VĂN HÓA ONLINE - VĂN HỌC NGHỆ THUẬT - THỨ SÁU 08 NOV 2024
Văn Chương viết lại Lịch Sử?
Lý Kiến Trúc
VĂN HÓA ONLINE
08/11/2024
*
LTS: Trong số báo trước, ở mục VĂN HỌC NGHỆ THUẬT, chúng tôi có đi một tựa đề Nhà văn Trần Thùy Mai: “Công chúa Đồng Xuân” tái ngộ bạn đọc. Thật ra, không đúng. Vì nội dung bài viết trên báo chưa đề cập đến tác giả và tác phẩm. Xin lỗi quý bạn đọc. Chẳng qua đó là mánh lới câu ‘khách’ của nghề báo.
Qua hai bài viết của hai nhà văn trong nước Phạm Xuân Nguyên và Bạch Diệp ‘nhận định’ về cuốn tiểu thuyết “Công Chúa Đồng Xuân” – dường như đã hé lộ phong cách văn chương của nhà văn Trần Thùy Mai lồng trong tư tưởng chính trị.
Nhưng có lẽ cũng như đủ, nếu tòa soạn chưa cập nhật hết ‘nhận định, phê bình và phỏng vấn’ của các cây bút trong nước mà chúng tôi nhận được.
Do vậy, trong số báo hôm nay, chúng tôi đăng tải tất cả các bài viết trong nước, để sau đó chúng ta bước vào toàn bộ cuốn tiểu thuyết lịch sử “Công Chúa Đồng Xuân”.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin nhắc lại – với sự đồng ý của Nhà văn Trần Thùy Mai, bộ tiểu thuyết ‘Từ Dụ Thái Hậu' gồm Quyển Thượng và Quyển Hạ lần đầu tiên đã đăng toàn bộ trên Văn Hóa Online với hàng chục ngàn lượt bạn đọc theo dõi.
Cảm ơn Nhà văn Trần Thùy Mai với tất cả sự quý trọng về một nhà văn thừa hưởng được “Cái Dũng của Thánh nhân” –- cây bút dũng cảm đã dùng văn chương để viết lại lịch sử vốn đã ‘méo mó’ tràn lan gần một thế kỷ.
* Trên mục DIỄN ĐÀN VĂN CHƯƠNG do Văn Hóa Online đề xuất, chúng tôi cũng hoan hỷ đón nhận các bài viết của quý thân hữu ‘nhận định và phê bình’ cuốn tiểu thuyết “Công Chúa Đồng Xuân”.
Trân trọng. (lkt/chủ nhiệm, chủ bút).
Xin gởi về địa chỉ: lykientrucvh@gmail.com
Tác giả Trần Thùy Mai
https://www.nhatbaovanhoa.com/a12223/tran-thuy-mai-tu-du-thai-hau
**
Diệu Hà: Tiểu thuyết Lịch sử “Công Chúa Đồng Xuân”, bản hòa ca tuyệt vời của Văn và Sử
Những ngày Tết Quý Mão, Huế mưa, mừng thầm là sẽ không đi đâu hết,
dành thời gian đọc bộ tiểu thuyết lịch sử hai tập “Công chúa Đồng Xuân” của nhà
văn Trần Thùy Mai. Nhưng tết mà, khó dành riêng một cõi cho sách. Đặc biệt với
hai tập sách dày 700 trang thì không thể đọc vài ba trang rồi buông sách để “hòa
vào không khí tết” mà phải dành một sự trọn vẹn, tĩnh tâm để đọc.
Người chọn viết văn dạng “tiểu thuyết lịch sử” phải là người đọc nhiều,
nắm chắc vấn đề, sự kiện, nhân vật lịch sử mà mình dựa vào để viết thành một tác
phẩm văn học. Với thành công của bộ tiếu thuyết lịch sử “Từ Dụ Thái hậu” dày hai
tập, nhà xuất bản Phụ Nữ ấn hành năm 2019, đạt giải Sách hay năm 2020, thì tin
vui đầu năm 2023 nhà văn Trần Thùy Mai ra bộ tiểu thuyết lịch sử thứ hai của
mình “Công chúa Đồng Xuân” làm bạn đọc mong chờ, hồi hộp.
Tôi đã đọc “Công chúa Đồng Xuân” những ngày sau tết trong sự trân trọng,
nâng niu từng trang sách. Càng đọc càng cuốn hút. Sức cuốn hút ấy, không phải
đến từ chuyện tình của một nàng công chúa triều Nguyễn mà chính những sự kiện
lịch sử- những nhân vật lịch sử cùng với nội tâm, tính cách của họ và lối kể chuyện
duyên dáng của nhà văn đã làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Trước hết là sự hòa quyện thật mềm mại giữa yếu tố xác thực của sự kiện
và nhân vật lịch sử với yếu tố hư cấu, tưởng tượng của văn học, đó là con đường
“chông chênh” giữa thực và ảo, giữa những gì đã xảy ra và thực tại xảy ra trong
giả định của nhà văn. Lịch sử triều Nguyễn được kể trong “Công chúa Đồng Xuân”
bắt đầu từ thời vua Tự Đức cho đến thời vua Thành Thái (từ 1847 đến 1889). Đó
là giai đoạn đầy biến động, đau thương trong hơn 40 năm với nhiều mối tơ vò:
đất nước đứng trước nạn xâm chiếm thuộc địa của người Pháp, triều Nguyễn mất
dần quyền lực và chấp nhận nền bảo hộ của Pháp, vua Tự Đức đau đáu với vận
nước đến sinh bệnh, văn thân- sĩ phu yêu nước đứng lên khởi nghĩa khắp nơi và
thất bại, triều đình mất đoàn kết, chia phe: chủ hòa và chủ chiến, nội bộ hoàng
tộc bế tắc và loạn lạc với cảnh “bốn tháng ba vua”. Có thể nói là quá dày đặc các
sự kiện. Những trận chiến bi hùng như Đại đồn Kỳ Hòa, hai lần Pháp đánh thành
Hà Nội, khởi nghĩa Chày Vôi, thất thủ Kinh đô, Hịch Cần Vương, Lệnh cấm đạo,
bình Tây sát Tả cùng với những nhân vật lịch sử nắm giữ vận mệnh và đường đi
của đất nước: vua Tự Đức, Thái Hậu Từ Dụ, Phan Thanh Giản, Nguyễn Trường Tộ,
Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Tri Phương... Sắp xếp lớp lang
những sự kiện lịch sử ấy cùng với sự xuất hiện của những nhân vật có thật vào
đúng thời điểm, đúng vị trí và hoàn cảnh, rồi xây dựng nhân vật hư cấu (Nguyễn
Chí, Cúc Tần), Trần Thùy Mai đã hoàn thành xuất sắc kết cấu một tiểu thuyết lịch
sử bảo đảm được hai yếu tố: lịch sử xác thực và hư cấu hợp lý.
Với nhân vật công chúa Đồng Xuân, lựa chọn công chúa để làm nhân vật
chính cho bộ tiểu thuyết, ban đầu tôi cứ suy nghĩ mãi, có lẽ trái tim đầy thương
cảm và khát khao minh oan, công bằng cho nàng công chúa bạc phước đã thúc
giục Trần Thùy Mai chọn công chúa Đồng Xuân là nhân vật chính. Nhưng càng
đọc, bức tranh lịch sử càng mở rộng ra: những trận đánh, những cái chết tức tưởi
vì thua kém về vũ khí, tang thương, bước chân xâm lược của người Pháp, nỗ lực
trong tuyệt vọng của vua Tự Đức, bế tắc khi lựa chọn con đường cứu nước của
triều đình nhà Nguyễn, giằng dai mấy mươi năm giữa hòa hay chiến, hòa để canh
tân hay chiến đến cùng.. thì tôi nhận ra nhà văn Trần Thùy Mai lựa chọn Công
chúa Đồng Xuân làm trục chính kết nối các sự kiện, các nhân vật là lựa chọn xuất
sắc. Nhiều bạn đọc cho rằng công chúa Đồng Xuân xuất hiện không nhiều (nhân
vật chính phải xuất hiện nhiều!) và chính cái tài của nhà văn Trần Thùy Mai đã làm
cho lựa chọn của bà thành công. “Công chúa Đồng Xuân” vẫn là nguyên cớ để các
nhân vật lịch sử xuất hiện: vua Tự Đức, Thái Hậu Từ Dụ, gia đình danh tướng
Nguyễn Tri Phương, anh ruột Gia Hưng quận công Hồng Hưu (người đứng đầu
phái chủ hòa), gia đình Tùng Thiện Vương và từ những nhân vật ấy, câu chuyện
lịch sử Việt Nam hơn 40 năm cuối thế kỷ XIX đầy giông bão được kể lại rõ ràng,
gọn gàng, đan xen với yếu tố hư cấu của văn học mềm mại làm người đọc, đọc
chuyện sử mà thấy vô cùng cuốn hút.
Có một sự đồng cảm lớn lao của bạn đọc với tác giả là chúng ta ngày nay đã
có một độ lùi cần thiết để nhìn nhận lại các sự kiện lịch sử diễn ra trước đó. Nhà
văn Trần Thùy Mai đã viết 700 trang giấy để giải oan cho “cuộc biển dâu” của
nàng công chúa Đồng Xuân. Sử sách chỉ ghi vài dòng vắn tắt về tiểu sử của nàng:
tên gọi, tên chồng, số con, “chồng mất, nàng thông dâm với anh khác mẹ nên bị
phế làm thứ nhân. Đến đời vua Đồng Khánh phục vị Công chúa”. Chữ nghĩa lạnh
lùng, không lời giải thích tại sao vua Đồng Khánh phục vị công chúa cho nàng? Hai
sử liệu gốc của triều Nguyễn là Đại Nam Thực Lục và Đại Nam Liệt Truyện, không
có dòng nào khẳng định có xét xử và kết luận có tội ấy, chỉ ghi mơ hồ “Gia Hưng
quận vương, Công chúa Gia Phúc bị tội như vậy, như vậy… là do có người tố giác”.
Nhà văn Trần Thùy Mai đã dùng quyền “suy đoán vô tội” để gỡ bỏ “vòng kim cô”
loạn luân, giải oan cho nàng công chúa bạc phước. Vụ án này làm người đọc nhớ
đến một vụ án rúng động đầu triều Nguyễn mà nhân vật có liên quan đến ngai
vàng, đó là vụ thông dâm của Hoàng tôn Mỹ Đường và mẹ ruột là Vương phi họ
Tống. Hoàng tôn Mỹ Đường và công chúa Đồng Xuân, họ có tội không hay họ là
“con dê tế thần” trong cuộc giành giật ngai vàng, vần xoay chính trị? Còn những
“nạn nhân chính trị triều Nguyễn” nào nữa bị ghi tên vào sử sách với vài dòng tội
trạng mơ hồ về chứng cứ? đó là câu hỏi mà bạn đọc sẽ tự vấn, hoài nghi sau khi
gấp sách “Công chúa Đồng Xuân”.
Trong thể loại tiểu thuyết lịch sử, “Công chúa Đồng Xuân” đã đạt được kỷ
lục khi được tái bản chỉ sau hơn một tháng phát hành. Sống giữa thời điện tử,
internet, số hóa như hiện nay, sách giấy in ra phát hành được là rất khó. Phải thật
hay, thật có ấn tượng và giá trị mới làm được điều đó. Tái bản “Công chúa Đồng
Xuân” không chỉ là tin vui cho tác giả, nhà xuất bản mà còn là nguồn động viên lớn
cho những người cầm bút, sách giấy vẫn có vị trí trong sự lựa chọn và niềm yêu
thích của bạn đọc. Với riêng nhà văn Trần Thùy Mai, để có hai bộ tiểu thuyết “Từ
Dụ Thái Hậu” và “Công chúa Đồng Xuân” gây tiếng vang lớn như đã và đang xảy
ra, bà như con ong chăm chỉ, tích lũy kiến thức từ hàng mấy chục năm trước bằng
việc đọc nhiều sách chính sử, tham khảo, so sánh, đối chiếu tài liệu từ nhiều
nguồn, bà cũng phải đi từ truyện ngắn viết về triều Nguyễn, đến bây giờ vững chãi
bước vào lãnh địa tiểu thuyết lịch sử và càng viết bà càng chứng tỏ một nội lực
mạnh mẽ và cách làm việc khoa học.
Một thành công nữa trong “Công chúa Đồng Xuân” là nhà văn Trần Thùy
Mai đã sử dụng nguồn suối mát của văn học dân gian trong “tác phẩm cung đình”
của mình, bạn đọc ngày nay thấy dễ hiểu và gần gũi hơn với “Công chúa Đồng
Xuân” khi biết rằng các bà mạ cung đình hay dân gian cũng đều dùng ca dao, tục
ngữ để dạy con gái. Tôi đặc biệt thích thú khi đọc đến những đoạn các phu nhân
dùng ca dao để dạy con “Lấy chồng thì phải theo chồng/ Chồng đi đường rắn,
đường rồng cũng đi”, “Con vua... lấy thằng bán than/ Nó đem lên ngàn cũng phải
đi theo”, “Thương chi bằng nỗi thương con/Nhớ chi bằng nỗi gái son nhớ chồng”,
đó là những dòng nước mát, róc rách, nhẹ nhàng trong khung gian cung cấm, phủ
đệ.
Gấp sách “Công chúa Đồng Xuân”, tôi thấu hiểu thêm về một thời kỳ
lịch sử của đất nước: bi hùng, đau thương, uất nghẹn và cũng đầy tiếc nuối bởi
lịch sử không bao giờ có chữ “giá như”. Tôi cũng tin rằng “Công chúa Đồng Xuân”
đã khơi dậy nhiều cảm xúc với lịch sử trong lòng bạn đọc, sẽ có nhiều người tìm
sách về lịch sử và yêu thích bộ môn này, đó cũng là sứ mạng của những nhà văn
đã chọn sáng tác văn học dựa trên lịch sử.
Ngọc quý cũng lầm bụi, cũng tan nát thì làm sao nói hết những đau
thương của đời cát đá thường dân ở một đất nước nông nghiệp trước nạn xâm
chiếm thuộc địa của người Pháp, nhìn rộng ra thế giới, những quốc gia nghèo nàn
và lạc hậu, lịch sử giai đoạn này cũng đã viết những trang tang thương, bi hùng
trước sự xâm lược của những nước lớn. Lịch sử cho ta thấy yêu nước cũng chưa
đủ mà phải nắm bắt được vòng quay của thế giới, vận mệnh đất nước ra sao. Sau
khi vua Thành Thái lên ngôi năm 1889, nhà văn Trần Thùy Mai đã “hé lộ” một một
cánh cửa mới với đoạn kết là sự xuất hiện của ba thầy khóa quê ở Hà Tĩnh, Nghệ
An, Quảng Nam vào Huế tham gia thi Hội.
