưởng, cùng thi hành sứ mệnh Cứu Quốc và Kiến Quốc, mục tiêu trước mắt là bằng mọi cách phải Giải Trừ những tác hại của chủ thuyết và chế độc cộng sản tại Việt Nam đã thấm vào con người và xã hội Việt Nam, sau đó, là thiết lập một chế độ Dân Chủ, Nhân Chủ để xây dựng lại toàn thể xã hội Việt Nam, qua tân Hiến Pháp, luật pháp, cơ cấu giáo dục, kinh tế, tài chánh, quân sự, an ninh, y tế, an sinh xã hội....hầu tạo dựng một Việt Nam mới vùa bảo tồn các cơ bản văn minh truyền thống, các thuần phong mỹ tục, vừa kiến tạo một nền văn hóa mới theo văn minh thời đại..

C. MỤC ĐÍCH: Mục đích của ĐỐI LỰC là đấu tranh xây dựng lại con người và xã hội Việt Nam :


2. Chủ thuyết và Chế Độ Cộng Sản không phù hợp với Việt Nam;

Tòan bộ chủ thuyết và chế độ cộng sản không nên tiếp tục được áp dụng trong xã hội nước ta vì tính chất duy vật tàn độc, phi nhân của nó, đặc biệt các chủ trương cơ bản sau;

a. Cộng sản coi vật chất là tối thượng, quan niệm đó vừa thô sơ, vừa không chính xác. Trong khi, với chúng ta, vật chất là vô tri. Trong vũ trụ, vật chất tuy cần yếu, nhưng Người mới là quan trọng. Từ khi có NGƯỜI, thì Người mới đem gía trị cho vật chất. Trong xã hội Người thì chính Người mới là tối thượng. Nên, mục tiêu tối thượng của Xã Hội Người là PHỤC VỤ NGƯỜI. Hơn nữa Người là một hợp thể của cả Tâm, Vật, Sinh. Do Tâm, mà Người biết qúy Người, biết yêu thương nhau, biết Thờ Trời, Qúy Đất, nhớ ơn Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ. Thể chất người là quan trọng, nhưng Người là một sinh vật, khác vật chất vô tri, cần phải sống trong môi sinh trong sạch, trong môi trường tự do, an ninh, đầy đủ phương tiện, và trong tình NHÂN ÁI mới có hạnh phúc.

b. Cộng Sản áp dụng trực tiếp các quy luật khoa học thuần túy vào xã hội người, đặc biệt là quy luật Mâu Thuẫn, tạo nên giai cấp đấu tranh, căm thù, giết chóc tàn bạo, không còn nhân tính, gây nên bao nhiêu chết chóc oan nghiệt và đớn đau, khổ ài, bởi tham tàn, áp chế. Trong khi, với chúng ta, Người khám phá các quy luật thiên nhiên theo khách quan nhưng áp dụng các quy luật ấy theo ý mình. Người có khả năng tuyển lựa các quy luật trong vũ trụ, thích nghi để đem phúc lợi cho loài người. Hơn nữa, trong các quy luật thiên nhiên, luật Hỗ Tương và Tương Đối mới là quy luật đem lại sự tồn tại quân bằng trong vũ trụ, cũng như trong nhân loại.

c. Cộng sản tiêu diệt nhân tính, hủy bỏ sở hữu tính, muốn hủy bỏ cả quyền tư hữu, trong khi, với chúng ta, đã là người thì đương nhiên có sở hữu tính và các tính khác, với đặc tính Hướng Tâm, Hướng Tha và Hướng Thượng, từ đó mà có gia đình, xã hội, quốc gia, nhân loại, tôn giáo, và văn hóa, văn minh.

d. Cộng sản thiết lập xã hội cộng sản và nền vô sản chuyên chính, với ý định là thực hiện một chế độ Xã Hội, vô hiệu hóa sự người bóc lột người do cơ cấu Thặng Dư Gía Trị của nền kinh tề tư bản. Khi triển khai trong thực tiễn hiện thực, cộng sản đã tập trung tất cả các phương tiện sản xuât vào thành Tư Hữu của một thiểu số trong Đảng Cộng Sản, cho Đảng Cộng Sản độc quyền thao túng, xử dụng, lạm dụng, lạm quyền, đưa xã hội đến nô lệ, kiệt qụê về kinh tế, bóc lột về lao động, trấn áp về tinh thần, triệt tiêu về nhân phẩm.... Các công dân không còn khả năng tự túc, tự vệ; bị mù quáng vì thèm khát vật chất, nên cả xã hội thành thú vật hóa về tinh thần. Toàn dân trở thành những kẻ bị trị, mất hết quyền làm người và trở nên vô cảm tự từ bỏ tư cách NGƯỜI. Nạn người bóc lột người trong chế độ cộng sản còn TÀN KHỐC, ĐỘC HẠI hơn nạn người bóc lột người dưới chế độ phong kiến và chế độ tư bản sơ khai.

e. Cộng sản phủ nhận tất cả các giá trị truyền thống và giá trị nhân luân quốc tế phổ cập xưa, nay, vì cho là sản phẩm văn hóa của phong kiến, tư bản. Họ thay thế bằng giá trị duy vật, giai cấp đấu tranh, và xã hội vô sản, nên tàn phá tất cả các giá trị cổ truyèn cao qúy của các dân tộc bị họ cai trị, trong đó có gía trị truyền thống của ông cha ta. Họ không tôn trọng nhân quyền và dân quyền theo các bản tuyên ngôn của Liên Hiệp Quốc.

3. Xây dựng lại con Người và Xã Hội Việt Nam.

Người là Linh Vật, linh thiêng và qúy gíá hơn mọi sinh vật trên trái đất (và có thể trong vũ trụ). Người đứng giữa Trời Đất, và là trung tâm của Trời Đất, như Thuyết TAM TÀI xác định. Sứ mệnh Người là Lập Tâm cho Trời Đất, lập Mệnh cho Nhân Sinh, Qúa Vãng, Khai Lai, nghĩa là biết tìm về giữ gìn quá khứ cùng biết lo lắng chuẩn bị, mở lối cho tương lai.

a. LậpTâm cho Trời Đất, Lập Mệnh cho Nhân Sinh:
 LậpTâm cho Trời Đất là sự ứng Tâm của Người vào Tâm của trời đất. Tâm của Trời Đất là hợp thể của Chân Thiện, Mỹ. Người hoàn thiện hoá mình theo hướng Chân, Thiên, Mỹ,
Lập Mệnh cho Nhân Sinh, là Người có nghĩa vụ bằng Hướng Tâm, Hướng Tha, Hướng Thượng cả ba mặt Thể chất, Tâm Thức và Sự Sống để hoàn thiện hóa cho cá nhân, cho gia đình, cộng đồng, quôc gia, và cả loài người trong nhân loại ngày thêm hòan hảo thăng tiến theo hướng Chân, Thiện, Mỹ.

b. Quá Vãng, Khai Lai:
Qúa Vãng, là Người nhìn về qúa khứ, nhớ ơn người xưa, Tổ Tiên, Anh Hùng Dân Tộc, công lao Ông Bà, Cha Mẹ. Người Việt tìm về gốc cội xưa, khởi từ Viêm Đế Thần Nông, qua Tổ Phụ Lạc Long, Tổ Mẫu Âu Cơ, các Đấng Vua Hùng, đến các Triều Đại, tới ngày nay; - Biết gốc gác nòi giống, diễn tiến lịch sử, văn minh, các tinh hoa, sáng tạo đã có, giữ gìn văn hóa, phong tục, tập quán ngày qua; - Trong khi tiếp tục sáng tạo, thâu hóa, đãi lọc văn minh thời đại, lũy xoáy tổng hợp thảnh văn minh mới của thời nay, tạo nền tảng cho văn minh tới của ngày mai. Đi lên vô cùng, nhưng không mất gốc. 

Khai Lai, Người lo lắng, chuẩn bị cho tương lai, tích lũy kinh nghiệm, qua sách vở, thành tích trao truyền cho các thế hệ sắp tới. Người Tự Làm chủ mình (Nhân Chủ,) để thăng hóa chính mình, thăng hóa gia đình, xã hội, và nhân loại. Người hòan tất cho mình cả đời trước, đời nay, và đời sau, với ĐẠO LÀM NGƯỜI, có Trời, có Đất, có Người (Tam Tài, Bánh Chưng, Bánh Dầy, Người là trục) . Đối Lực ngay từ bây giờ đã tìm cách kết nối sức mạnh của ba Thế Hệ 60- 40-20, liên kết trong chu kỳ xoáy ốc vươn lên, kết hợp tư tưởng và hành động qua tinh thần Dân Tộc, Nhân Chủ, để khi có được chính quyền, sẽ xây dựng được một Việt Nam tự do, nhân chủ, no ấm, hạnh phúc, phú cường, làm nền tảng văn minh ổn cố, thịnh vượng cho hàng trăm năm sau.


4. Vun Bón, Xây Dựng vững Vàng Hạ Tầng Cơ Sở Cho Chế Độ Dân chủ Tự Do, Nhân Chủ.

  • Cơ Sở của một Chế Độ Tự Do Dân Chủ gồm:
- Chế Độ Dân Chủ ít ra phải có Ba Quyền Phân Lập. Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp, phân quyền nhưng cùng hỗ tương bảo vệ, thực hiện Hiến Pháp. Các Quyền của Dân, các giá trị của con Người phải được tuyệt dối tôn trọng, bảo vệ. Các Luật Lệ, Chính Sách quốc gia, phải phục vụ Con Người, phục vụ Lợi Ích chung của Quốc Gia, và phục vụ quốc dân một cách hữu hiệu. Đảng phải là một bộ phận của quốc gia. Đảng không thể đứng trên quốc gia. Độc đảng tòan trị là điều phải loại bỏ, ngăn chặn bằng mọi giá.

- Thực hiện Tiến Trình tạo dựng một Hệ Thống Kinh Tế, Thương Mãi Tự Do, trong đó quốc gia hướng dẫn kế hoạch tân tiến theo khoa học thời đại, nhưng nền kinh tế, thương mãi tự điều hành theo kinh tế Thị Trường, trong luật pháp quốc gia do quốc hội công củ soạn thảo. Công ty Quốc doanh nếu có, chỉ là để bảo vệ an ninh và quyền lợi tối thượng của quốc gia. Đó là sự Phối Hợp vai trò của chính quyền và tư nhân trong các hoạt động Nông, Ngư, Lâm, kỹ nghệ, Thương Mại, Quốc Phòng, trên các lãnh vực sản xuất, phân phối, xuất , nhập cảng, vả tiêu thụ. Công nhân các cấp được huấn luyện chuyên nghiệp. Nhà nước và tư nhân tạo việc làm cho mọi người. Lợi tức cá nhân, y tế và giáo dục được bảo đảm, dù có việc làm hay thất nghiệp, tàn tật, hay già cả, qua các chương trình kinh tế và an sinh xã hội. 
 
- Giáo dục phải có tinh thần Dân Tộc, Nhân Bản, Khai Phóng, và có chính sách độc lập với đảng cầm quyền. Quốc gia thực hiện một hệ thống y tế, và một nền giáo dục căn bản miễn phí cho mọi người. Hệ thống y tế, trường học phải có cơ sở tại các xã thôn, khu xóm, và nhà thương, các trường Tiểu Học, Trung Học, Đại Học công phải thiết lập theo dân số trong vùng. Y tế phải bao gồm các biện pháp dinh dưỡng, phòng ngừa và chữa trị theo sức khỏe, căn bệnh của bệnh nhân và theo quyết định chuyên nghiệp của y sĩ. Giáo dục phải chú trọng về cả đới sống vật chất, và tinh thần, đạo lý của mỗi cá nhân theo bẩm sinh từng lọai, và theo tuổi tác, từ bào thai, tới sơ sinh, qua thiếu niên, thanh niên và có tuổi. Nội dung giáo dục phải bao gồm lịch sử, khoa học, tâm lý, đạo lý, và sụ thực tập qua giáo dục hôn nhân, gia đình, sơ học, tiểu học, trung học, đại học, các khoa chuyên môn.
  • Cơ sở của một chế độ Tự Do, Nhân Chủ :
- Từ một xã hội đã có nền tảng về Dân Chủ, Tự Do, Công Lý và Thịnh Vượng, theo thời gian, chưa biết bao lâu, tùy theo trình độ tâm thức chung, chúng ta từ từ tạo dựng một xã hội trong đó NHÀ CẦM QUYỀN PHẢI TỰ THÂN ĐẦY NHÂN ÁI, TÔN THỜ CÔNG BẰNG, VÀ CÓ TÀI KINH BANG TẾ THẾ, ĐEM PHÚC LỢI TƠÍ CHO TOÀN DÂN. Công dân, mỗi cá nhân tự thân tự trọng, tự ý thức trách nhiệm, tự nỗ lực thực hiện hoàn mỹ nơi mình các trình tự hướng tâm, hướng tha và hướng thượng. Mỗi cá nhân tự mình trong xã hội, nỗ lực thực hiện Chơn, Thiện, Mỹ; tự mình thực hiện chơn lý công bằng, bác ái mà không quan tâm đến luật pháp, dù luật pháp có đó.

- Xã hội, theo thời gian, tiến dần lên, chuẩn bị môi trường chu đáo, để mỗi người 1) -Có đủ nhu cầu vật chất trong đời sống hàng ngày: cơm ăn, áo mặc, nhà cửa ấm, mát, phương tiện di chuyển, trường học, thư viện, nhà thương...2) Có đủ thời giờ để tu dưỡng bản thân trong khi phục vụ gia đình, xã hội theo sở trường và theo công ước chung. 3) Và sống trong một môi trường mà người lãnh đạo các cấp đa số là những tinh hoa đã thực sự thành nhân của xã hội.