Phải chăng đó là một lời giới thiệu ngầm đầy duyên dáng cho bộ tiểu thuyết tiếp theo?!
Kim Nhung: Công chúa Đồng Xuân; lấp đầy lịch sử bằng những ước đoán
09:45 03/02/2023
Công chúa Đồng Xuân của nhà văn Trần Thuỳ Mai, có thể được xem là phần tiếp theo của Từ Dụ thái hậu, cùng với Từ Dụ thái hậu hợp thành bộ tiểu thuyết lịch sử đầy đủ về triều Nguyễn.
Nhà văn Trần Thuỳ Mai từng được nhắc đến là cây bút văn xuôi nữ hàng đầu thời hậu chiến. Theo thời gian, dòng chảy văn chương Việt Nam có nhiều thay đổi nhưng bà vẫn luôn duy trì được nội lực của mình và xuất hiện đều đặn trên văn đàn. Năm 2019, bộ tiểu thuyết lịch sử viết về triều đình nhà Nguyễn Từ Dụ thái hậu của bà ra mắt bạn đọc, ngay sau đó tác phẩm đã giành được giải nhất Cuộc thitiểu thuyết lần thứ năm (2016-2019) của Hội Nhà văn Việt Nam.
Nhà văn Trần Thùy Mai chọn viết về công chúa Đồng Xuân bởi vụ án này kết thúc xung đột giữa hai phái chủ hòa và chủ chiến của triều Nguyễn. Ảnh: Nxb Phụ nữ Việt Nam. Nếu Từ Dụ thái hậu là thời thịnh Nguyễn (trải 30 năm, từ Gia Long đầu triều đến đầu thời Tự Đức), thì Công chúa Đồng Xuân tái hiện khoảng 40 năm đầy biến động tang thương trải từ năm 1859 đến năm 1900. Đây là một cuốn tiểu thuyết đồ sộ 66 chương với hàng trăm nhân vật, đa phần là các nhân vật có thật trong lịch sử. Nhân vật Từ Dụ có cuộc đời trải dài suốt triều Nguyễn, trong Công chúa Đồng Xuân vẫn là một nhân vật mang tính nền tảng. Khác với Từ Dụ thái hậu đặc tả chuyện cung đấu, chuyện quân thần thời thịnh trị; Công chúa Đồng Xuân theo dòng lịch sử kể lại những chính biến kinh hoàng, với xương sống là việc thực dân Pháp dần chiếm nước ta, biến nước ta thành một nước bị đô hộ, triều đình nhà Nguyễn mất dần quyền lực và trở thành con rối trong tay quyền thần, Pháp súy. Khá rõ ràng và kiên quyết, không ít đau tiếc ngậm ngùi, tiểu thuyết đưa ra quan điểm của tác giả về một sự “lỡ vận” của đất nước, khi quốc sách sai lầm, triều đình do dự quá lâu không nghe theo hiến từ kiến quốc của các trí thức quan lại có tầm nhìn tiến bộ (về việc canh tân đất nước, củng cố quốc phòng, mở rộng giao thương, hòa hoãn để hạn chế thương vong chiến tranh...). Quốc sách cố chấp và bạc nhược đã khiến các vua Nguyễn dần đi vào ngõ cụt, cắt đất dâng dần cho Pháp, chịu nhiều chiến phí; nhiều cuộc nổi loạn và binh biến diễn ra liên miên, đặc biệt là xung đột với dân Đạo, làm rối ren và suy kiệt đất nước. Có thể nói qua tiểu thuyết Công chúa Đồng Xuân, người đọc có dịp nhìn lại đầy đủ và thấu đáo sử Việt thời đầu Pháp thuộc, từ đó nhìn thời hiện đại một cách biện chứng hơn.
Tác phẩm mang đến cho bạn đọc nhiều góc nhìn, nhiều cảm nhận khác nhau trong đó có sự cảm thương cho đất nước trong những giai đoạn thăng trầm của của lịch sử. Có bi hùng, có đau thương và trên hết là sự tiếp cận thấu suốt hơn với người thời trước.
Tại buổi ra mắt sách, nhà văn Trần Thuỳ Mai chia sẻ: bà chọn nhân vật là công chúa Đồng Xuân vì vụ án Đồng Xuân là sự kết thúc của hai phe chủ chiến và chủ hoà giai đoạn Pháp xâm lược nước ta, cô chỉ là cái cớ giữa hai phe xung đột chứ không có chứng cớ cô “hoà gian”. Trong quá trình tìm hiểu, Trần Thuỳ Mai cảm thấy đây là vụ án rất đáng thương xót, con người cần được xét xử công bằng hơn, và nhân đạo.
Bà quan niệm, thời chiến cần tự tôn để khẳng định sức mạnh nhưng thời bình cần điềm tĩnh nhìn lại để thấy mọi thứ một cách công bằng và sáng suốt hơn.
Nhà văn Trần Thuỳ Mai ghi chép và thuộc nhiều ca dao, vè thời xưa về triều đình nhà Nguyễn trong quá trình sưu tầm tư liệu văn học dân gian. Từ Dụ và Tôn Thất Thuyết là hai nhân vật xuất hiện nhiều trong những tư liệu mà bà có được. Sau khi viết về Từ Dụ thì bà muốn viết tiếp về Đồng Xuân, nàng công chúa mà cuộc đời còn nhiều khuất khúc, trong giai đoạn đó cũng có nhiều mốc lịch sử quan trọng. Tôn Thất Thuyết cũng là nhân vật quan trọng của giai đoạn lịch sử ấy. Pháp xâm lược, triều đình phe chủ chiến phe chủ hoà, qua cách nhìn và cách xây dựng tiểu thuyết của nhà văn, mỗi người sẽ có những nhìn nhận riêng, bài học riêng.
Nhà văn Trần Thuỳ Mai muốn lấp đầy lịch sử bằng những ước đoán, hư cấu trên cơ sở lịch sử. Bà khẳng định mình không muốn và không thể làm thay công việc của nhà sử học, mà theo bà, tiểu thuyết lịch sử sẽ làm cho người ta hứng thú với lịch sử hơn và muốn tìm hiểu về giai đoạn đó.
Công chúa Đồng Xuân đề cập đến những vấn đề lịch sử quan trọng và dữ dội xoay quanh cuộc đời của một nàng công chúa. Đó là công chúa Gia Phúc hay Đồng Xuân, con gái của vua Thiệu Trị. Lịch sử ghi lại, bà có tai tiếng “hòa gian” với chính người anh ruột cùng cha khác mẹ của mình. Vụ tai tiếng đó, cùng với án thông dâm của vương phi họ Tống với con trai là Mỹ Đường, cũng như nghi án vua Tự Đức là con trai của Trương Đăng Quế và Từ Dụ thái hậu, là những nghi án lớn nhất triều Nguyễn. Và như ở cuốn tiểu thuyết trước, tác giả đưa ra câu chuyện của mình để chiêu tuyết cho nàng công chúa tội nghiệp, với cái nhìn nhân hậu, thấu suốt, thuyết phục. Ngoài ra, tác giả chủ ý đặc tả các nhân vật nữ trong thành nội ở một khía cạnh khác, thật hơn, “đời” hơn. Bên cạnh diễn tiến sục sôi của mạch chính trị, câu chuyện về một nàng công chúa xinh đẹp, phóng khoáng và đầy sức xuân nơi cung cấm nghiêm cẩn hà khắc, với cuộc đời đầy ắp thăng trầm, giữa bao chính sự rối tung, làm cho cuốn tiểu thuyết hứa hẹn hấp dẫn từ đầu đến cuối.
Nhà văn Uông Triều bày tỏ mong muốn nhà văn Trần Thuỳ Mai sẽ tiếp tục viết về triều Nguyễn. Theo anh, gần chục năm nay những nhìn nhận của dân chúng và giới nghiên cứu về triều Nguyễn đã khác đi, bình tĩnh hơn, khách quan hơn. Nhà văn Trần Thuỳ Mai qua tác phẩm Công chúa Đồng Xuân đã đi vào giải quyết vấn đề khách quan hơn, đa dạng hơn, khoa học hơn. Nhà văn có tư thế, vị thế, sự chuẩn bị rất nhiều cho cuốn tiểu thuyết, bà cũng đã mang đến tiếng nói khác biệt, không cao đàm khoát luận nhưng tác phẩm cho thấy lịch sử ở những thời khắc khó khăn, mọi lựa chọn đều rất khắc nghiệt, qua đó kiến giải lịch sử thấu đáo hơn.
Theo nhà văn Hoàng Quốc Hải, bộ tiểu thuyết đúng nghĩa là bộ tiểu thuyết lịch sử nhưng không phụ thuộc vào lịch sử. Trần Thuỳ Mai không đứng về phe chiến hay hoà mà bà giải mã lịch sử. Bên cạnh đó, tính tư tưởng của tác phẩm cũng được thể hiện rõ nét. Nhà văn đem đến cho đương thời rất nhiều thông điệp. Trần Thuỳ Mai hết sức thận trọng trong việc nghiên cứu ngôn từ, y phục của thời đại đó. Có thể nói, nhà văn trước hết phải là nhà văn hoá mới viết được tiểu thuyết lịch sử; nhà văn Hoàng Quốc Hải nhìn nhận.
Có mặt tại buổi giới thiệu cuốn sách, các nhà sử học cũng đã có những ghi nhận với Công chúa Đồng Xuân. Theo đó, các nhà sử học cho rằng, không khí của cả một thời đại trong lịch sử đã được nhà văn dựng lại, bố cục, hư cấu làm sống dậy những nhân vật mà tưởng như họ mãi mãi ngủ yên trong quá khứ, trong những gì lịch sử đã đóng đinh.
Nhà sử học Lê Văn Lan gọi đó là cách mà Trần Thuỳ Mai tạo nên một cơ thể có vui, buồn, khỏe, yếu, hỉ nộ ái ố, một nhân vật của lịch sử được hiện hình nhờ bút pháp Trần Thùy Mai.
Còn nhà sử học Dương Trung Quốc thì cho rằng, chuyện của lịch sử là chuyện của hôm nay. Lịch sử như tấm gương chiếu hậu. Tiểu thuyết lịch sử của Trần Thuỳ Mai đã khẳng định điều đó và cho chúng ta những quan sát toàn diện hơn.
Công chúa Đồng Xuân đã thêm khẳng định thế mạnh với tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Trần Thuỳ Mai, sau mảng truyện ngắn mà bà đã định danh mình. Qua đó cũng cho thấy được sự nghiêm cẩn trong nghề viết của nữ nhà văn xứ Huế. (KIM NHUNG Nguồn VNQĐ)
Minh Anh phỏng vấn nhà văn Trần Thùy Mai
Xin bà cho biết bộ tiểu thuyết này có phải được viết khởi phát từ truyện ngắn Thể Cúc trước đó trong tập truyện Thương nhớ Hoàng Lan (2019) không?
Trần Thùy Mai: - Truyện ngắn Thể Cúc viết năm 2004, khi đó tôi mô tả Đoàn
Trưng theo cách nhìn của tôi lúc đó. Như bạn biết, theo sử triều Nguyễn,
Đoàn Trưng là giặc, là người cầm đầu “Giặc Chày Vôi”, được ghi chép
trong mục “Bạn nghịch” của Đại Nam Liệt Truyện. Với các sử gia sau
1945, Đoàn Trưng là anh hùng khởi nghĩa, muốn lật đổ vua Tự Đức để
quyết liệt đánh Tây. Trong Công chúa Đồng Xuân, khởi viết từ năm 2020,
tôi mô tả Đoàn Trưng như một trí thức Việt giữa thế kỷ 19, với những ưu
điểm và cả những hạn chế. Tôi cho rằng đây là cách nhìn gần với sự thật
nhất. Tất nhiên, dù Đoàn Trưng là giặc hay là anh hùng, thì điều đó cũng
không thay đổi số phận bi đát của Thể Cúc.
Khác với Từ Dụ Thái Hậu nói về nhân vật đã quá nổi tiếng đối
với đại chúng, bộ sách mới này lại nói về một cá nhân ít nhiều vẫn còn xa
lạ với mọi người. Bà có ngại điều này sẽ khiến bộ sách kén độc giả không?
- Khi tôi đã viết là tôi không ngại. Vì theo tôi, mỗi cá nhân đều có
thể là nhân vật chính cho câu chuyện về đời mình, và về thời đại mình
đang sống.
Dễ thấy Công chúa Đồng Xuân không phải là nhân vật chính,
mà thông qua đây cả một bức tranh của 30 năm cuối triều Nguyễn đã
được dệt nên. Với số lượng nhân vật đông đảo và các quan hệ, tình
huống gặp nhau… Bà kiểm soát chúng thế nào khi viết?
- Công chúa Đồng Xuân vẫn là nhân vật chính chứ. Vì trong tiểu
thuyết này, bức tranh toàn cảnh của đất nước được giở ra theo trình tự
thời gian, trình tự ấy được sắp xếp theo những cột mốc trong cuộc đời
Đồng Xuân: Từ khi còn là nàng công chúa nhỏ bướng bỉnh trong cung,
đến khi lấy chồng, sinh con, rồi thành góa phụ đơn chiếc lẻ loi trong
vườn thanh trà. Số lượng nhân vật tuy đông, nhưng trong mối quan hệ
với Đồng Xuân, họ xuất hiện, ẩn mình hay biến mất đều có trật tự … Tình
huống sẽ quyết định động thái của họ, chứ họ không thuộc quyền quản
lý của tôi!
Quá trình tìm kiếm sử liệu của bà có gặp nhiều khó khăn không? Liệu
có những mâu thuẫn nào ở các văn bản khác nhau bà phải đối mặt?
- Khi còn làm công tác giảng dạy môn Văn học dân gian ở Đại học Sư phạm
Huế, tôi đã dành 10 năm sưu tầm folklore Bình Trị Thiên. Tôi nhận thấy trong
những nhân vật lịch sử của triều Nguyễn, hai người để lại hình tượng lớn nhất
trong lòng người dân Việt Nam là Từ Dụ Thái Hậu và Tôn Thất Thuyết. Về sự kiện,
thì dấu ấn sâu đậm nhất chính là biến cố Thất thủ kinh đô năm 1885, mà đến nay
người dân Huế vẫn hằng năm tưởng niệm qua những lễ cúng vong hồn vào ngày
23 tháng 5 âm lịch trên khắp các nẻo đường.