- Quốc gia vận dụng tối đa kỹ thuật khoa học tân tiến, tổ chức xã hội tự động bằng cơ khí, người máy, trong sản xuất, phân phối, để hoàn toàn giải phóng con người trong lao động. Khai thác tài nguyên trong vũ trụ, cung cấp dư thừa nhu cầu cho con người. Đưa con người du hành trong không gian và trở về dễ dàng. Mỗi người là một Tụ Chủ trong tương quan xã hội. Mỗi gia đình là một đơn vị có nhiều tự do trong quy luật chung của tập đoàn công ước.

- Hiện tại, càng ngày, chúng ta càng có nhiều người hơn, đang vừa có nhiều tài năng, hay đang rất giầu có, mà lại có rất nhiều đạo hạnh, vị tha, và có cuộc sống tự chủ an nhiên như đã từng tu hành hàng mấy kiếp. Đó là những nhân tố của xã hội NHÂN CHỦ hôm nay và ngày mai vậy.


C. CHỦ TRƯƠNG:

Chủ Trương căn bản của chúng ta:
  • Đến với nhau, liên hợp thành Một Đối Lực Mạnh
  • Yểm trợ cho các nhà đấu tranh Dân Chủ đang còn trong tù hay đang hoạt động ở trong nước.
  • Trong thực trạng, tìm Một Giải Pháp Cho Việt Nam, các bên đều có lợi, và cùng nhau góp sức để Cứu Nước, Giữ Nòi.
  • Có những dự án cụ thể có thể đóng góp vào công cuộc "Làm Dân Giầu, Nước mạnh"
  • Chuẩn bị cụ thể xây dựng một chế độ Tự do, Dân Chủ, Nhân Chủ trên căn bản Dân Tộc, y cứ theo các giá trị trưyền thống Nhân Bản của Tổ Tiên và các giá trị văn hoá, văn minh nhân loại thời đại.
Trong đấu tranh, chúng ta vừa theo đuổi, thực hiện lý tưởng, vùa có chính sách thực tiễn, để bảo đảm thắng lợi.
Chúng ta đang đấu tranh cùng toàn dân mưu cầu sự đột biến, cũng như cùng Liên Minh Á Châu Vì Dân Chủ hành động trong chính sách Diễn Biến Hoà Bình của Quốc Tế.
Trước tình hình chính trị Quốc Tế, Quốc Nội, chúng ta có các giả thuyết:
  1. Chế độ đương quyền tự tỉnh ngộ, muốn tự tìm lối thoát, bỏ độc quyền, cùng các thành phần dân tộc hợp tác để làm dân giầu, nước mạnh, hầu cứu nước, giữ nòi.
  2. Trong Diễn Biến Hòa Bình, sẽ có Một Hội Nghị của các Thảnh Phần Dân Tộc cùng ngồi chung TÌM MỘT GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM, và sẽ tiến đến cuộc Bầu Cử có Giám Sát Quốc Tế.
  3. Quốc Nội phẫn uất sẽ tạo ra những Anh Hùng Dân Tộc cùng Đồng Bào Tổng Nổi Dậy.
Cả ba trường hợp, Đối Lực và các thành phần đều phải chuẩn bị.

II. KIỆN TOÀN TỔ CHỨC, NHÂN SỰ VÀ PHÁT TRIỂN ĐỐI LỰC:


Muốn Đối Lực thành công thì NGUYÊN TẮC CƠ BẢN là TỔ CHỨC, TỔ CHỨC, và TỔ CHỨC; SINH HOẠT, SINH HOẠT, và SINH HOẠT; HÀNH ĐỘNG, HÀNH ĐỘNG và HÀNH ĐỘNG. Yếu tố quyết định trong tổ chức, sinh hoạt và hành động là NHÂN SỰ. Nhân sự gồm hai yếu tố PHẨM và LƯỢNG. Phẩm là Tri thức, Tâm Thức, ý chí, sức khỏe và thời lượng dành cho Đối Lực, trong đó căn bản là những Đội Ngũ chuyên nghiệp, toàn thời gian, hiến dâng suốt đời cho Đối lực, chú tâm vào mục tiêu duy nhất là đấu tranh bành trướng Đối Lực, đoạt thắng lợi cho Đối Lực trong sứ mạng cứu quốc, kiến quốc và tồn chủng. Lượng bao gồm Đoàn Viên, Cảm Tình Viên, các hàng ngũ ngoại vi, và quần chúng có thể vận động được khi có việc.

Mức độ thành công của Đối Lực vào mỗi khoảng Không, Thời gian là tùy thuộc vào KHẢ NĂNG và CƯỜNG ĐỘ về TỔ CHỨC và HÀNH ĐỘNG của Đòan Viên các cấp trong khoảng không, thời gian đó. Gương mẫu lớn nhất để theo đó mà nghiên cứu học, rút tỉa kinh nghiệm, sáng tạo thích nghi là GƯƠNG TỔ CHỨC, SINH HOẠT VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO LA MÃ. Chính cộng sản đã học hởi từ cách tổ chức của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo La Mã mà đã tạo được một Đảng Chính Trị mạnh vậy. Đảng cộng sản thất bại vì bản chất nó PHẢN NHÂN TÍNH mà thôi.

Cho nên Để nâng cao Khả Năng và Cường Độ của Đối Lực, thì công việc quan trọng và thường xuyên lả KIỆN TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN ĐỐI LỰC, trong đó trọng yếu là kiện toàn và phát triển nhân sự. Muốn Tổ Chức và Hành Động hữu hiệu, có nhiều mô thức tổ chức và sinh hoạt, nhưng tối thiểu Đối Lực nên phối hợp hai Mô Thức Tổ Chức và hai Mô Thức Sinh Hoạt điển hình.
  • Hai Mô Thức tổ chức điển hình là Mô Thức Giáo Hội Thiên Chúa Giáo La Mã, theo dạng thức Hình Kim Tự Tháp và Mô Thức Hạch Tâm Thể của Cụ Lý Đông A, theo dạng thức Hình Nón cùng Mạng Lưới.
  • Hai Mô Thức sinh hoạt điển hình là Mô Thức Lãnh Đạo Chỉ Huy Phân Quyền nhưng Nhất Thống theo Giáo Hội La Mã và Dân Chủ Đồng Nhất theo Team-Work và Net-Work .
Tôi sẽ lần lượt trình bầy chi tiết từng bước:


A Kiện Toàn Tổ Chức.