Về sau, khi chuyển sang làm ở Nhà xuất bản Thuận Hóa, tôi được giao đọc
bản dịch một số bộ sử lớn của triều Nguyễn: Đại Nam Thực Lục, Đại Nam Liệt
truyện, Đại Nam Hội Điển Sự Lệ. Những gì trong thơ ca dân gian đã nhắc đến với
nhiều khúc xạ lấp lánh của tình cảm và tưởng tượng, thì trong chính sử được ghi
chép cụ thể và chính xác.
Sau này, đến năm 2019, khi đã viết xong bộ truyện về Từ Dụ Thái Hậu, tôi
quyết định viết tiếp bộ Công chúa Đồng Xuân, trong đó Tôn Thất Thuyết là một
trong những nhân vật quan trọng, cùng với sự biến Thất thủ kinh đô và thời kỳ Tứ
nguyệt tam vương (Bốn tháng ba vua) đầy sóng gió.
Năm 2019 tôi để hẳn một năm để sắp xếp lại các sự kiện và nhân vật trước
khi khởi bút. Đến năm này, ngoài chính sử và dã sử, ta còn có thêm rất nhiều tư
liệu mới, ví dụ như các nghiên cứu mới về Nguyễn Văn Tường, các hồi ký của các
cựu sĩ quan và viên chức Pháp thời kỳ đó, các biên soạn của sử gia nước ngoài
(Nhật, Mỹ, Pháp...) Chúng giúp ta có cái nhìn từ nhiều góc cạnh hơn và dễ hình
dung ra bầu không khí chung của thời đại.
Nói chung, về sự kiện thì không có nhiều dị biệt, nhưng ở góc nhìn, thì có
rất nhiều mâu thuẫn giữa các ký ức lịch sử, từ những góc nhìn khác nhau. Và để
có cái nhìn của chính mình, tôi đọc những tư liệu từ cả hai, có khi cả ba phía. Ví
dụ, về phong trào Bình Tây Sát Tả, muốn nhìn thấy toàn cảnh của nó, ta không
thể bỏ qua các ký ức dân gian trong “Dậu tuất niên gian phong hoả ký sự” và “Đại
loạn năm Ất Dậu” ...
Trong bộ Từ Dụ Thái Hậu bà từng viết rằng đối với tiểu thuyết lịch sử bà
sẽ dung hòa cả 2 nguồn chính: theo sử liệu và các giai thoại truyền tụng.
Khi gặp những dữ kiện bất đồng thì bà chọn hướng giải quyết ra sao?
-Về mặt sự kiện, chính sử luôn phải là căn cứ số một. Theo nhận đinh
của tôi, các sử gia triều Nguyễn rất chính trực và trách nhiệm, theo truyền
thống của sử quan Đông phương thời cổ. Tuy nhiên, về mặt nhận định, họ
chịu sự ràng buộc của hệ tư tưởng Nho giáo, lấy sự trung quân làm đạo lý
tối cao, khác nhiều với cách nhìn của ngày nay. Đến giữa thế kỷ 20, một
trào lưu khác đã có xu hướng hoàn toàn ngược lại: Phê phán vua chúa và
xem tất cả những ai chống lại vua chúa đều là anh hùng. Bây giờ là thế kỷ
21, tôi mong muốn đi đến một sự mô tả khách quan và gần với sự thật hơn,
tôi muốn “Công chúa Đồng Xuân” được viết ra dựa trên một “Tổng hợp
đề” (synthèse) về triều Nguyễn.
Tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam cho đến nay vẫn thường gây
ra tranh cãi bởi các yếu tố hư cấu mà nhiều người cho là phá vỡ hình
tượng nhân vật lịch sử, động chạm đến thuần phong mỹ tục. Công chúa
Đồng Xuân cũng có rất nhiều chi tiết liên quan đến tính dục. Theo bà đâu
là giới hạn cho sự sáng tạo đối với thể loại này?
- Nhân vật lịch sử, một khi được vinh danh, thì ít nhiều đã hóa
thành ngẫu tượng. Họ thường được mô tả theo cách một chiều, tô đậm
những ưu điểm, và thường được cố ý làm mờ, hoặc che giấu hoàn toàn
những khuyết điểm. Nhưng thật ra, họ cũng là con người. Khi nhà tiểu
thuyết động đến những khía cạnh rất con người của họ, thường bị cho là
phá vỡ hình tượng. Nhưng thực ra, chỉ đơn giản là đưa nhân vật về lại
với chính họ mà thôi.
Ví dụ nhân vật Tôn Thất Thuyết chẳng hạn. Tôn Thất Thuyết là
người đứng đầu phe chủ chiến trong triều đình Huế, chủ trương chống
Tây bằng mọi giá. Người Việt ta giàu lòng yêu nước, đã dành cho ông rất
nhiều tình cảm, xem ông là một anh hùng dân tộc. Từ đó đã bỏ qua,
thậm chí tìm cách bao che, biện luận cho tính hiếu sát và độc đoán của
ông. Tôi xây dựng nhân vật Tôn Thất Thuyết từ cả hai góc nhìn, không
phải là phá vỡ hình tượng Tôn Thất Thuyết, mà chỉ vì trên thực tế, ông
vốn là người như vậy, cứ liệu sử sách còn ghi rõ.
Về giới hạn của yếu tố tình dục: Theo tôi đã là sáng tạo thì càng ít
nói về giới hạn, càng tốt. Trước nay tôi chưa hề chủ trương khai thác đề
tài tình dục, mặc dù đã có lúc xu hướng đó gần như áp đảo văn đàn Việt
và thế giới. Công chúa Đồng Xuân là ngoại lệ của tôi, vì bản thân câu
chuyện của Đồng Xuân là một câu chuyện về tình dục và chính trị. Một
câu chuyện như vậy mà không có những trang đặc tả chuyện khuê
phòng thì thật là một sự tránh né rất vô vị. Mình đã không ngại nói ra
những sự thật về lịch sử, tại sao lại ngại nói về những chuyện hiển nhiên
trong đời sống con người? Những đoạn tả Đồng Xuân “tự xử” trong
phòng khuê của nàng không phải là những đoạn thêm vào cho “ăn
khách” mà là để nói lên một khía cạnh đau xót của chiến tranh: Đàn ông
bị giết, và đàn bà không có đàn ông.
Các tiểu thuyết lịch sử vẫn thường được viết theo dòng thời gian của
các sự kiện liên tục diễn ra, mà không xáo trộn hay là được viết dựa trên ý chí
“vị nghệ thuật”. Theo bà liệu các cách tân trong nghệ thuật viết có là khả thi với
mảng văn này?
_ Trong rừng văn chương hiện nay có muôn ngàn cách viết và sự lựa chọn
viết như thế nào là quyền của mỗi tác giả. Riêng tôi, tôi luôn chọn diễn tả theo
cách giản dị nhất, bằng ngôn ngữ rõ ràng và trong sáng nhất. Vì tôi quan niệm viết
là đối thoại với người đọc, nên tôi mong muốn người đối diện có thể hiểu tâm
tình và ý tưởng của tôi một cách dễ dàng.
Đặc biệt với tiểu thuyết lịch sử, một cấu trúc đa thanh với rất nhiều nhân
vật, nhiều sự kiện, nhiều luận điểm, việc trình bày sao cho khúc chiết mạch lạc là
cả một nỗ lực của người viết. Tôi thích nấu ăn, nên tôi chọn kết cấu nghệ thuật
của tác phẩm như chọn những chiếc dĩa: Nếu món ăn nhỏ gọn đơn giản, tôi sẽ
chọn một chiếc dĩa có trang trí cầu kỳ; còn với một món ăn đã nhiều chất liệu,
nhiều màu sắc, thì cách hay nhất để trình bày là chọn một chiếc dĩa đơn sắc. Sự
giản dị trong ngôn ngữ là một điều không bao giờ cũ, và luôn là con đường ngắn
nhất đi tới trái tim. (Minh Anh)
Minh Anh: Nhà văn Trần Thùy Mai và sứ mệnh của người viết tiểu thuyết - lịch sử
Chỉ sau một tháng phát hành chính thức, bộ tiểu thuyết - lịch sử Công chúa Đồng Xuân của nhà văn Trần Thùy Mai đã được tái bản. Tác phẩm mới này là dấu ấn tiếp theo của một nhà văn luôn đứng về phía phụ nữ, và quyết không để họ liệm mình trong lớp da thuộc mà quyền lực lịch sử từng khoác lên vai.
Tính nữ độc đáo
Từng được biết đến là cây bút văn xuôi nữ hàng đầu thời hậu chiến, mối quan tâm hướng về phụ nữ và những góc nhìn đậm đặc nữ tính vẫn luôn xuất hiện trong văn chương của Trần Thùy Mai. Từ tập truyện ngắn nổi tiếng Thương nhớ hoàng lan đến tiểu thuyết lịch sử Từ Dụ Thái Hậu, ta thấy dù có là ai, là người thị thành hay ở nông thôn, sống đời hiện đại hay từ quá khứ, có chức có quyền hay phải bán mình… thì những nhân vật của Trần Thùy Mai vẫn trường tồn một niềm khát sống và tận hưởng riêng mình.
Nếu như tác phẩm trước được viết vào thời hưng thịnh của triều Nguyễn từ thời Gia Long cho đến đầu thời Tự Đức, thì Công chúa Đồng Xuân khai thác 40 năm sau đầy biến động từ năm 1850 đến 1890 gắn liền hai sự kiện lớn: Thất thủ kinh đô và Tứ nguyệt tam vương (Bốn tháng ba vua). Nhân vật trong tiểu thuyết này cũng có khác biệt về câu chuyện riêng, khi một người đứng trên đỉnh cao tột bậc, người còn lại chịu cảnh hàm oan với vụ loạn luân chấn động lịch sử.
Theo đó Công chúa Đồng Xuân nói về nhân vật Nguyễn Phúc Gia Phúc, con gái út của vua Thiệu Trị, được Thái hậu Từ Dụ coi như con ruột. Sinh thời cá tính và đầy nổi loạn, nàng được gả cho gia tộc Nguyễn Tri, nhưng không hề biết chính những sóng gió của dòng lịch sử rồi sẽ nhấn chìm và khuấy đục mình. Khi các tỉnh miền Nam của đất nước dần bị mất vào tay quân Pháp, thổ phỉ phía bắc thay nhau hoành hành… cũng chính là lúc các quan cận thần có dịp trỗi dậy mà không ai khác là Nguyễn Văn Trường và Tôn Thất Thuyết. Chính việc có mối hiềm nghi với Gia Hưng Công Nguyễn Phúc Hồng Hưu, anh ruột của vị công chúa, mà câu chuyện này đã rẽ sang hướng hoàn toàn khác biệt.
Thật ra bối cảnh của Công chúa Đồng Xuân không hề xa lạ, khi hơn 2 thập kỷ trước nhà văn Trần Thùy Mai đã từng viết về giai đoạn này trong truyện ngắn Thể Cúc thuộc tập Thương nhớ hoàng lan. Khi đó theo sử triều Nguyễn, bà coi Đoàn Trưng - người cầm đầu “Giặc Chày Vôi” được ghi chép trong mục “Bạn nghịch” của Đại Nam liệt truyện, theo phía phản nghịch. Thế nhưng theo các sử gia sau năm 1945, thì người họ Đoàn lại là anh hùng khi muốn lật đổ vua Tự Đức để quyết liệt đánh Tây.
Do vậy khi viết Công chúa Đồng Xuân, bà đã mô tả lại nhân vật này như một trí thức Việt giữa thế kỷ 19 có những ưu điểm và cả những mặt hạn chế. Bà chia sẻ rằng, “đây là cách nhìn gần với sự thật nhất”, nhưng dù ông có là ai, thì số phận bi đát của vị phu nhân Thể Cúc - con gái của Tùng Thiện Công “cũng không thay đổi”. Và không chỉ có Thể Cúc, những Đoàn Châu, Cúc Tần… trong tiểu thuyết này dù có là thực hay là hư cấu, thì họ cũng thật mạnh mẽ để là chính mình trong một thời đại quá nhiều biến động.
Quá trình làm việc lâu dài
Không chỉ có vụ “lật lại lịch sử” như đã nói trên, Công chúa Đồng Xuân cũng có rất nhiều thay đổi so với những gì ta thường được nghe. Nhà văn Trần Thùy Mai chia sẻ rằng khi còn làm công tác giảng dạy môn Văn học dân gian ở Đại học Sư phạm Huế, bà đã dành ra đến tận 10 năm sưu tầm folklore Bình Trị Thiên và nhận thấy Từ Dụ Thái Hậu, Tôn Thất Thuyết chính là hai nhân vật để lại ấn tượng mạnh nhất trong ký ức dân gian của thời đó.
Về sau, khi chuyển sang làm ở Nhà xuất bản Thuận Hóa, bà lại được giao đọc bản dịch một số bộ sử lớn của triều Nguyễn là Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, Đại Nam hội điển sự lệ. Do đó vào năm 2019 bà đã dành hẳn một năm để sắp xếp lại các sự kiện và nhân vật trước khi khởi bút viết bộ tiểu thuyết. Lựa chọn một nhân vật chính có thể không quá phổ biến trong lịch sử Việt, thế nhưng bà bật mí rằng bản thân khi viết là không ngần ngại, vì “mỗi cá nhân đều có thể là nhân vật chính cho câu chuyện về đời mình, và về thời đại mình đang sống”.
Điểm đặc biệt của tác phẩm này đó là từ một nhân vật tưởng như không quá chủ chốt, mà nhiều sự kiện và những con người cùng thời đại đó đã được lần giở theo những cột mốc trong đời Đồng Xuân, từ khi còn là nàng công chúa nhỏ bướng bỉnh trong cung, đến khi lấy chồng, sinh con, rồi thành góa phụ đơn chiếc lẻ loi trong vườn thanh trà. Với số lượng nhân vật vô cùng đồ sộ, khi được hỏi làm thế nào để kiểm soát được sự phức tạp ấy, nhà văn Trần Thùy Mai đã tiết lộ rằng “trong mối quan hệ với Đồng Xuân, các nhân vật này xuất hiện, ẩn mình hay biến mất đều có trật tự… Tình huống sẽ quyết định động thái của họ, chứ họ không thuộc quyền quản lý của tôi”.
Nói về phong cách khi viết tiểu thuyết lịch sử, bà chia sẻ rằng mình luôn chọn diễn tả theo cách giản dị nhất, bằng ngôn ngữ rõ ràng và trong sáng nhất. Vì bà quan niệm “tiểu thuyết lịch sử là một cấu trúc đa thanh với rất nhiều nhân vật, nhiều sự kiện, nhiều luận điểm… Do đó việc trình bày sao cho khúc chiết mạch lạc là cả nỗ lực của người viết”. Vì vậy việc viết như là đối thoại, nên mục đích tối thượng là mong muốn người đối diện có thể hiểu rõ tâm tình cũng như ý tưởng một cách dễ dàng.