1- Hệ Thống Tổ Chức của Giáo Hội La Mã trong các Thế kỷ Cận Đại
  • Căn bản tổ chức và lãnh đạo hệ thống Giáo Hội La Mã có ba tầng quyền lực: Đứng trên hết và có quyền tuyệt đối lãnh đạo toàn Giáo Hội là Giáo Hoàng. Tầng thứ hai là Các Giáo Phận, (Diocese). Mỗi Giáo Phận có một Chánh Tòa do một Giám Mục (Bishop) đứng đầu lãnh đạo, bổ nhiệm bởi Giáo Hoàng. Mỗi Giáo Phận là một vùng tự trị, thuộc quyền của Đức Giám Mục của Địa phận đó. Giám Mục Địa Phận chỉ nhận lệnh trực tiếp từ Giáo Hội Trung Ương. Tầng cơ bản là các Giáo Xứ (Parishes), lãnh đạo bởi một Linh Mục (Priest), do Đức Giám Mục Giáo Phận bổ nhiệm, và nhận lệnh từ Đức Giám Mục Địa Phận. Giáo Hội La Mã hiện nay có 1 Đức Giáo Hoàng, 2946 Giáo Phận (Dioceses) do 2946 Giám Mục (Bishops) đứng đầu lãnh đạo, với sự phụ tá của các Giám Mục khác; và 219,583 Giáo Xứ (Parishes). Mỗi Giáo Xứ có một Linh Mục đứng đầu lãnh đạo, với sự phụ tá cuả các linh Mục tại nhiều nhà thờ khác trong địa phận.
  • Giáo Hội có các Giáo Khu. Mỗi Giáo Khu tương đương với một Miền, một Vùng, như Giáo Khu Bắc Việt, Trung Viêt, Nam Viẹt, đứng đầu bởi một vị Tổng Giám Mục (Archbishop), được Giáo Hoàng phong lên từ một vị Giám Mục của Giáo Phận trung tâm, như Giáo Phận Hà Nội, Giáo Phận Huế, Giáo Phận Sài Gòn. Các vị Tổng Giám Mục chỉ có thẩm quyền chỉ huy trục tiếp trong Giáo Phận Mình, và tạo ảnh hưởng gián tiếp trên các Giáo Phận trong Khu của mình.
  • Giáo Hội có các Đức Hồng Y (Cardinals). Các Đức Hồng Y chỉ có thẩm quyền trong Giáo Phận, nếu đứng đầu Giáo Phận, ngoài ra không có quyền gì với các Tổng Giám Mục và Giám Mục. Các ngài được Đức Giáo Hoàng chọn phong trong số các Tổng Giám Mục, Giám Mục vì uy tín, học thức, đạo đức và kinh nghiệm, để phụ giúp Giáo Hoàng trong các chức chưởng trong Toà Thánh của Giáo Hội., mà quyền uy do chức chưởng trong Toà thánh, nhân danh Giáo Hoàng. Các vị Hồng Y cũng được tổ chức thành Hội Các Hồng Y, để cố vấn cho Giáo Hoàng khi Ngài cần đến, và khi Giáo Hoàng mất, thì cùng nhau họp kính để bầu chọn một trong các Hồng Y lên kế vị..
  • Đức Ông là tước danh dự được Đưc Giáo Hoàng Phong cho những Linh Mục suốt đời đã có công lớn lao phục vụ cho Đạo, cho Đời.
  • Việt Nam hiện nay có Ba Tòa Tổng Giám Mục. Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội đứng đầu là Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt. Toà Tổng Giám Mục Huế đứng đầu là Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Như Thế. Toà Tổng Giám Mục Sài gòn, đứng đầu bởi Đức Tổng Giám Mục Phạm Minh Mẫn. Việt Nam hiện có 45 vị Giám Mục trong 26 Giáo Phận (Dioceses), thứ tự theo mẫu tự, gồm Bắc Ninh, Ban Mê Thuật, Ba Rịa, Bùi Chu, Cần Thơ, Đà Lạt, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Nội, Huế, Hưng Hoá, Kontum, Lạng Sơn-Cao Bằng, Long Xuỳên, Mỹ Tho, Nha Trang, Phan Thiết, Phát Diệm, Phú Cường, Quy Nhơn, Thái Bình, Thanh Hoá, Sài Gòn, Vinh, Vĩnh Long, và Xuân Lộc; nổi danh là Giáo Phận vinh thuộc quyền đức Giám Mục Cao Đình Thuyên qua vụ Tam Tòa.
b. Những Đặc Tính Cơ Bản Khiến Giáo Hội Vững Vàng và Bành Trướng:
  • Củng cố thường xuyên đức tin theo Thánh Kinh, Giáo Lý, qua tụng niệm và cầu nguyện, qua sự thể hiện thường xuyên Bẩy Bí Tích: Lễ Rửa tội, Lễ Thêm Sức, Lễ Trao và Thụ Lãnh Bánh Thánh, Lễ Xưng Tội- Ăn năn, Lễ Sơ Tẩy, Lễ Sức Dầu cho người bệnh nặng, Lễ Phong chức, Lễ Hôn Phối, và các Nghi lễ khác, nhất là tham dự Đại Lễ Thánh Giảng hàng tuần tại Nhà Thờ.
  • Tổ chức chặt chẽ, thống nhất nhưng phân quyền, qua ba tầng quyền Uy cơ bản: Giáo Hoàng, Giám Mục đầu Giáo Phận, và Linh Mục đầu Giáo Xứ. (Three basic levels of authority: world head, diocese head, local parish)
- Một Giáo Hội thống nhất, do Một Đức Giáo Hòang, biểu tượng cho Niềm Tin, Đạo Lý, có uy tín tuyệt đối và có quyền tối thượng lãnh đạo. Giáo Hoàng có một Hội Đồng Hồng Y làm Lực Lõi, dược chính Giáo Hoàng tuyển chọn, phong chức, trong số các Giám Mục lỗi lạc, đạo hạnh nhất của Giáo Hội, để lãnh các chúc vụ quan trọng đầu não của Giáo Hội, để cố vấn trực tiếp Giáo Hoàng, và để tuyển chọn Giáo Hoàng kế vị.
- Các Giáo Phận tự trị. Mỗi Giáo Phận có một vị Giám Mục do Giáo Hoàng bổ nhiệm lãnh đạo và chỉ huy, dưới quyền trực tiếp của Giáo Hội. Vị Giám Mục đầu Giáo Phận có sự phụ tá của nhiều Giám Mục, Linh Mục khác. Các Giám Mục họp thành Hội Đồng Giám Mục tại mỗi quốc gia, để trao đổi ý kiến và kinh nghiệm, cùng quyết định những vấn đề chung.
- Các Giáo Xứ. Mỗi Giáo Xứ lãnh đạo bởi một Vị Linh Mục do Đức Giám Mục Giáo Phận bổ nhiệm và quản trị. Linh Mục đầu Giáo Xứ có sự cộng tác của nhiều Linh Mục thuộc các nhà thờ trong Giáo Xú.
  • Có những cán bộ hoàn toàn thoát ly, chỉ có một nhiệm vụ chính là phục vụ Chúa, học đạo, truyền đạo và phục vụ tông đồ,
  • Huy động, vận dụng được hết các tinh hoa lỗi lạc của nhân sự trong Giáo Hội vào sứ mệnh phụng sự Giáo Hội và phục vụ Dân Chúa.
  • Nắm vững được Giáo Dân. Đội ngũ hóa các tầng lớp Giáo dân. Có những sinh hoạt thường xuyên. Huy Động và Vận Dụng sinh lực Giáo Dân vào các sinh hoạt củng cố niềm tin, và hoạt động phụng sự Nhà Thờ, Giáo Hội, cùng phục vụ Đồng Bào. Huy động sự đóng góp tài chánh theo phần trăm lợi tức của Giáo Dân vào qũy hoạt động của nhà thờ và Giáo Hội.
  • Mở nhiều cơ quan Từ thiện Vô Vị Lợi, huy động mọi sinh lực vào công tác, năng động hoá nhân sự. Tận thu được các đóng góp tài nguyên của các nhà hảo tâm, nhất là những người giầu có khi sống hay lúc sắp mất hiến dâng tài sản cho Giáo Hội. Nguồn tài nguyên lớn lao đó, vừa giúp cho người Cho bớt thuế, vừa giúp người Nhận bớt khốn khó, vừa là nguồn tài chánh chính của Giáo hội, lại vừa nâng tài sản Giáo Hội lên cao.
  • Có các Chủng Viện để tuyển chọn và huấn luyện cán bộ nòng cốt, theo trình tự các cấp.
  • Có các phái đoàn truyền giáo chuyên nghiệp, lỗi lạc, hy sinh, sống sát với mọi giới, mọi nơi, để cảm thông, ban ơn khi truyền đạo.
  • Mở nhiều Trường Học các cấp từ nhà giũ trẻ, tới Tiểu Học, Trung Học, Dại Học, để huy động nhân lực, truyền bá Giáo Lý, và mở cửa cho dân chúng đến với niềm tin, trong khi có thể lấy đó làm nguồn cho kinh tài.
  • Mở nhiều nhà thương, vừa có tính cách nhân đạo, vừa có tính cách kinh tài cho Giáo Hội. 
2. - Hệ Thống Tổ Chức Hạch Tâm Thể của Cụ Lý Đông A.
  • Hạch Tâm Thể là hình tượng của các hệ tế bào của các bộ phận trong cơ thể, khởi từ tế bào gốc của một noãn bào, mà phát triển lên thành hệ thống não tủy, thần kinh, xuơng, thịt trong con người, và các cơ quan, thành một con nguời toàn hảo, có các cơ năng của cơ thể, có sức sống trưởng thành lên, có tâm linh và có trí huệ.
  • Cơ thể Tâm Linh và trí Huệ được điều khiển bởi não bộ, tượng trưng cho Vị lãnh Đặo Tối Cao và Bộ Tham Mưu.
  • Tế Bào Gốc từ một phát triển lên thành hai, ba, và lũy tốc theo số nhân, và chuyên môn hóa thành các cơ năng, bộ phận, hệ thống trong con Nguời và thành một Con Người cò cơ thể, có tâm linh, trí huệ và sự sống.
  • Các tế bào, các loại, là các Đòan Viên, từ mỗi người đi kết nạp các Đòan Viên khác từ 1 thành 2, thành 3 rôi thành 9, thành 27, cứ thế lũy tốc bành trướng, theo sự thường xuyên kết nạp đòan viên mới, thành lập Chi Bộ mới. Các Chi Bộ liên hệ nhau thành mạng lưới nhiều hình nón. Mỗi Đoàn Viên Đầu là chóp một hình nón.
  • Các hình nón bành trướng khoảng ba đợt, lối 27 người, thì người sau không còn biết được người trước, nếu muốn giữ bí mật thì dùng Bí danh, ám số, nên có thể hoạt động bí mật, mà bảo toàn được tối đa lực lượng. Khi công khai cho gặp nhau thì mới biết mặt nhau, vá có khi biết mặt mà cũng không biết tên, chỉ biết bí danh.
  • Chỉ các cấp tối cao, được báo cáo nhân số, tổ chức bằng mật mã, mơi biết được lượng và phẩm của Tổ chức, nhưng cũng khôg thể biết hết được Đoàn Viên. Tuy vậy, hầu hết Đoàn Viên các cấp đều có Bí danh họ Thái. Khi thấy Bí Danh họ Thái, thì biết đó là Đảng Viên Duy Dân. Ngoài ra khi nói, khi viết, thì cán bộ Duy Dân thường phản ảnh những ngôn ngữ, tư tưởng mà ông Lý Đông A đã truyền bá, nên cũng có thể nhận ra đó là cán bộ Duy Dân, để dối xủ với nhau thân mật, hay kính trọng nhau như tình Đồng chí, rồi tư từ theo duyên mà biết nhau hơn.
3. - Khai dnụg mô thức tổ chức, sinh hoạt và hành động của Giáo hội La Mã, và Hạch Tâm Thể của Duy Dân , áp dụng cho Đảng dân Tộc VN
  • Đối Lực là một sự Liên Hợp các thành phần dân tộc trong và ngoài nước, có những đường lối, phương pháp đấu tranh, cương, nhu, khác nhau, nhưng cùng một mục tiêu là góp sức để Cứu Nước, Giữ Nòi. Mỗi thành phần là một tổ chức riêng, đứng trong Đối Lực để khi cần thiết có tiếng nói thống nhất, và cùng nhau phối hợp hành động hầu mong đất nước sớm thay đổi, tiến bộ.
  • Vì tình trạng thực tiễn, các thành phần dân tộc ở Hải Ngoại đến với nhau trước, từ ít, sang nhiều, mới đầu kín đáo, cho đến khi thấy đủ thì công khai tổ chức Đại Hội. Đại Hội là sự tập hợp các Đại Biểu của các thành phần dân tộc. Đại Hội quyết định chính sách chung, và quyết định nhân sụ cho các cơ cấu của Đối Lực.
  • Muốn Đối Lực hoạt Động hữu hiệu, cơ cấu phải chu đáo, có tính cách dân chủ trong đối nội, nhưng phải có hiệu lực trong hành động cứu quốc, vận động đồng bào và vận động quốc tế. động.
  • Mô Thức Giáo Hội La Mã chỉ áp dụng phần nguyên tắc phẩm hạnh, tổ chức, điều hành và sinh hoạt. Lãnh Đạo tối cao không thể là một người mà phải là một Hội Đồng, được Đại Hội bầu chọn.
  • Để đạt mục tiêu Cứu Quốc-Tồn Chủng, Hội Đồng Lãnh Đạo Tối Cao, phải là những người có tài năng, đạo hạnh, quyền biến, và những đặc tính biểu tượng giá trị của Dân Tộc. Các vị đó.nên có Rộng Quyền Trong hiện tình đất nước và thời đại, các vị đó lại cần có liên hệ quốc tế, và có khả năng vận dụng tài chánh của các Mạnh Thường Quân Quốc tê. Các Vị đó cũng cần bầu lên một Chủ Tịch của Chủ Tịch Đoàn, mà nhiệm kỳ tương đối ngắn, nhưng đủ để có thời gian thi hành nhiệm vụ.
  • Hội Đồng lãnh Đạo suy cử các nhân vật vào các Hội Đồng Chấp Hành, Hội Đồng Giám Sát và Kỷ Luật, Hội Đồng Vận Động Quốc tế, và Hội Đồng Vận Động Tài Chánh.
  • Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành (CT/HĐCH) phải là một trong các vị Hội Đồng lãnh Đạo, do Hội Đồng Lãnh Đạo suy cử. CT/HĐCH, thành lập Ban Chấp Hành, có quyền Lập Quy, ban hành các biện pháp Hành Chánh Đặc Biệt trước tình thế.
  • Đối Lực đề cử các nhân tài trong Tổ Chức mình đến CT/HĐCH , để vị này chọn lựa. Sau khi được chọn lựa, danh xưng của cá`c vị này là CÁN BỘ NÒNG CỐT của Đối Lực. CÁN BỘ NÒNG CỐT tạo thành Khối Lực Lõi của Đối Lực..
  • Các Chi Bộ phài sinh hoạt với nhau thường xuyên, tối thiểu một tuần một lần. Mỗi Chi Bộ tự hoạch định các chương trình kiện toàn và phát triển Đối Lực.
  • Mỗi Đoàn Viên phát triển Đối :Lực theo dây chuỗi Hạch Tâm Thể. Mỗi Hạch Tâm là một Chi Bộ. Các Chi Bộ phát triển và liên hệ nhau thành các Mạng Lưới Hình Nón, mà các Đoàn Viên khởi đầu tiên là chóp mỗi nón. Khi Đòan Viên đứng chóp cho mười Chi Bộ, Đoàn Viên đó trỏ thành Tổ Trưởng.