Bà cũng liên tưởng điều này với việc nấu ăn - hoạt động mà bà rất thích trong cuộc sống hằng ngày. Bà tiết lộ thêm “tôi chọn kết cấu nghệ thuật của tác phẩm như chọn những chiếc đĩa: Nếu món ăn nhỏ gọn đơn giản, tôi sẽ chọn một chiếc đĩa có trang trí cầu kỳ; còn với một món ăn đã nhiều chất liệu, nhiều màu sắc, thì cách hay nhất để trình bày là chọn một chiếc đĩa đơn sắc. Bởi lẽ cuối cùng thì “sự giản dị trong ngôn ngữ là một điều không bao giờ cũ, và luôn là con đường ngắn nhất đi tới trái tim".
Tạo ra một góc nhìn mới
Nhà sử học Lê Văn Lan từng nhận định về công việc của Trần Thùy Mai tại buổi tọa đàm Đóa hải đường nơi cung cấm nhân dịp ra mắt tác phẩm này, là việc mà bà đang làm như là đặt stent vào trong “cơ thể lịch sử”. Ông nói: “Chị luồn sợi chỉ của mình dệt thêu thành tác phẩm, để lịch sử sống động với hình hài của nó; hình hài ấy hồng hào hay xám, góc khuất hay tường minh là do người đọc cảm nhận".
Điều này cũng đã cho thấy một xu hướng mới trong cách khai thác đề tài của tiểu thuyết - lịch sử trong những năm tới, đó là sự nổi lên của chủ nghĩa nhân đạo. Theo đó trong suốt công cuộc chống giặc ngoại xâm, rất nhiều nhà văn đã dựa vào chủ nghĩa anh hùng để nhằm nâng cao tinh thần yêu nước như là một điều chính yếu. Nhưng trong thời bình, người đọc cũng như người viết đang có cơ hội và mọi điều kiện để dò xét lại một cách bình thản hơn, điềm tĩnh hơn, từ đó có thể thấy được sự thật và rồi chiêu tuyết cho những thân phận đã bị dập vùi.
Và Trần Thùy Mai đã đi trên con đường đó, như khi bà tiết lộ vì sao mình chọn viết về Công chúa Đồng Xuân. Bà nói: “Tôi chọn nhân vật vì đây là vụ án kết thúc sự xung đột giữa hai phái chủ hòa và chủ chiến. Đồng Xuân, theo đó, chỉ là nhân vật bị sa vào âm mưu, vào sự phân tranh quyền lực, khi Hồng Hưu chủ trương hòa vãn, còn Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết thì chủ trương chiến đấu. Chuyện này khá rắc rối nhưng thực tế không có chứng cứ nào lớn nào mà chỉ là thêu dệt, họ được xét xử rất vội vàng và không có nhân đạo. Từ đó tôi thương xót và nghĩ rằng họ xứng đáng được xét xử một cách công bằng”.
Do đó dễ bề lý giải khi trong tác phẩm này, rất nhiều nhân vật sẽ không như những motif mà ta thường biết theo những ghi chép sử liệu. Chẳng hạn như Tôn Thất Thuyết không còn là người ra Chiếu Cần Vương bảo vệ vua tôi bằng mọi giá, mà bản thân ông, xét về bản chất, cũng là một người bản năng, không có được tầm nhìn xa. Trong khi những người từng bị chôn vùi như Phan Thanh Giản, như Nguyễn Phúc Hồng Hưu, như Đồng Xuân… được gột sạch từ cuộc tắm máu quyền lực trong vương triều cũ.
Ngoài ra cũng như Thị Lộ chính danh của cố nhà văn Võ Khắc Nghiêm, bộ tiểu thuyết này cũng có cảnh “mây nước” dễ khiến người đọc phải đỏ mặt. Điều đó tồn tại bởi một tâm thức rằng ta đang quan sát một “chứng nhân” của lịch sử đã được thêu hoa cũng như vẽ vời. Nhưng với riêng Trần Thùy Mai, bà thẳng thắn cho rằng những mô tả đó là phù hợp cho bối cảnh cũng như cuộc đời của chính Đồng Xuân, một người phụ nữ vắng chồng trong buổi loạn lạc, và khi sáng tạo thì “càng ít nói về giới hạn, càng tốt”.
Khép lại Công chúa Đồng Xuân, nhà văn Trần Thùy Mai đã “đóng” rất nhiều vai trò, từ một nhà nghiên cứu lịch sử, một tiểu thuyết gia, một người sắp đặt, một người giải oan… để từ nơi đó, những ai quan tâm dù là về khía cạnh nào: từ lịch sử, văn chương, nữ quyền cho đến tình cảm… cũng sẽ tìm được một giọng nói riêng dành cho chính mình. (Minh Anh)
CAND: Nhà văn Trần Thùy Mai: “Tôi muốn viết những câu chuyện của Việt Nam”
Ánh Ngân thực hiện
Nhà văn Trần Thùy Mai vốn được độc giả nhiều thế hệ yêu mến trong những
năm qua với rất nhiều truyện ngắn hay. Các truyện ngắn của chị đều là những câu
chuyện khó quên, nén chặt trong đó những thân phận, những cuộc đời, những mối
tình ám ảnh.
Khi chị viết tiểu thuyết, nghĩa là kể một câu chuyện dài, chị đã gặt hái được
quả ngọt. Bộ “Từ Dụ Thái hậu” (NXB Phụ nữ Việt Nam, 2019) ngay lập tức giành
Giải Nhất cuộc thi tiểu thuyết 2016-2019 của Hội Nhà văn Việt Nam và Giải Sách
hay 2020 của IRED. Sau 3 năm, bộ “Công chúa Đồng Xuân” ra đời, hoàn thành
vệt tiểu thuyết lịch sử về triều Nguyễn, cũng nhận được nhiều lời khen giá trị.
Phóng viên Chuyên đề Văn nghệ Công an đã có cuộc trò chuyện với nhà văn Trần
Thùy Mai về tác phẩm mới của chị.
Trong 3 năm, chị lần lượt cho ra mắt 2 bộ tiểu thuyết về triều Nguyễn: “Từ
Dụ Thái hậu” và “Công chúa Đồng Xuân” (NXB Phụ nữ Việt Nam, 2019, 2022),
dày khoảng 1.600 trang khổ lớn. Quả là một sức làm việc đáng nể, nhất là khi chị
đã viết truyện ngắn trong ngần ấy năm, giờ bắt tay vào viết tiểu thuyết lịch sử, vốn
cần “nặng ký” cả về dung lượng lẫn chất lượng. Đây hẳn là thử thách mới chị tự
đặt ra cho đời viết của mình?
Trần Thùy Mai: Hình như bạn cho rằng tiểu thuyết là khó, là một thử thách cao hơn truyện
ngắn? Theo tôi thì không phải vậy đâu. Quan niệm của tôi về thể loại là thế này:
Tôi có những câu chuyện cần chia sẻ với người cùng thời, và tùy theo tính chất của
từng câu chuyện, tôi sẽ chọn tiểu thuyết, truyện ngắn hay tản văn. Mỗi thể loại đều
có những yếu quyết riêng, sức hấp dẫn riêng và độ khó riêng. Với “Từ Dụ Thái
hậu” và “Công chúa Đồng Xuân”, sở dĩ tôi chọn tiểu thuyết vì đây là những câu
chuyện có tính sử thi, chứa đựng một số lượng lớn nhân vật, sự kiện và luận điểm.
Hai tiểu thuyết này có thể xem là bộ truyện sử hoàn chỉnh về nhà Nguyễn.
Viết tiểu thuyết về nhà Nguyễn phải chăng là một sự tự nhiệm của một nhà văn
được coi là avatar của Huế?
- Ở Huế có tục cúng Hai mươi ba tháng Năm. Mỗi năm đến ngày ấy người
dân bày bàn cúng, khói hương nghi ngút dọc theo các con đường. Đó là một tục lệ
đã hình thành từ biến cố Thất thủ Kinh đô, xảy ra vào năm 1885. Tập tục ấy đã
thành một dấu ấn văn hóa, lịch sử, tâm hồn, có lẽ không bao giờ phai theo thời
gian. Tôi muốn viết một câu chuyện về những gì dẫn đến biến cố ấy, để hiểu một
chặng đường đau khổ của người Việt, và hiểu vì sao người Huế đã không thể quên,
dù đã một trăm ba mươi tám năm qua rồi. (Xin mở ngoặc là tôi không dám tự nhận
mình là avatar của Huế đâu vì nếu vậy thì Huế còn nhiều avatar lắm!).
Đọc “Từ Dụ Thái hậu”, người đọc nhận ra tầm vóc của nhà Nguyễn trong
thời thịnh. Còn với “Công chúa Đồng Xuân”, chúng ta đồng cảm với niềm đau tiếc
xót xa không giấu diếm của tác giả về một sự “lỡ vận” của triều đại này trong
cuộc tương tàn mất nước. Và thay vì chìm vào suy tưởng và triết luận, chị đã chọn
kết tiểu thuyết của mình bằng niềm hy vọng...
- Tôi thích cách diễn đạt của thơ cổ phương Đông, dùng hình ảnh giản dị để
diễn tả những gì sâu thẳm. Vì vậy, tôi bắt đầu câu chuyện với một Đồng Xuân
thiếu nữ ở tuổi dậy thì, rồi lại kết thúc chương cuối, với một Đồng Xuân khác vào
bốn mươi năm sau. “Đồng Xuân thế hệ mới” này, cùng với ba thầy khóa gặp nhau
trong quán trọ, là hình ảnh của một vòng đời mới vừa hồi sinh trên hoang tàn để lại
từ 64 chương trước đó. Hơn năm chục nhân vật của tiểu thuyết đến đấy đã chết hết,
những cái chết phần lớn không yên lành, chỉ còn hai vợ chồng chủ quán với thân
hình tàn phế. Tất cả những điều đau xót ấy xuất phát từ “một bước lỡ”, như câu thơ
mà Nguyễn Trường Tộ để lại lúc lâm chung. Nhưng bất chấp những sai lầm, mất
mát, đau khổ, niềm hy vọng vẫn còn, dù đã lỡ một bước hay nhiều, nhiều bước,
vẫn còn những bước tiếp trong vòng đời mới…
Các tác phẩm của chị rất có duyên với điện ảnh. Nghe nói, ý tưởng viết về
Từ Dụ Thái hậu ban đầu xuất phát từ một đơn đặt hàng kịch bản phim?
- Đúng vậy. Năm 2010, nhà văn Ngô Thảo đại diện cho hãng phim BHD đề
nghị tôi viết một kịch bản phim truyền hình nhiều tập về Từ Dụ Thái hậu. Tôi nhận
lời ngay vì đây là nhân vật mà tôi đã ấp ủ ý tưởng từ rất lâu rồi. Kịch bản hoàn
thành năm 2015, BHD đã thanh toán đầy đủ nhuận bút, nhưng vì nhiều lý do, đến
nay vẫn chưa được thực hiện. Lúc ấy nhà văn Nguyễn Hồ, cũng là đại diện hãng
phim BHD và là người theo dõi, khích lệ tôi rất nhiều trong quá trình sáng tác kịch
bản, đã khuyên tôi: trong khi chờ đợi hãy viết lại tác phẩm dưới dạng truyện lịch
sử. Vì vậy, tôi để hai năm từ 2017 đến 2019 viết lại câu chuyện thành tiểu thuyết.
Khi chuyển thành truyện, tôi đã lược bỏ khá nhiều những đoạn chỉ thích hợp
với phim. Nhưng cũng nhờ soạn kịch bản điện ảnh, tôi học được những thủ pháp
có thể áp dụng vào tự sự văn xuôi. Sau này khi viết “Công chúa Đồng Xuân”, tôi
vẫn giữ những thủ pháp đó: việc chú trọng chất lượng của đối thoại, và việc phân
bổ các cao trào lớn và cao trào nhỏ trong khi dẫn chuyện. Những cao trào này
không phải do mình tạo ra: trong cuộc sống luôn diễn ra những cao trào liên tục, có
điều mình có nhận thấy chúng không mà thôi.
Từ xa, tôi nhìn rõ Huế và Việt Nam
Được biết, chị hiện định cư ở Mỹ, và vẫn thường xuyên về Việt Nam. Cuộc
sống ở Mỹ và Huế, sự dịch chuyển giữa các vùng đất quá khác biệt, hẳn là thú vị
lắm?
- Tôi vẫn giữ quốc tịch Việt Nam và đi về giữa Huế và San Francisco.
Ngoài ra, tôi luôn tìm cách đi nhiều nơi: Từ lúc hoàn thành xong nhiệm vụ với gia
đình và con cái, thì hầu hết thời gian tôi dành cho các chuyến đi.
Sự dịch chuyển, đúng như bạn nói, giúp mình có cái nhìn cởi mở hơn về con
người, cuộc sống, và cả lịch sử nữa. Trước hết là những thu hoạch thú vị: ví dụ
như, tục ăn trầu, thơ lục bát, là những nét văn hóa của riêng người Việt, nhưng hóa
ra người Bhutan cũng ăn trầu, người Lào cũng có lục bát. Người Việt tự hào về
lòng yêu nước và chiến đấu chống ngoại xâm, thì lịch sử chống Pháp của người
Algerie cũng vô cùng đau thương và oanh liệt. Nhiều người kết tội ông vua Gia
Long là cầu viện người Pháp, cõng rắn cắn gà nhà; thì ông vua Kamehameha của
vương quốc Hawaii cùng thời cũng làm y như vậy với người Anh! Và nước Mỹ,
mà ta từng định vị với khái niệm; Đế quốc Mỹ, lại cũng chính là vùng thuộc địa
đầu tiên của nhiều đế quốc thực dân châu Âu, nên quả chuông nứt mà người Mỹ
gióng lên trong ngày họ giành độc lập mới được dùng làm tên một tờ báo đấu tranh
chống Pháp nổi tiếng của ta (Báo Chuông rè, La Cloche Fêlée, 1923) …
Viết những câu chuyện về Việt Nam trong lòng nước Mỹ, điều đó tự nó đã
có sức hấp dẫn lớn. Chị vẫn sẽ viết chứ?
- Tôi vẫn đang viết. Tôi muốn viết tiếp những câu chuyện của Việt Nam. Vì
Huế là cố đô, nên những câu chuyện của Huế trong các thế kỷ 18, 19 cũng đồng
thời là những câu chuyện của đất nước. Chính những lúc nhìn từ xa, là tôi nhìn
thấy rõ Huế, Việt Nam, và có nhiều suy tưởng về quê nhà thân thương nhất.
Chị từng chia sẻ: Cứ mỗi lần trèo qua một con dốc thì lập tức xuất hiện
trước mắt mình một con dốc khác cao hơn. Thế là lại đi và đi mãi như thế trong
gió ngược... Nhiều khi mỏi mà không muốn dừng bởi hai bên đường nhiều hoa
thơm cỏ lạ quá. Cứ muốn hái và ôm đầy tay...; Đến bây giờ, sau bao năm tháng,
với nhiều thành tựu trong nghề viết, chị có nghĩ khác xưa? Những con dốc có còn
niềm thú vị của sự chinh phục?
- Vâng, đến bây giờ với tôi hình dung về cuộc đời vẫn vậy, những con dốc
và những bông hoa. Tất nhiên, trong những bông hoa đó, có hoa thơm cánh mềm
và cũng có những bông đầy gai làm tay mình nhỏ máu, chúng đều là hoa đời cả
đấy. Còn những con dốc, vẫn luôn có trong đường đời, và đường sáng tác. Ví dụ
như, tôi nghĩ mình đã tạm trèo qua được dốc truyện ngắn và dốc tiểu thuyết. Có
một con dốc tôi đã định vượt qua nhưng rồi thất bại và thối lui, đó là dốc Thơ.
Trong đời tôi có làm mười hai bài, rồi sau không làm bao giờ nữa. Cho đến nay, tôi
vẫn phục nhất là các nhà thơ.
- Cảm ơn cuộc trò chuyện của chị. (Ánh Ngân thực hiện)
Ngô Kim Hải: Đọc Công Chúa Đồng Xuân
“Một bước lỡ… khiến ngàn năm hận,
Vừa quay đầu… hết kiếp trăm năm…”
Tôi nói điều này (có thể bây giờ là hơi sớm, nhưng rồi thời gian sẽ trả lời):
từ tác phẩm “Từ Dụ Thái hậu” (TDTH) đến “Công chúa Đồng Xuân” (CCĐX), nhà
văn Trần Thuỳ Mai (TTM) đã khẳng định vững chắc tên tuổi, vị thế, tư tưởng và
phong cách viết Tiểu thuyết lịch sử (TTLS) của mình trong dòng chảy của nền Văn
học Việt Nam đương đại.
Đã là hơn ba năm rưỡi tính từ thời điểm “TDTH” gây nên “cơn sốt” trên
văn đàn Việt Nam vốn đã tẻ nhạt khá lâu. Hôm nay, nhà văn TTM trở lại với tác
phẩm “CCĐX” để chứng minh cho những độc giả khó tính thấy rằng tiếng vang của
“TDTH” không phải chỉ là “ăn may” vì có yếu tố ngôn tình!
Hình như, chạm vào đâu trong “CCĐX” cũng là bi kịch. Từng bi kịch của mỗi
cá nhân đã nhuộm màu lên/ bởi bi kịch của đất nước. Bi kịch của nhân thế, thân
thế và thời thế. Bi kịch của Tự Đức là làm Vua nhưng… chỉ có mỗi Đức thôi là chưa
đủ, thiếu đi cái uy để trấn áp quần thần, cả đời mộng tưởng đòi lại những điều
không thể đòi, để rồi mất tiếp những gì đang có! Bi kịch của Đức bà Từ Dụ Thái
hậu là phải chứng kiến con dân nước Việt tan xương nát thịt bởi chính những sai
lầm, âm mưu và ích kỷ của chính người Việt! Với Gia Phúc (công chúa Đồng Xuân),
là bi kịch khi dám sống là chính mình, với những - ham - muốn - rất - đỗi - con -
người! Bi kịch của danh tướng Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu là nhận ra “một
khi sức mạnh vũ khí ngang nhau thì mới bàn đến mưu lược và lòng dũng cảm” sau
khi đã đem “nướng” xương thịt của nhân dân dưới đại bác Tây phương để giữ
tròn tiết trung Nho giáo! Bi kịch của Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết là độc
tài, lạm dụng quyền lực và bạo lực, xem tất cả những ý kiến trái chiều với mình là
bán nước, là phải tìm mọi cách tận diệt nhanh chóng, không cần bàn đến chuyện
đúng sai.
Đặc biệt, với tôi, xót xa và uất ức nhất, là bi kịch của những người mang tư
tưởng yêu nước tiến bộ vượt thời đại và tầm nhìn hạn hẹn của vua và dân bấy giờ
- Phan Thanh Giản, Nguyễn Trường Tộ. Có lẽ, đớn đau nhất trong đời của Phan
Thanh Giản, Nguyễn Trường Tộ không phải là “Phan, Lâm mãi quốc”, mà là: “Cái
số sao mà khổ, làm việc gì cũng bị người ta nhao nhao phản đối, nhưng rốt cuộc
việc gì người ta cũng đùn cho ông ấy, chẳng ai chịu làm./ Cái hoạn nạn của dân
mình là ở đó. Người mù làm chủ người sáng, nên càng biết nhiều lại càng nguy./
Ôi cái đất nước mà kẻ nai lưng làm thì chịu khổ chịu nhục, người không làm lại
được tha hồ nói hay nói giỏi, biết bao giờ mới tìm được lối thoát đây?”. (Tr.183)
Bi kịch của riêng Phan Thanh Giản, Nguyễn Trường Tộ, hay cũng là bi kịch của cả
dân tộc? Đó là những điều mà tôi tìm kiếm trên từng trang sách của nhà văn Trần
Thuỳ Mai - Dịu dàng, Sắc sảo và Bản lĩnh!
Ngẫm lại, những bi kịch ấy, liệu đã chết cùng những thân phận bất hạnh
của quá khứ chưa? Hay vẫn còn tiếp tục sống tốt/ sống khoẻ cùng với căn tính của
dân tộc hôm nay? Có lẽ, đây mới là điều mà tác giả muốn lưu tâm.
Thế nhưng, có điều này, tôi còn hơi băn khoăn, liệu rằng nhà văn có hơi lạm
dụng nhiều ẩn ức tính dục? Mà (nói theo ngôn ngữ tính dục), cái nào nhiều quá
thì cũng chưa hẳn là tốt! Đặc biệt là tâm niệm của nhà văn đang muốn khuyến
khích những bạn trẻ tuổi đọc sách và tìm về lịch sử dân tộc.
Nếu sự nghiệp viết văn của nhà văn TTM dừng tại đây thì cũng đã là một di
sản. Một di sản đầy - tính - nữ. Nhưng mà, có chăng, cuộc tình dan díu đầy định
mệnh giữa nhà văn TTM với triều Nguyễn và TTLS nên vẹn tròn bằng một tác
phẩm viết về 40 năm Phong kiến cuối cùng của lịch sử dân tộc thông qua cái nhìn/
cuộc đời/ số phận của một người con gái xinh đẹp đến từ vùng đất phương Nam?
Cô có nghĩ như vậy không, cô TTM ơi?
Sài Gòn, 05/01/2023 (N.K.H)
Nguyễn Khắc Phê
Thật khéo, nữ sĩ Trần Thùy Mai trở về Huế vui Xuân và gặp gỡ các bạn
văn quen biết trong tòa soạn Tạp chí Sông Hương thân thuộc đúng vào lúc bộ
tiểu thuyết “Công chúa Đồng Xuân” ra mắt bạn đọc.
Tròn 40 năm trước (1983) truyện ngắn “Một chút màu xanh” của chị dăng trên “Sông Hương” số 1,
báo hiệu Huế xuất hiện thêm một nữ sĩ có phong cách riêng và đầy tiềm năng.
Bốn thập kỷ vừa qua đã khẳng định điều đó. Tiếp theo các tập truyện
ngắn từng được nhiều giải thưởng (giải Hội nhà văn Việt Nam, Giải Cô đô hạng
A…), được lên phim (như “Trăng nơi đáy giếng”) và bộ tiểu thuyết lịch sử “Từ
Dụ Thái hậu” (NXB Phụ nữ Việt Nam -2019) được tặng Giải Nhất cuộc thi tiểu
thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam (2016-2019) và Giải Sách Hay 2020 của
Viện giáo dục IRED, bộ tiểu thuyết 2 tập “Công chúa Đồng Xuân” (Quyển
Thượng & Quyển Hạ) ra mắt bạn đọc đầu năm 2013 (NXB Phụ nữ Việt Nam)
đã được bạn đọc rộng rãi đón nhận. Tác phẩm gồm 66 chương, dày 700 trang
khổ lớn.
Có thể nói “Công chúa Đồng Xuân” là “Hậu Từ Dụ Thái Hậu” vì công
chúa được Thái Hậu nhận làm con út và nhân vật Từ Dụ hiện diện hầu như suốt
tác phẩm mới. NXB phụ nữ Việt Nam, trong lời giới thiệu vắn tắt nội dung chủ
yếu của tác phẩm (in bìa 4 cuốn sách) đã viết: “Công chúa Đồng Xuân” là tiểu
thuyết viết về 40 năm lịch sử sử đầy biến động từ 1859 đến 1900, khi Triều đình
nhà Nguyễn với quốc sách lạc hậu, bảo thủ, không nghe theo hiến từ kiến quốc
của các nhà trí thức quan lại có tầm nhìn tiến bộ, dẫn đến việc bị quyền thần
thao túng, gây nên bao cuộc tương tàn đẫm máu và dần mất nước vào tay thực
dân Pháp. Thời đại lịch sử tàn khốc đó được tái hiện sinh động và đầy ám ảnh
qua chuyện đời một nàng công chúa, với vụ án “hòa gian” gây rúng động kinh
thành…”
“Hòa gian” là từ cổ chỉ tội dâm loạn hoang thai. Đây là vụ án có thật; tác
giả cho biết, “Đại nam thực lục chính biên đệ ngũ kỷ quyển IV” chép về vụ này
như sau: “Phụ chính thân thần Gia Hưng vương kiêm sung Tôn nhân phủ Tôn
chính Hồng Hưu bị tội, cách chức tước, phải an trí ở phủ Cam Lộ. Trước đây,
Chấn Tĩnh quận công là Miên Trí tâu hặc vương ấy vì nhân việc tư bỏ việc
công, tiết lộ quân quốc trọng sự, gia dĩ thêm thói dâm dục (cùng với công chúa
Đồng Xuân can tội tước tịch, đổi theo họ mẹ là Hồ Thị Đốc thông gian sinh
con) …”
Văn cổ, bản dịch trúc trắc, nên chỉ trích một đoạn ngắn để “làm chứng”;
có thể tóm lược thế này: Gia Hưng (còn gọi là Hồng Hưu) và Đồng Xuân đều là
con vua Thiệu Trị, nhưng cùng cha khác mẹ; Gia Hưng bị phái “chủ chiến” Tôn
Thất Thuyết xem thuộc phái “chủ hòa”, thường giao thiệp với quan Tây; Đồng
Xuân là vợ Nguyễn Lâm, tức là con dâu của danh tướng Nguyễn Tri Phương;
Lâm cùng thân phụ hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ thành Hà Nội; sau gần 10
năm ở góa, Đồng Xuân bỗng… có thai! Theo Trần Thùy Mai, đây là “tội tình
dục… dính líu với những mưu đồ chính trị, bị xét xử rất vội dưới lưỡi kiếm
quyền lực, không qua quy trình pháp lý đương thời. Tháng năm qua, hình hài
xương cốt đã hóa thành tro bụi, nhưng sự thật ở đâu sẽ mãi là ẩn số…”
Vụ án đến gần cuối Quyển Hạ, tức là qua hơn 500 trang sách, mới được
tác giả đề cập đến. Như vậy, chuyện vụ án chỉ là cái cớ – hoặc là “cái đinh” để
tác giả treo bức tranh lớn về một giai đoạn lịch sử đầy những bi kịch của cả đất
Việt, chủ yếu dưới triều vua Tự Đức, kéo dài cho đến Hàm Nghi, Thành Thái
trước khi Việt Nam hoàn toàn trở thành thuộc địa của Pháp. Về giai đoạn lịch sử
đầy những bi kịch, hỗn loạn và mất mát này đã có nhiều sử sách nói đến; sau
ngày đất nước Đổi Mới, đã có nhiều cuốn sách dày mấy trăm trang khảo cứu
riêng từng nhân vật lịch sử lừng danh thời đó như Nguyễn Văn Tường, Tôn
Thất Thuyết, Nguyễn Trường Tộ, Hoàng Tá Viêm với cách nhìn nhận, đánh giá
công bằng hơn. Trả lời nhà báo Minh Hùng (Trang báo điện tử Zing & đã được
đăng lại trên trang Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam), Trần Thùy Mai nói:
“…Riêng về triều Nguyễn, những sự kiện xảy ra chưa quá xa xưa, các bộ
sử ghi chép tương đối đầy đủ so với các triều trước. Bên cạnh đó, ký ức dân
gian còn lưu giữ nhiều truyền thuyết, giai thoại. Những năm gần đây, nhiều tư
liệu mới hơn về giai đoạn 1858-1888 đã được công bố, trong đó có cái do các
nhà nghiên cứu người Pháp, người Nhật viết, có cái do các nhà nghiên cứu Việt
Nam viết. Những tư liệu mới này đã mở rộng nhiều cánh cửa, cho phép ta có
một cái nhìn đa chiều hơn về những nhân vật lịch sử. Vì vậy theo tôi, lúc này
viết truyện lịch sử, nhất là về triều Nguyễn, là việc nhiều thuận lợi hơn là trở
ngại…”
Tuy vậy, với nhà tiểu thuyết, cái khó là từ một vụ án xét xử vội đầy oan
trái chỉ hiện diện vài trang trong sử sách và bộn bề các sự kiện, nhân vật trải
suốt nửa thế kỷ đầy những biến động đã được soi chiếu qua “nhiều cánh cửa,
cho phép ta có một cái nhìn đa chiều” làm sao tạo thành một cốt truyện có kết
cấu chặt chẽ, hợp lý, “chuyên chở” được ý tưởng, chính kiến của tác giả, “giữ”
được bạn đọc suốt 700 trang sách. Theo tôi, Trần Thùy Mai đã rất công phu và
sáng tạo, vận dụng nhiều thủ pháp – hoặc nói như PGS. Phan Ngọc là lắm
“mẹo”, để không phụ lòng tin của độc giả.