4. - Các Mô Thức Khác:

a. Tổ Chức Hệ Thống Chuyên Nghiệp, sinh hoạt theo tinh thần Team Work, song song với hệ thống Kim Tự Tháp và Hệ Thống Hạch Tâm Thể..
b. Hai Hệ Thống Chuyên Nghiệp căn bản là Hệ Thống Đặc Trách các chương trình Hành Động Cứu Quốc, và Hệ Thống Chuyên Viên Thiết Lập các Kế Họach Kiến Quốc./

5. - Kiểm điểm, chỉnh đốn, kiện toàn, tái tổ chức nhân sự các cấp hiện có để hoạt động hữu hiệu và đa năng hơn

A. Kiện Toàn Nhân sự :
- Kiện toàn cá nhân: Tu Dưỡng Tự Thắng. Mỗi Đoan Viên tự thân tu dưỡng cả ba mặt: Tâm Thức, Trí Thức và Thể Chất, cùng tự Điều Hợp cuộc sống giữa cá nhân, gia đình, tổ chức và xã hội, sao cho quân bình, thoải mái, an lạc và hạnh phúc, trong khi tích cực đấu tranh đạt mục tiêu cách mạng.

 * Tâm Thức: Là Đời Sống Tinh Thần của mỗi người, bao gồm triết lý sống, mục đích cuộc đời, ý chí vươn tới, tiêu chuẩn đạo đức, và cách sống hàng ngày. Triết Lý Sống của người làm cách mạng là hoàn hảo hoá cá nhân thành một Thiện Cụ để CỨU NƯỚC, GÌN NÒI, PHỤC VỤ HỮU HIỆU THA NHÂN. Mục Đích cuộc đời của chiến sĩ cách mạng là nuôi chí lớn: LẬP TÂM CHO TRỜI ĐẤT, LẬP MỆNH CHO NHÂN SINH, KẾ VÃNG, KHAI LAI; - Phóng tâm mình rộng lớn, mở hòa cùng vũ trụ; - Tạo dựng một sứ mệnh cho mình và cho cả dân tộc, nhân loại; - Tiếp tục con đường đi của Tổ Tiên, Ông, Cha, giữ nước, gìn nòi; - Mở lối tiến bộ, vinh quang cho tương lai, những đời sắp tới của con cháu. Ý Chí luôn luôn vươn tới , thắng không kiêu, bại không nản, Tự Chủ, Tự Thắng trong mọi trường hợp, hoàn cảnh. Đạo Đức tiêu chuẩn là Chơn, Thiện, Mỹ, thành tín với Mình, với Người trong mọi thái độ, hành vi; thấy đúng thì làm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất. Cách Sống hàng ngày là an lạc quyết tâm theo Trình Tự Biểu do chính mình chủ động hoạch định, và vô chấp với chung quanh. Tổng Thể các yếu tố đó hàng ngày Quân Bình, Xoáy Ốc vươn lên mãi trong suốt cuộc đời, tạo thành Tâm Thức An Lạc cho mỗi ngày. 

Mỗi ngày, mỗi Đoàn viên quyết dành cho mình tối thiểu ½ giờ trước khi ngủ, tĩnh tâm, để ôn lại hành vi, tư thái trong ngày, rút ưu khuyết điểm và Nguyện Lòng thăng hóa Tâm, Sinh Mệnh cho ngày mai.

 *Trí Thức: Là sự học hỏi, kinh lịch tích lũy và cách sống hướng thượng của mỗi người. Học hỏi có thể do Nhà Trường, sách báo, lời nói trao truyền của Thây, của Bạn. Kình Lịch do việc làm, do kinh nghiệm sống, sự từng trải mà có. Học hỏi và kinh lịch tạo nên kiến thức. Kiến Thức và Khoa bảng được vun trồng trong hành xử hướng thượng để góp phần làm cao đẹp chính minh vả xã hội, được người đời tôn là Trí Thức.

 *Thể Chất: Một Tinh Thần Minh Mẫn trong một Cơ Thể Khòe mạnh. Khí thở điều hòa, Ăn uống đủ chất dinh dưỡng theo khoa học của nhu cầu cơ thể, giữ khí tiết trung dung trong hành xủ, là yếu tố cơ bản để duy trì sức khỏe và sư tăng trưởng của cơ thể.

6. - Dự trù NHÂN SỰ KẾ TỤC, Tổ chức LỰC LÕI của Toàn Đối Lực.