1- Trung thành với sự thật lịch sử và mạnh dạn “hư cấu”:
Về các quan niệm viết tiểu thuyết lịch sử những năm gần đây, trong cuốn
sách “Những cột mốc trên đường vô tận” (Tập Nghiên cứu – phê bình, NXB
Hội Nhà văn, 2018), tôi đã dẫn ra hai khuynh hướng có tính tiêu biểu như sau:
“…Về những quan niệm khác nhau, có thể dẫn ra một số ý kiến về hai
cuốn tiểu thuyết nổi bật gần đây. Đó là cuốn “Hội thề” của nhà văn Nguyễn
Quang Thân, được tặng giải A cuộc thi tiểu thuyết (2006-2009) của Hội Nhà
văn, tức là đã được một cơ quan chuyên môn đánh giá rất cao, nhưng ngay sau
khi trao giải, đã có không ít ý kiến phê phán nặng nề, cho rằng tác giả đã “hư
cấu” (hay là “bịa đặt”) tùy tiện, hạ thấp các nhân vật lịch sử như Lê Lợi,
Nguyễn Trãi. Thấy Nguyễn Quang Thân im lặng trước mọi lời phê phán, tôi
hỏi, thì anh chỉ cười và nói đại ý: Những người ở khác “kênh” thì không thể nói
chuyện với nhau!...
Một cuốn (đúng hơn là một “bộ”) tiểu thuyết lịch sử khác cũng được chú
ý: đó là bộ tiểu thuyết “Bão táp triều Trần” của nhà văn Hoàng Quốc Hải dày
đến mấy ngàn trang viết về triều nhà Trần và các cuộc kháng chiến chống giặc
phong kiến phương Bắc. Không ít người đánh giá cao, cho đây là một bộ sách
quý, rất công phu, nhưng cũng có nhà nghiên cứu nói thẳng, đại ý: Viết tiểu
thuyết như thế thì đọc sách lịch sử ít mất thì giờ hơn! ...”
Có thể nói Trần Thùy Mai đã chọn lối đi “trung dung” so với hai khuynh
hướng nói trên. Trong bài trả lời phỏng vấn đã dẫn, tác giả “Công chúa Đồng
Xuân” nói: “Tiểu thuyết lịch sử là sự đan cài giữa hư cấu tưởng tượng và sự
thực lịch sử. Sự thực là bộ khung, tưởng tượng là hoa lá. Bộ khung càng chắc
thì hoa lá càng tươi thắm. Tôi nghĩ đó là điều kiện để một tiểu thuyết lịch sử
thành công, và tôi cố gắng để theo như vậy.”
Theo cách nói hình tượng của nhà văn, thì “bộ khung” của “Công chúa
Đồng Xuân” quả là vững chắc. Những ai quan tâm đến lịch sử Việt Nam giai
đoạn nửa cuối thế kỷ 19 đều có thể xác nhận: hầu như tất cả các sự kiện, nhân
vật lịch sử quan trọng trong tác phẩm đã được tác giả “nói có sách, mách có
chứng”. Từ cuộc khởi nghĩa Chày Vôi của anh em Đoàn Trưng-Đoàn Trực đến
những chuyện thay vua như … thay áo ở hậu cung do sức ép của các Phụ chính
đại thần Tôn Thất Thuyết, Trần Tiễn Thành…; từ nỗi đau đớn, dằn vật của vua
Tự Đức, của các đại thần Phan Thanh Giản, Nguyễn Văn Tường…khi phải nhân
nhượng ký các hòa ước với Pháp trước thái độ hung hăng của bọn xâm lược,
đến những vụ tàn sát “tả đạo” ở miền Trung, tình cảnh khốn khổ của dân chúng
phía Bắc trước họa giặc Cờ Đen, Cờ Vàng và kết cục là thảm cảnh Thất thủ
Kinh đô khiến vua Hàm Nghi cùng triều thần phải rời Huế ra Tân Sở rồi bị phản
bội, bị bắt đày sang Algérie… tất cả đều hiện diện trong tác phẩm chính xác về
diễn biến, kết cục sự kiện cho đến cả ngày giờ khởi sự.
Tại sao tác giả lại phải “tôn trọng sự thật lịch sử” đến như thế? Ở đây có
vấn đề quan niệm của nhà viết tiểu thuyết – rộng hơn nữa là của cả giới sáng tạo
– đã có không ít nhà nghiên cứu thích ‘lập ngôn” đại ý rằng: Điều quan trọng là
anh viết như nào chứ không phải là viết cái gì – nói rõ hơn là nhà nghiên cứu
chỉ xem trọng cách viết, thủ pháp của nhà văn mà thôi, chứ hiện thực cuộc sống
chẳng đáng bận tâm! Quả thực, trong lịch sử văn học thế giới, cũng đã có tác
phẩm được đánh giá cao chủ yếu nhờ cách viết, nhờ nghệ thuật diễn tả mới lạ,
độc đáo, nhưng theo tôi, cách “lập ngôn” trên đây là từ cực đoan quá đề cao
hiện thực cuộc sống đến cực đoan chỉ cần xem tác giả có “chiêu trò” gì mới
không. Thiết nghĩ, trong văn học nghệ thuật, cần tôn trọng sự khác biệt, không
nên chỉ suy tôn một trường phái nào, mỗi tác giả, mỗi tác phẩm cụ thể có cách
trình diện với độc giả mà họ cho là hiệu quả nhất.
Với “Công chúa Đồng Xuân”, khi phóng viên Hoàng Bạch Diệp (tạp chí
Ngaymoionline) hỏi “phải chăng nhà văn có tham vọng muốn giải mã biến cố
lịch sử bằng những suy luận của mình?”, Trần Thùy Mai đã trả lời: “…Tôi
không giải thích lịch sử theo suy luận của riêng tôi, mà chỉ muốn trình bày bức
tranh lịch sử như nó vốn vậy….” Nói như vậy, cũng có thể hiểu là “bức tranh
lịch sử” – ít ra là trong thời đoạn nửa cuối thế kỷ 19 – đã từng bị trình bày
không đúng “như nó vốn có”.
Cũng trong trả lời phóng viên Hoàng Bạch Diệp, tác giả đã thẳng thắn chỉ ra
một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng đó:
“…Như bạn biết, lịch sử giai đoạn 1858-1885, xoay quanh hai xung đột
lớn: xung đột giữa Đại Nam và Pháp, và xung đột giữa hai phái chủ chiến- chủ
hòa trong triều đình, sĩ phu và dân chúng thời ấy. Trong một thời gian dài,
chúng ta đã tuyệt đối hóa phái chủ chiến, xem phái chủ hòa là xấu xa, bán
nước… Từ đó đi đến chỗ mặc định: chủ chiến là chính nghĩa, chủ hòa là phi
nghĩa.
Do quan điểm phân biệt đơn giản như vậy, chúng ta đã phải lúng túng
khi đánh giá những nhân vật chủ hòa như Phan Thanh Giản, Nguyễn Trường
Tộ, Trần Tiễn Thành…Và cũng vì tuyệt đối hóa phe chủ chiến mà không ít lần
ta đã tôn vinh một vài nhân vật tàn bạo, như Ông Ích Khiêm, Tôn Thất
Thuyết... Đó là một điều rất không nên, vì khi ta biện minh cho những hành vi
độc ác, là ta đã nuôi dưỡng mầm ác độc trong lòng những thế hệ tương lai…”
Không chỉ trong văn chương mà ở nhiều lĩnh vực khác. “sự thật” luôn là
một thước đo giá trị, nhưng đồng thời vấn đề “sự thật nào?” luôn được đặt ra;
cũng có nghĩa là sự thật bao giờ cũng gắn với góc nhìn và sự thật đúng nhất khi
được soi sáng bởi cái nhìn đậm tính nhân văn, công bằng, không bị định kiến
chi phối.
Tác giả “Công chúa Đồng Xuân” đã “trung thành với sự thật lịch sử”
theo quan niệm như thế. Điều đó đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn cho tác
phẩm, mặc dù không phải mọi người đều tán đồng quan điểm của tác giả.
Trần Thùy Mai trung thành với lịch sử giai đoạn này còn vì bản thân nó
đã đầy chất tiểu thuyết. Nói cho vui: với một hiện thực như thế, dại chi bịa đặt
thêm chuyện để rồi bị phê phán là xuyên tạc lịch sử! Tuy vậy, trên “đất dụng
võ” như là một mỏ quý có thể khai thác vô tận này, trên cái “khung” này, cũng
phải có nhiều “hoa lá” mới tạo nên tiểu thuyết hấp dẫn. Mặt khác, cái “khung”
dù vững chắc, vẫn luôn có nhiều khoảng trống – những điểm mờ, những vùng
khuất, để nhà văn tha hồ cài thêm “hoa lá”. Tác giả “Công chúa Đồng Xuân” đã
vận dụng thủ pháp hư cấu trên nhiều phương diện, từ chuyện ái ân chỉ hai người
biết trong cung cấm đến những “dại cảnh” hàng trăm ngàn người trên nhiều
chiến trường đẫm máu… Điều này sẽ bàn thêm ở phần sau; ở đây, xin được nói
kỹ hơn về nhân vật Nguyễn Chí – một “ẩn số” trong bài toán giải oan cho Đồng
Xuân và Hồng Hưu, hoàn toàn do nhà văn sáng tạo ra.
Thủ pháp hư cấu cho phép nhà văn làm điều đó. Tài năng của nhà tiểu thuyết là tạo dựng
nên số phận con người vô danh “có thể có thật” trong “khoảng trống” lịch sử ấy như thế
nào. Nhân vật lịch sử (như Nguyễn Tri Phương…) chỉ có một; nhưng “ẩn số”
này có vô vàn sự lựa chọn. Trần Thùy Mai đã chọn Nguyễn Chí là một tráng sĩ,
xuất thân từ miền Nam, chịu ơn và quen biết các linh mục, có điều kiện tiếp cận
với các nhân vật lừng danh như Phan Thanh Giản, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn
Tri Phương…, tung hoành khắp cả ba miền đất nước, trở thành nhịp cầu nối
tuyệt hảo để gắn kết các sự kiện, nhân vật lịch sử tên tuổi. Chàng xuất hiện ngay
từ đầu tác phẩm, gặp gỡ và cùng đấu võ với Đoàn Trưng trong phủ Tùng Thiện
Vương để tìm cách dâng kế sách cứu nước của Nguyễn Trường Tộ lên vua Tự
Đức, khi giặc Pháp đã bức hãm thành Gia Định; vừa may gặp lúc Gia Phúc (tức
Đồng Xuân công chúa) vốn tính nghịch ngợm, trèo tường qua Phủ bị ngã vào..
vòng tay của tráng sĩ miền Nam…Mãi đến cuối sách, sau khi Nguyễn Lâm (con
Nguyễn Tri Phương và là chồng công chúa Đồng Xuân) hy sinh trong cuộc
chiến bảo vệ thành Hà Nội, thì Nguyễn Chí mới có điều kiện thổ lộ tình yêu của
mình với Đồng Xuân… Chỉ “trích yếu” chừng đó, đủ thấy mối “duyên nợ” của
nhân vật vốn là vô danh này có vai trò quan yếu như thế nào trong tác phẩm.
Nói cách khác, không hư cấu nhân vật Nguyễn Chí, không có tiểu thuyết Công
chúa Đồng Xuân”!
2.- Một kết cấu đa tầng, đan cài hợp lý chuyện riêng tư thầm kín và
“đại sự” quốc gia:
Với một tiểu thuyết dày dặn, ôm trùm một không/thời gian rộng lớn như
“Công chúa Đồng Xuân”, phải có cách tổ chức, kết cấu các chương hồi khôn
ngoan mới giữ được độc giả. Trần Thùy Mai đã sắp xếp hợp lý và khéo léo
những cảnh đời thường trong cung cấm xen giữa các cuộc bàn luận chính sự,
các trận chiến phe phái khiến người đọc có cảm giác luôn được “đổi món”. Tác
giả không ngại đưa lên trang sách nhiều cảnh ái ân giữa vua Thiệu Trị và Tự
Đức với các ái phi, giữa vợ chồng Đồng Xuân-Nguyễn Lâm, giữa Đồng Xuân
và người tình Nguyễn Chí… Đây là cảnh Thiện phi – người đang cố lợi dụng sự
“khéo nói và xinh đẹp” được vua ưu ái để bênh che cho gia đình:
“…Nói rồi Thiện phi trút bỏ áo lụa, nằm xuống. Mái tóc dài xõa ra, một
mùi hương hoa hồi nhẹ nhàng lan tỏa, ngây ngất như men rượu. Nàng vừa cười
khúc khích, vừa lăn tròn vào lòng vua…” Những “thao tác’ ái ân vợ chồng thì
còn nhiều cây bút viết “bạo liệt” hơn, nhưng có lẽ chỉ nữ sĩ xứ Huế như Trần
Thùy Mai mới “tỉ mẩn” liệt kê những “gia vị” lúc Thiện phi tắm gội, chuẩn bị
cho “bữa tiệc” ái ân như thế này:
“…Lúc chiều, nàng vừa tắm, ngâm mình thật lâu với chất bột từ, quế,
hồi, mật ong và một thứ thảo dược rất đặc biệt. Một phương sĩ đã bán thứ bột
này cho mẹ nàng với giá đắt hơn vàng…”
Nhà văn cũng miêu tả rất tỉ mỉ các vị thuốc và cách chăm sóc công chúa
khi mới sinh con…
Bên cạnh những đoạn văn đậm nét riêng tư và phong vị Huế như thế,
khung cảnh trận đại chiến chống quân xâm lược Pháp tại cửa ngõ Sài Gòn vào
một ngày Xuân 162 năm trước (ngày 24/2/1861) gây ấn tượng mạnh đối với độc
giả,
“…Đại đồn Kỳ Hòa xây trong bảy tháng ròng rã mới tạm xong. Lại một
lần nữa Tết đến, Nguyễn Tri Phương cho những ai quê ở Nam về thăm gia
đình. Hơn hai vạn lính quê xa ở lại giữ chiến lũy. Bản thân ông và em trai cũng
ở lại. Từ các vùng lan cận, người dân tấp nập gánh rượu, thịt, bánh chưng,
bánh tét đến xin ủng hộ cho chiến sĩ ăn Tết xa nhà […]…Tháng giêng năm Tân
Dậu, dân chúng ở cửa sông Sài Gòn chứng kiến một cảnh tượng chưa từng
thấy.
Một hạm đội đông nghịt giăng kín trước biển đông. Tàu lớn, tàu nhỏ xuất
hiện, cờ tam tài ba màu xanh, trắng, đỏ bay phần phật che kín trời. Quân thám
báo đưa tin về Kỳ Hòa: đếm được tất cả 68 tàu chiến lớn, nhỏ đã bỏ neo trước
cảng… Chỉ huy quân đội lần này là trung tường Charner, với hơn tám ngàn
quân lính và 600 phu đài tải mộ được từ bên Tàu.