KẾT LUẬN:
  • Trước Đại Họa Mất Nứơc mọi người Việt Nam trong và ngoài nước, quốc gia và cộng sản, tòan dân đều có bổn phận Cứu Quốc, Tồn Chủng, nghĩa là bảo vệ non sông, lãnh hải, và duy trì nòi giống.
  • Người Cộng Sản muốn bảo vệ non sông, nòi giống phải biết huy động sức lực của tòan dân trong và ngòai nước.
  • Muốn huy động sức tòan dân trong và ngòai nước, phải chủ động, cởi mở, chân thành hợp tác với mọi thành phần của dântộc, nhất là các tôn giáo và đảng phái chính trị.
  • Moị thành phần phải chung sức làm cho dân giầu nước mạnh, đem công ăn, việc làm, tạo ấm no, hạnh phúc cho tòan dân.
  • Để có thể tạo áp lực khiến cộng sản thay đổi, quốc tế giúp đỡ, và đóng góp hữu hiệu vào việc nước, những thành phần không cộng sản, trong, ngoài nước, phài chấm dứt chỉ trích nhau, chấp nhận nhau khác biệt, kể cả phương thức đấu tranh Cương hay Nhu, đến với nhau, hỗ trợ nhau, để hình thành một Đối Lực mạnh.
  • Đối Lực phải liên hòan thế hệ, lấy trung niên, thanh niên năng động trong và ngoài nước làm nòng cốt, thủ tục hình thành theo quy tác dân chủ, nhưng có phương pháp tổ chức, điều hành, sinh hoạt hữu hiệu, với những nhân sự có đức hạnh và lòng yêu nước.
  • 'Đối Lực có thể chọn bất cứ danh xưng nào hoặc như Liên Minh Dân Tộc, Lực Lượng Dân Tộc, Lực Lượng Cứu Nguy Tổ quốc v.v.. tùy đa số các thành viên tham dự.
  • Có 6 cơ cấu cần thực hiện:
  1. Hội Đồng Đại Diện
  2. Hội Đồng Lãnh Đạo
  3. Hội Đồng Điều Hợp hay Hội Đồng Chấp Hành.
  4. Hội Đồng Giám Sát và Kỷ Luật.
  5. Hội Đồng Yểm Trợ Tài Chánh.
  6. Hội Đồng Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do.
  • Phải có Ban Vận Động, lấy Trung Niên, Thanh Niên làm nòng cốt, các vị có uy tín, quen biết làm trợ lực..
  • Người Hải Ngoại đã đến lúc phải hành động cụ thể trong công cuộc Cứu Quốc-Tồn Chủng, hơn là chỉ nói suông. Các nhà yêu nước trong nước như Dân Oan, các Tôn Giáo, các Nhân Sĩ và Trí Thức, các Nhà Đấu Tranh Dân Chủ đã đứng lên. Tuổi trẻ đã kiên cường vùng dậy, quyết tử để Dân Tộc quyết sinh. Người Hải Ngoại không thể mãi chia rẽ, bất lực. Hành Động đầu tiên là hình thành Đối Lực vế Hải Ngoại trứớc, bao gồm cả Cương, lẫn nhu.
  • Lý tưởng đấu tranh của Đối Lực là lấy Dân Tộc làm căn bản và Con Người làm Cứu Cánh (Dân Tộc, Nhân Chủ), khai triển tư tưởng truyền thống của Tổ Tiên, và kết hợp các kiến thức của thời đại. Cụ thể là quyết xây dựng con người tòan diện cả các mặt Tinh Thần, Trí Tuệ, Thể Chất cho phong phú và tạo dựng cho toàn dân trong nước có một đời sống Ấm No, An Vui, Hạnh Phúc.
  • Mục Tiêu của Đối Lực là Cứu Nứơc, Giữ Nòi , Lập Trường của Đối Lực là thiết lập một chế độ mới thực sự Tự Do, Dân Chủ trong Nhân Chủ., Chủ Trương của Đối Lực là trực tiếp yểm trợ cho các nhà đấu tranh Dân Chủ trong nước, và Tìm một giải pháp choViệt Nam.
  • Đường Lối và Phương Thức đấu tranh của Đối Lực vừa theo đuổi Lý Tưởng đã vạch, vừa uyển chuyển theo thực tiễn của tình thế Quốc Tê, Quốc Nội, để sao bằng hành động thực hiện được mục tiêu cứu nứơc, giữ nòi.
  • Đối Lực khai triển hai Mô Thức Tổ Chức và hai Mô Thức Sinh Hoạt. Hai Mô Thức tổ chức là Mô Thức Giáo Hội La Mã, theo dạng thức Hình Kim Tự Tháp và Mô Thức Hạch Tâm Thể theo dạng thức Hình Nón cùng Mạng Lưới. Hai Mô Thức sinh hoạt là Mô Thức Lãnh Đạo Chỉ Huy Phân Quyền nhưng Nhất Thống theo Giáo Hội La Mã và Dân Chủ Đồng Nhất theo Team-Work và Net-Work.
  • Đối Lực, tùy sức mạnh của chính mình, tuỳ thái độ của nhà đương quyền và đảng cộng sản Việt Nam, tùy tình hình quốc tế, có thể khai triển ba mô thức đấu tranh: Diễn Biến Hòa Bình, Đảo Chính Lật Đổ, hay Cách MạngTổng Nổi Dậy.

Tiến Sĩ Hà Thế Duyệt

Sơ thảo: 5-6-2013 tại Bệnh Viện Kaiser khi vừa mổ tim xong.

Biên soạn tại tư gia, Newbury Park, CA, trong thời gian dưỡng bệnh.

Tạm kết: 6-30-2013, Gửi đi: 7-04-2013, ngày Lễ Độc Lập của Hoa Kỳ

Xin phổ biến rộng rãi để mọi người cùng góp ý, đồng hành.

 

KÊU GỌI HÌNH THÀNH HỢP LỰC

 

Hà Thế Ruyệt

 

Dầu có khó ta không bỏ cuộc,

Dầu gian nguy ta chẳng sờn lòng,

Người ngần ngại không cùng tiến bước,

Nhưng thâm tâm chắc thích HÒA ĐỒNG.

Ta tin thế, không buông nguyện ước,

Kêu mọi người hợp sức, góp công,

Cùng tiến tới vun trồng ĐỐI LỰC,

Ngày thêm gần tới mức chờ trông.

Ta vẫn quyết GIỐNG GIÒNG PHẢI CỨU,

Bằng KẾT ĐOÀN TÌM MẪU SỐ CHUNG,

Bằng vận động Tây Đông, ủng hộ,

Đưa Việt Nam đến chỗ thịnh cường,

Đưa Tụ Do đến trường ngôn luận,

Đưa ấm no đến chốn vẹn toàn.

Phải HỢP LỰC mới toan CỨU NƯỚC,

Phải kết đòan mới được vinh quang,

TRONG, tin tưởng, gia tăng tranh đấu,

NGOÀI,vui vầy, kết cấu hiệu năng,

Tầu xâm lược phải ngưng đồng hóa,

Giống giòng Nam dễ xoá được chăng?

x

Hy vọng lớn, khó khăn không nản,

Xin mọi người dọn sẵn tâm thành,

Đến với nhau đua tranh đoàn kết,

Đến với nhau tha thiết vì dân,

Cương và nhu phân thân, phối triển,

CỨU GIỐNG NÒI, vinh hiển Việt Nam.

 

Newbury Park 8-16-2013

Hà Thế Ruyệt

17 Tháng Ba 2014(Xem: 6721)
Theo đề nghị của phía Hoa Kỳ, ngày 14/3, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã có cuộc trao đổi qua điện thoại với ông Denis McDonough, Chánh Văn phòng Nhà Trắng theo ủy quyền của Tổng thống Barack Obama.
23 Tháng Hai 2014(Xem: 8260)
Nếu mâu thuẫn chính xuyên suốt gần như toàn bộ thế kỷ 20 vừa qua là mâu thuẫn ý thức hệ mà hình ảnh tiêu biểu nhất là cuộc Chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản chủ nghĩa – đứng đầu là Mỹ - và khối xã hội chủ nghĩa – đứng đầu là Liên Xô – với hai điểm nóng bùng nổ ở Triều Tiên trong ba năm 1950-53 và ở Việt Nam trong hai mươi năm 1954-1975 thì mâu thuẫn chính trong thế kỷ 21 này là gì?
20 Tháng Hai 2014(Xem: 6777)
Như một điểm tương hòa tao ngộ, một tuần trước phiên xử Lê Quốc Quân đã xuất hiện Quỹ Yểm trợ - kết nghĩa với tù nhân lương tâm Việt Nam, do những người vận động cho dân chủ và nhân quyền như tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng sáng lập ở Hoa Kỳ.
13 Tháng Hai 2014(Xem: 19232)
Theo hãng tin Pháp AFP hôm nay 03/02/2014, trả lời trong chương trình « Le grand Genève à chaud » của đài truyền hình Léman Bleu tối qua, cựu lãnh sự Việt Nam tại Genève, ông Đặng Xương Hùng cho biết đã nộp đơn xin tị nạn chính trị tại Thụy Sĩ.
08 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 9165)
Xét trên phương diện tâm lý, cuộc chiến tranh Việt-Mỹ có thể ví như một cơn nhập đồng tập thể. Một cá nhân, trong trạng thái nhập đồng, có thể làm được những điều mà bình thường họ không thể nào làm nổi. Khi trạng thái nhập đồng chấm dứt, con người cũng đánh mất khả năng ấy.
05 Tháng Mười Một 2013(Xem: 75768)
Gần ba mươi nhà văn, nhà báo quân đội chia làm năm nhóm, mỗi nhóm hoàn thành một tập bản thảo. Tôi và nhà văn Đào Thắng được bổ xung về Ban ở giai đoạn cuối và làm tập năm do nhà văn, thượng tá Nam Hà làm trưởng nhóm. Gặp gỡ các tướng lĩnh, những người hoạch định các chiến dịch, những người chỉ huy những trận đánh. Đọc hồi ký của các tướng lĩnh quân đội miền Bắc, quân đội miền Nam, quân đội Mỹ. Sục vào các kho hồ sơ lưu trữ...
01 Tháng Mười Một 2013(Xem: 8962)
Thành viên Mạng lưới blogger Việt Nam vừa trao Tuyên bố 258 về nghĩa vụ nhân quyền của Việt Nam cho Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (OHCHR). Chiều thứ Tư 31/7, sáu blogger Việt Nam đã có cuộc gặp với bà Maria Isabel Sanz Garrido, thuộc Văn phòng Đông Nam Á của Cao ủy Nhân quyền LHQ, tại Bangkok, Thái Lan.
24 Tháng Mười 2013(Xem: 7480)
Liệu có phải bước chân của dòng người trầm lắng và khoan thai lặng lẽ trên đường Điện Biên Phủ vòng về đường Hoàng Diệu để đến được ngôi nhà số 30, nơi con người huyền thoại ấy từng dồn nén suy tư về ngổn ngang việc nước cũng đang vẽ nên một bước đi của lịch sử?
21 Tháng Mười 2013(Xem: 9104)
Chúng ta cũng cảnh cáo trước: những tổ chức xã hội dân sự quốc doanh trong Mặt trận Tổ quốc, hoặc bất cứ hình thức nào dù chìm hay ‘lơ lửng nổi’ nhằm giúp Hà nội thực hiện dân chủ bịp bợm, đều là phản động và sẽ lụn bại vì ‘hồn Trương Ba da hàng thịt’
07 Tháng Mười 2013(Xem: 7697)
Từ trong tù, Tiến sỹ luật Cù Huy Hà Vũ vừa gửi kiến nghị Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 dài 20 trang tới Quốc hội Việt Nam.
01 Tháng Mười 2013(Xem: 9142)
ản tin của hãng thông tấn AP ngày 9.5.2013 liên quan đến một “vụ án nón cối” trong cộng đồng ngưới Việt ở tiểu bang Washington đã được các báo Mỹ đăng lại dưới những đầu đề khác nhau, chẳng hạn như “Các Thẩm Phán TCPV phục hồi lại số tiền thưởng cho người bị cho là cộng sản” (Justices reinstate award for alleged communist) hay “Tòa án cao cấp Washington đã phục hồi số tiền $310.000 do bồi thẩm đoàn ban cho người đã kiện 5 người gọi ông ta là cộng sản” (Washington high court reinstates $310,000 jury award to man who sued five for calling him communist), v.v.
24 Tháng Chín 2013(Xem: 8598)
Như quý vị đã biết, San Jose đang có dự án thực hiện một bức tường tưởng niệm tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong chiến tranh.
18 Tháng Chín 2013(Xem: 8793)
Để tưởng niệm vị vĩ nhân tranh đấu cho nhân quyền và dân quyền Martin Luther King, Jr. vào 50 năm trước, tôi mạn phép viết lời giới thiệu và cố gắng chuyển ngữ bài diễn văn lịch sử "Tôi Có Một Giấc Mơ" để mời quý vị thưởng lãm dưới đây. (Ngô Kỷ)
28 Tháng Tám 2013(Xem: 19939)
Khi tuổi trẻ không còn hy vọng, tham vọng tương lai hay cơ hội trong đời sống và lũ cầm quyền cố ý làm ngơ hay ngầm khuyến khích thì chúng chui đầu vào SEX hay DRUGS và như vậy là thoái hóa, băng hoại và tiêu hủy cả một thế hệ VN
28 Tháng Tám 2013(Xem: 20437)
Có cô bé mới 15 tuổi mà một ngày ba lần vào nhà nghỉ với ba cậu bồ khác nhau. Mang đồng phục học sinh mà “thành tích” như thế, chúng tôi thấy sợ…”, anh Hải - nhân viên nhà nghỉ ở đường Trần Duy Hưng, Hà Nội nói.
11 Tháng Tám 2013(Xem: 7993)
Trận ĐBP có thể được lãnh đạo khác hơn như thế không? Người ta phải tăng viện, như đã làm, cho đồn lũy và kéo dài cuộc kháng cự gần như tuyệt vọng hay không? Hay đúng hơn có thể phải di tản sớm hơn? Có thể giải cứu từ bên ngoài hay không? Có nhiều câu hỏi cần giải đáp.
26 Tháng Sáu 2013(Xem: 11718)
Bài này trích dịch trong cuốn Agonie de l’Indochine của Đại tướng Navarre, Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp tại Đông Dương từ đầu tháng 5-1953 cho tới đầu tháng 6-1954. Ông được triệu hồi về Pháp sau khi Điện Biên Phủ thất thủ 7-5-1954.
24 Tháng Sáu 2013(Xem: 11467)
Chiến tranh toàn quốc kháng chiến bùng nổ ngày 19-12-1946, những năm 1947, 1948 Việt Minh (VM) nói chung yếu, họ rút vào những chiến khu tiêu thổ kháng chiến.
24 Tháng Sáu 2013(Xem: 8272)
Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất 1946-1954 kết thúc sau khi Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ 7-5-1954 và ký Hiệp định Genève 20-7-1954.