Trong đại đồn, Nguyễn Tri Phương lập tức nai nịt lên đài chỉ huy. Một
trăm năm mươi khẩu đại bác trên mặt thành sẵn sàng khạc đạn về phía địch…”
Thật tiếc và đau xót là với đội quân có thể nói là khổng lồ – khoảng một
vạn lính và hai vạn dân công, với đồn lũy cũng đáng gọi là vĩ đại vào thời điểm
đó, với ý chí chiến đấu quên mình của binh lính và tướng lĩnh, kỳ vọng của đại
tướng Nguyễn Tri Phương, của cả vua Tự Đức là chặn được bước tiến của đội
quân xâm lược đã thất bại. Gần một vạn linh và dân phu đã hy sinh, tướng
Nguyễn Tri Phương bị thương và Phạm Đăng Nhật - em trai Từ Dụ Thái Hậu
cũng tử vong!...
Tác giả đã miêu tả trận chiến bi tráng này với những cảnh tượng thật
khốc liệt đẫm máu, nhưng nhà tiểu thuyết không chỉ là người tả cảnh mà điều
quan trọng hơn có khi là suy ngẫm về kết cục trận đánh. Mấy ngày sau, tại nhà
thờ Chợ Quán, cách không xa tòa nhà Bộ chỉ huy Pháp, Nguyễn Trường Tộ nói
với Nguyễn Chí:
“…Máu người Việt đổ ra như suối, tôi tin là người Việt không ai khỏi đau
xót. Nhưng kết cục này không bất ngờ! […] Chúng ta thua họ gần hai trăm năm
phát triển kinh tế công nghiệp…”
Đoạn đối thoại khá dài, chạm đến quốc sách dánh quân xâm lược và sự
thay đổi để phát triển đất nước, cả nỗi đau sát đạo khi “trong con mắt triều
đình… tất cả dân đạo đều là Tây hết!” càng khiến Nguyễn Chí đau buồn vì linh
mục Đặng Đức Tuấn - người cha tinh thần của anh đang bị giam tại Quảng
Ngãi…
Với thủ pháp kết cấu xen kẽ chuyện “vĩ mô” và “vi mô”, ngay sau “đại
cảnh” thất thủ đồn Kỳ Hòa, tác giả miêu tả cảnh họa sĩ vào cung vẽ chân dung
cho Gia Phúc theo lệnh của Thái hậu Từ Dụ, với chi tiết có lẽ chi nữ si xứ Huế
mới để ý, khi dẫn lời Thái hậu bảo người giúp trang sức cho Gia Phúc: “Khóa
dây chuyền có ba nấc, con đeo cho công chúa thì chọn nấc trong cùng. Làm sao
cho dây ngắn lại, mặt ngọc cao lên, xa hẳn bộ ngực. Người con gái đeo ngọc,
cốt để người nhìn ham ngắm ngọc mà không nhìn xoi móc trên cơ thể mình…”
Và chính vào lúc đó, vua Tự Đức cho người đến tìm Thái hậu, sau khi nghe tin
thất thủ Kỳ Hòa, danh tướng Nguyễn Tri Phương cùng các phụ tá đang chờ chịu
tội và em trai Thái hậu tử vong. khiến nhà vua uất hận đến hộc máu mũi. Cũng
chỉ trong chương mang tên “Quan khâm sai” này, bạn đọc được “thấy” vị vua
từng bị lên án yếu nhược, bán nước cho Tây, sau khi được Thái hậu thương mến
gọi bằng tên hồi nhỏ “Nhậm con!”, rồi vừa khuyên dạy, vừa “tự tay cởi chiếc
áo bào dính máu cho Hoàng đế. Gấp gì thì gấp, vẫn phải cho tề chỉnh, đúng
phong độ quân vương”, vua Tự Đức đi sang điện Cần Chánh gặp Thượng thư
bộ Binh Trần Tiễn Thành, chuẩn y lệnh điều cấp tốc “4.000 quân lính vào Biên
Hòa, đề phòng Phú Lang Sa thừa thắng tiến về phía kinh đô” và “cho thợ quân
khí ở Phường Đúc dùng thép cực tốt để làm xích chắn” cửa Thuận An phòng
chặn tàu giặc. Nhà vua cũng “lệnh cho quan Chưởng ấn là Phạm Hữu Thước
đem cờ biển vào Nam bắt hết các tướng thất trận cùng các quan tỉnh bỏ lỵ sở,
bắt luôn cả Nguyễn Tri Phương”; chưa hết, vua còn cử Thượng thư bộ Hộ
Nguyễn Bá Nghi làm Khâm sai đại thần vào Biên Hòa thay mặt vua giải quyết
mọi sự việc khẩn cấp; vẫn chưa hết, trong chương này, bạn đọc còn được “thấy”
quan Khâm sai khi ghé Quảng Ngãi, gặp Tổng đốc là bạn học thuở nhỏ, biết
linh mục Đặng Đúc Tuấn đang bị giam ở đây, có mang theo một bức kế sách
muốn dâng lên Hoàng thượng, quan Khâm sai liền mời lên gặp, ra lệnh tha và
“cho lính khiêng cáng đưa Đặng Đức Tuấn về kinh đô. Ông lại cẩn thận viết
một bức thư giới thiệu linh mục với đại thần Phan Thanh Giản” …
Chỉ sơ lược nội dung một chương sách đã thấy tính đa tầng của tác phẩm,
không chỉ tạo nên sự phong phú có sức lối cuốn độc giả mà còn cho thấy cuộc
sống vốn đa dạng, không thể nhìn một chiều. Bên cạnh lớp quan lại hủ lậu, bảo
thủ và cuộc “sát đạo” tàn nhẫn đến kinh hoàng, vẫn có quan Khâm sai biết lắng
nghe “tiếng nói khác” và kính trọng vị linh mục từng du học Tây phương có tầm
nhìn xa trông rộng và thật lòng yêu nước. Trò chuyện với tôi trong cuộc gặp đầu
năm của Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Huế trong một nhà hàng bên sông
Hương, Trần Thùy Mai cho biết linh mục Đặng Đức Tuấn là nhân vật có thật
trong lịch sử. Tất nhiên, phải có hư cấu mới thành chương tiểu thuyết nói
trên… (Để “kiểm tra’, tôi vào Google thì quả nhiên có ghi: “Đặng Đức
Tuấn (1806-1874) là một linh mục Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam. Ông
từng giữ vai trò thông ngôn cho phái đoàn do vua Tự Đức cử gồm sứ bộ Phan
Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Gia Định thương nghị rồi ký hòa ước
với Thực dân Pháp vào năm 1862. Ông góp phần quan trọng trong việc
khiến vua Tự Đức ra; Chỉ dụ bãi bỏ lệnh phân sáp; cấm đạo Kitô bằng những
bảng điều trần ông viết gửi cho triều đình thời đó. Ngoài ra, ông còn được ghi
nhận là một danh nhân văn hóa, nhà thơ, nhà Hán Nôm với nhiều tác phẩm có
giá trị trong lĩnh vực Công giáo và xã hội …)
Cuộc khởi nghĩa “Chày Vôi”, các vụ bạo loạn tranh giành ngôi báu và
khung cảnh kinh thành ngày Thất thủ Kinh đô” cũng lôi cuốn bạn đọc, không
chỉ nhờ cách miêu tả cận cảnh, không né tránh những cảnh khốc liệt và bi thảm
càng gây ấn tượng mạnh khi xen kẽ trước và sau những màn kịch lớn đó là
chuyện riêng tư thầm kín của các nhân vật cùng những suy tư, dằn vặt về
nguyên nhân dẫn đến bạo loạn và mất nước …
3.- Nhân vật & ngôn ngữ đối thoại sống động, gợi nhiều suy tưởng:
Đã từng có quan niệm tiểu thuyết không cần nhân vật, nhưng theo tôi,
tiểu thuyết - nhất là tiểu thuyết lịch sử, nhân vật là yếu tố quan trọng bậc nhất.
Đọc “Công chúa Đồng Xuân”, chúng ta thấy tác giả đã rất công phu trong việc
xây dựng hệ thống nhân vật của mình. Điều dễ thấy, với hàng trăm nhân vật –
trong đó, hàng loạt tên tuổi mà chỉ riêng một người cũng hội đủ “tiêu chí” dựng
thành tiểu thuyết như Tôn Thất Thuyết, Phan Thanh Gian, Nguyễn Trường Tộ,
Nguyễn Văn Tường…, nhà văn không thể chăm chút, miểu tả kỹ lưỡng tất cả;
do đó, cũng có nhân vật còn sơ lược. Tuy vậy, các nhân vật chính như vua Tự
Đức, Đồng Xuân, Thái hậu Từ Dụ… tác giả đã tạo dựng thành nhân vật tiểu
thuyết có số phận sống động. Như Gia Phúc (Đồng Xuân) mang tính cách ngỗ
ngược, phóng túng, phá cách khác người ngay khi chưa ra đời. Nói vậy, vì cung
nữ Ý Nhi được tiến cử vào cung khi vua Thiệu Trị đang lâm bệnh trọng, có
phương sĩ hiến kế rằng “tìm một trinh nữ hợp tuổi, hợp mệnh với nhà vua, đưa
vào hầu hạ thì vận rủi có thể hóa giải…”; mặc dù nhà vua không nỡ lấy đời
người con gái khi mình sắp chết, nhưng Ý Nhi tha thiết “dù đêm nay Hoàng
thượng không đụng đến thiếp thì cũng không ai biết, ai tin. Nay mai Hoàng
thượng băng hà, thiếp sẽ phải lên ở trên lăng tẩm…”, rồi nàng gần như là “lăn
xả” vào, “trần truồng nằm sấp phủ lên người nhà vua […] ú ớ như đang mê
sảng: “Thiếp phải có đứa con… Thiếp không muốn làm gái hộ lăng…”
Gia Phúc đã ra đời như thế nên từ bé đã dám trèo tưởng qua phủ Tùng
Thiện Vương xem Nguyễn Chí và Đoàn Trưng đấu võ, khi “bị” Tôn nhơn phủ
gả về làm dâu nhà Nguyễn Tri Phương, chàng rể Nguyễn Lâm võ nghệ cao
cường mà sơ ý bị vợ hất xuống giường rồi mãi không dám chung chăn gối!
Những trò hờn dỗi, nóng lạnh thất thường của cặp đôi này là cảnh vui nhất trong
“Công chúa Đồng Xuân”. Vậy nhưng sau ba năm Nguyễn Lâm ra chiến đấu bảo
vệ thành Hà Nội, nàng nhớ chồng đến gần như loạn trí, dù đường xa vạn dặm
đầy bất trắc, nàng đã nhất quyết đòi được ra thăm chồng, lúc trở về còn bị toán
“Nghĩa hội” trong phong trào “Bình Tây sát Tả” xứ Nghệ bắt cóc giam trong
hầm tối…Câu chuyện Nguyễn Chí vô tình tìm thấy nơi giam Đồng Xuân, rồi
xuyên hầm đưa nàng ra sông Lam… xem ra tác giả đã hư cấu quá mạnh tay, gần
với truyện võ hiệp! Nhưng sự đời ai học hết chữ ngờ; mọi việc đều “có thể”.
Con đau đẻ của Đồng Xuân diễn ra chính vào ngày Thất thủ Kinh đô đẫm máu
không chỉ là “điều có thể” mà có lẽ tác giả vừa muốn lấy nước mắt bạn đọc, vừa
gửi gắm ý tưởng một sinh mạng ra đời trong đau thương đồng thời báo hiệu đất
nước rồi sẽ bước sang thời kỳ mới khi nhà vua phải rời Kinh đô, cũng có nghĩa
ngày cáo chung chế độ phong kiến sắp đến.
“Ngoài cửa sổ, nắng đã lên, một ngày mới bắt đầu!” Đây là câu kết tác
phẩm, cũng là kết thúc chương miêu tả con gái Đồng Xuân mở quán bên bờ
Nam sông Hương, đón các sĩ phu Ngô Đức Kế, Nguyễn Sinh Sắc, Phan Châu
Trinh vào thi Hội - lớp trí thức Nho học bắt đầu biết hướng tới những chân trời
mới…
Xây dựng công chúa Đồng Xuân thành một kiểu “nhân vật nổi loạn”, tác
giả đã tạo ra điều kiện tốt nhất để thể hiện vấn đề bản thể nữ tính và nữ quyền,
nhất là trong cung cấm và những năm tháng công chúa góa chồng, khao khát
đàn ông đến điên dại… Sau những giờ phút ái ân với Nguyễn Chí, khi chàng
buộc phải ra đi, nàng đã thốt lên đau đớn: “Sao chúng ta lại không được như vợ
chồng dân dã […] Lầu son gác tía để làm gì? So ra thiếp còn khổ hơn con mèo,
con chó. Con chó con mèo còn có đực cái, có âm dương…” Hơn thế, nhân vật
kiểu “nổi loạn” như Đồng Xuân còn là dấu hiệu bất toàn của gia tộc và thế chế
(ở đây là chế độ phong kiến suy tàn), nhiều khi chính là nơi phát ngôn của tiếng
nói “phi chính thống”, của đám đông vì yếu thế không dám cất lên…
Các nhân vật trong “Công chúa Đồng Xuân” để lại dấu ấn sâu đậm trong
lòng độc giả còn nhờ ngôn ngữ đối thoại sắc nét, gợi nhiều suy tưởng về nhân
tình, thời cuộc… Dưới đây là đoạn đối thoại giữa quan Phủ Doãn Thừa Thiên
Nguyễn Văn Tường với Nguyễn Chí khi chàng được chọn vào đội giáp sĩ của
Phủ Thừa Thiên, nhưng đã bí mật thả Đinh Đạo, người tưởng sẽ lên ngôi vua
trong biến động “Chày Vôi”. Khi nghe Nguyễn Chí nhắc lời sư phụ dạy “học võ
nghệ là để cứu người, không phải để giết người”, Nguyễn Văn Tường nói:
“- Sư phụ người sai rồi. Muốn cứu người này , thường phải tiêu diệt
người kia. Cầm kiếm cũng như cầm quyền vậy, không có ai cầm quyền mà chưa
từng đưa ra ít nhất một lệnh liên quan đến mạng người. Đòi một người cầm
quyền phải tuyệt đối thánh thiện hiền từ, đó là việc không thể. […]
- Tại hạ một lòng vì lẽ thiện, cũng như đại nhân một lòng vì
Hoàng đế… […
]- Ngươi nghĩ ta hành đồng vì Hoàng đế. Thực ra cũng không hẳn vậy đâu.
Ta hành động vì sự trị an của đất nước […] Người vẫn còn non lắm, chưa biết
phân biệt phải trái khi nhìn đời. An bang tế thế bằng cách làm giặc được
sao? ...”
Chỉ vài câu nói, quan Nguyễn Văn Tường đã hiện ra là một nhân vật
quyền biến. Còn đây là câu Nguyễn Chí nói với Đoàn Châu – em gái Đoàn
Trưng, vì thờì thế bó buộc đã phải tạm núp bóng quân Cờ Đen chống Tây:
“…Ham sống, âu cũng là bản tính của con người. Chỉ có quân Cờ Đen, chúng
được thúc đẩy bởi lòng tham, nên mới quên cả tính mạng, sức mạnh của chúng
ở đó. Sự xấu ác bao giờ cũng có sức mạnh tàn bạo, nhưng đừng quên, nọc độc
của xấu ác sẽ tai hại đến muôn đời!” Mấy câu nói đủ để nhận ra một con người.
Trong “Công chúa Đồng Xuân” rất-rất nhiều những đoạn đối thoại giàu
trí tuệ và sắc sảo như thế. Chỉ có thể dẫn thêm đoạn đối thoại rất đặc sắc giữa
Từ Dụ Thái Hậu và võ tướng Tôn Thất Thuyết khi bà quyết định quay trở lại
Huế, chứ không theo đoàn Cần vương ra Tân Sở:
“…- Ông phụ chính, ta đã nghĩ kỹ rồi, đến đây ta không cùng đi với ông
được nữa.
– Tại sao?
– Ta không thể đi cùng đường với một kẻ bạo tàn, không muốn ông tiếp
tục dùng ấn ngọc của ta để tiếp tục ban ra nhưng ý chí sát nhân […] Có người
mẹ, người bà nào có thể đi cùng đường với kẻ đã giết con cháu của mình
không?
- Đó là những người đã mang tội trước lịch sử, xin Đức bà
hãy nhớ điều đó! Tôn Thất Thuyết gằn giọng
Thái hoàng hái hậu cười chua xót:
- Hình như với ông, thì ngoài ông ra, tất cả mọi người đều có
tội!
- Đúng vậy, tâu Đức bà, ai không theo ta, đều là kẻ thù của ta.
- Giá như ông có thể nghĩ khác đi: ai không chống lại ta đều có thể
là bạn! Nhưng thôi, ta đã hy vọng vô ích. […] Sở dĩ bao lâu ta âm thầm chịu
đựng, chính là vì nể nang trong tay ông còn nắm ngọn cờ yêu nước. Nhưng giờ
thì ta đã hiểu ra, có lẽ nào dân tộc này lại có thể được cứu rỗi bởi một kẻ hiếu
sát như ông?”
Đã đành đoạn đối thoại này cũng như nhiều cuộc tranh cãi nẩy lửa giữa
hai phái “chủ hòa” và “chủ chiến” là ngôn ngữ của các nhân vật tiểu thuyết,
nhưng đồng thời là chính kiến của Trần Thùy Mai muốn gửi gắm qua tác phẩm.
Cũng là lẽ tất nhiên, có thể sẽ có ban đọc không đồng tình với tác giả, Đó cũng
là lẽ thường, nhất là với giai đoạn lịch sử đầy biến động, phức tạp mà các nhà
nghiên cứu lịch sử tên tuổi vẫn còn có ý kiến khác nhau. Biết tôn trọng và lắng
nghe “tiếng nói khác” là dấu hiệu một xã hội còn muốn tiến bộ…
Còn nhiều điều rất đáng được trao đổi, nhưng xin mượn lời giới thiệu tác
phẩm của Nhà xuất bản để kết thức bài viết này: “Cùng với Từ Dụ Thái Hậu,
Công chúa Đồng Xuân hợp thành một bộ truyện sử hoàn chỉnh. Qua đó, mỗi
phận người gắn liền với vận mệnh của đất nước chìm nổi, luân lạc, mất mát đến
tận cùng nhưng vẫn không bao giờ nguôi hy vọng…”
Trường An-Huế, những ngày đầu Xuân Quý Mão. (N.K.P.)
Nguyễn M. Hùng: Phỏng vấn nhà văn Trần Thùy Mai
Hỏi: Từ đâu mà bà hứng thú với vụ án của Công chúa Đồng Xuân?
Trần Thùy Mai: Trước hết, là phụ nữ, tôi có sự thương cảm với một số phận không
may, và theo tôi là oan uổng.
Đồng Xuân công chúa là con út vua Thiệu Trị, và là con dâu danh
tướng Nguyễn Tri Phương. Chồng bà là phò mã Lâm hy sinh vì nước
khi chưa đầy ba mươi tuổi. Cuộc đời của nàng công chúa này gắn chặt
với những sự kiện đau thương của đất nước, với những xung đột chết
người trong triều đình Nguyễn lúc bấy giờ. Đó cũng là bi kịch của
người đàn bà trong chiến tranh, sống trong sự thiếu đói tình yêu, tình
dục, và cuối cùng là nạn nhân của nền tư pháp tàn nhẫn thời phong
kiến.
Khi nhìn thấy những dòng chữ ghi về bà trên Wikipedia, tôi thấy
trong lòng thương xót, và bất giác muốn viết lại vụ án dưới góc nhìn
của con người ngày nay…
Từ Từ Dụ Thái Hậu đến Công chúa Đồng Xuân, điều gì ở
những người phụ nữ Phong kiến thu hút bà?
- Ấy là những gánh nặng đè lên thân phận họ. Thái hậu Từ Dụ là người
đàn bà được tôn vinh nhất trong lịch sử triều Nguyễn, còn Công chúa
Đồng Xuân có thể nói là người đàn bà có số phận tủi nhục nhất.
Nhưng cả hai đều phải chịu những bi kịch riêng, một người phải trả
giá cho sự vinh quang, một người phải trả giá cho khát vọng sống của
mình.
Ở góc độ chân thật với lịch sử, bà nhận xét thế nào về Công
chúa Đồng Xuân?
- Việc Đồng Xuân bỗng có thai sau 10 năm ở góa, đó là chuyện có
thật. Với luật lệ đương thời, làm gì có những quan niệm rộng mở về
việc “làm mẹ đơn thân” như bây giờ, nên việc đó đã đủ cấu thành một
tội rất lớn, thời ấy gọi là tội “hòa gian”.
Tội “hòa gian” đó tuy nặng, nhưng phải được nhân lên thành “loạn
luân” thì mới đủ là một tội có thể làm cho người liên quan phải tan nát
cả gia tộc. Nhiều sử liệu đời sau ghi rằng người dan díu với Đồng
Xuân chính là anh trai, Gia Hưng quận công Hồng Hưu.
Theo tôi đó là sự ghi chép vội vàng chưa cẩn thận. Vì nếu đọc kỹ càng
hai sử liệu gốc của triều Nguyễn là Đại Nam Thực Lục và Đại Nam
Liệt Truyện, thì sẽ thấy sử gia triều Nguyễn chưa bao giờ đặt bút
khẳng định rằng có việc ấy. Họ chỉ viết rằng Gia Hưng quận vương,
Công chúa Gia Phúc bị tội như vậy, như vậy,… là do có người tố giác
như vậy mà thôi.
Những chi tiết của đầu đuôi vụ án cũng không được sử gia trực tiếp
khẳng định, mà chỉ được ghi trong tờ biểu tố cáo do Tôn Thất Thuyết
dâng lên Từ Dụ Thái Hậu lúc bấy giờ. (Đại Nam Thực lục chính biên,
đệ ngũ kỷ, quyển IV)
Càng đọc kỹ sử liệu gốc, tôi càng thấy người viết sử xưa rất thận
trọng, chỉ ghi đúng những gì họ nghe, họ thấy, chứ không có thái độ
suy diễn, gáp ép, hoặc lấy chuyện đồn đại ghi vào rồi xem như sự thật.
Như ta biết, lúc ấy trong triều đình đang có xung đột căng thẳng giữa
Tôn Thất Thuyết với Hồng Hưu. Một vụ án xét xử vội vàng như vậy,
trong tương quan như vậy, đáng để ta đặt lại vấn đề: Sự thật ở đâu?
Theo bà, viết tiểu thuyết lịch sử Việt Nam có những khó khăn gì?
- Trong mọi công việc, tôi không có thói quen nghĩ nhiều về sự khó
khăn. Hơn nữa, khi làm một việc mình đam mê, thì những khó khăn
càng làm cho mình động não và hứng thú hơn.
Riêng về triều Nguyễn, những sự kiện xảy ra chưa quá xa xưa, các bộ
sử ghi chép tương đối đầy đủ so với các triều trước. Bên cạnh đó, ký
ức dân gian còn lưu giữ nhiều truyền thuyết, giai thoại. Những năm
gần đây, nhiều tư liệu mới hơn về giai đoạn 1858- 1888 đã được công
bố, trong đó có cái do các nhà nghiên cứu người Pháp, người Nhật
viết, có cái do các nhà nghiên cứu Việt Nam viết. Những tư liệu mới
này đã mở rộng nhiều cánh cửa, cho phép ta có một cái nhìn đa chiều
hơn về những nhân vật lịch sử. Vì vậy theo tôi, lúc này viết truyện
lịch sử, nhất là về triều Nguyễn, là việc nhiều thuận lợi hơn là trở
ngại.
Theo bà, điều gì làm nên thành công của một tiểu thuyết lịch sử?
- “Lịch sử mở cánh cửa sổ cho ta nhìn về quá khứ. Tiểu thuyết lịch sử
nắm tay ta đi vào trong thế giới của quá khứ ấy.”
Tìm thấy gì trong thế giới đó, lại là chuyện rất riêng của từng người
đọc.
Như với tiểu thuyết này, những bạn đọc trẻ tuổi có thể cảm nhận một
tình yêu dài suốt đời người, một chuyện tình mang tính định mệnh mà
người trong cuộc càng tránh lại càng không thể thoát.
Những bạn quan tâm nữ quyền, có thể thấy số phận người đàn bà của
những thế kỷ trước, - từ người nữ bình dân như Đoàn Châu, Cúc Tần,
tới người nữ quý tộc như Đồng Xuân công chúa.
Những bạn quan tâm văn hóa Việt thế kỷ 18-19, có thể tìm gặp những
nét phong tục tập quán của người xưa, trong nhiều mặt sinh hoạt cung
đình và dân gian: cuới gả, sinh nở, làm đẹp, quan niệm về tình dục,
đức hạnh và tội lỗi…
Những bạn nào quan tâm về lịch sử, sẽ tìm thấy ở đây những vấn đề
của lịch sử Việt trong 30 năm đầu xung đột với Thực dân Pháp. Đâu
là trách nhiệm của các vua Nguyễn? Đâu là trách nhiệm của sĩ phu và
cả dân tộc? Phong trào Cần Vương, Văn Thân và các nhóm Bình Tây
Sát Tả đã làm gì, và thực tế xã hội thời đó ra sao?
Tiểu thuyết lịch sử là sự đan cài giữa hư cấu tưởng tượng và sự thực
lịch sử. Sự thực là bộ khung, tưởng tượng là hoa lá. Bộ khung càng
chắc thì hoa lá càng tươi thắm. Tôi nghĩ đó là điều kiện để một tiểu
thuyết lịch sử thành công, và tôi cố gắng để theo như vậy.
Các quốc gia như Trung Quốc có cách quảng bá lịch sử hấp
dẫn, phong phú qua văn chương, điện ảnh. Bà nghĩ sao về trách nhiệm
của nhà văn Việt trong việc đưa lịch sử đến gần hơn với thế hệ trẻ?
- Một nhà văn (Louis L’amour) đã nói: “Tiểu thuyết lịch sử là cách dạy
sử tốt nhất, vì nó đưa ra những câu chuyện về con người đàng sau
những sự kiện lịch sử, và làm cho người đọc cảm thấy mong muốn
được tìm hiểu thêm.” Tôi nghĩ không riêng nhà văn Việt, mà tất cả
những nhà văn viết truyện lịch sử trên thế giới đều cảm thấy mình có
chung mong muốn như vậy.
Bà có lời khuyên nào cho các nhà văn trẻ muốn dấn thân vào
dòng tiểu thuyết lịch sử?
- Trong sáng tác, rất tối kỵ việc khuyên nhủ nhau, bởi mỗi người là một
bông hoa riêng biệt có hương sắc riêng trong vườn văn. Giá trị của
người cầm bút chính ở chỗ rất riêng ấy. Cùng là tiểu thuyết lịch sử,
mỗi người viết có sự lựa chọn khác nhau về cách dàn dựng, về ngôn
ngữ, thủ pháp. Vì vậy, nếu có lời khuyên cho các đồng nghiệp trẻ thì
tôi chỉ có một lời: “Đừng lo sợ, hãy là chính mình, và cứ thử làm điều
mình ấp ủ.” (Nguyễn M. Hùng)
Nguyễn Thị Tịnh Thy: Giải oan cho cuộc biển dâu này
Đồng Xuân, công chúa út của vua Thiệu Trị, tên là Nguyễn Phúc Gia Phúc. Tên là
vậy, nhưng công chúa không được hưởng phúc mà suốt đời phải chịu vô phúc,
bạc phước.
Một tuổi mồ côi cha, 26 tuổi trở thành góa phụ, 37 tuổi, nàng bị vướng vào
một vụ án tình dục chấn động lịch sử: loạn luân với anh ruột là Gia Hưng Công
Nguyễn Phúc Hồng Hưu, sinh được một con gái.
Nàng bị phế thành thứ dân, buộc đổi sang họ mẹ và phải mang cái tên tục
tĩu, hạ đẳng: Hồ Thị Gia Đốc. Đến đời vua Đồng Khánh, Gia Đốc được phục vị công
chúa, nhưng bỏ hiệu Đồng Xuân, cải phong thành Phục Lễ công chúa, với ý nghĩa
là; quay về với lễ nghĩa.
Một đời công chúa Đồng Xuân chứa toàn bất hạnh và ô nhục. Đau không
thể đau hơn, nhục không thể nhục hơn, nhưng có thể cũng là oan không thể oan
hơn. Vì sao oan?
Trong tiểu thuyết Công chúa Đồng Xuân, nhà văn Trần Thùy Mai đã bằng
; quyền được suy đoán vô tội; để chiêu tuyết cho nàng và người anh ruột thịt
hoàng gia. Tội loạn luân của Gia Phúc - Hồng Hưu bị trừng trị tức thì mà không
qua xét xử.
Hồng Hưu bị lưu đày ở Lao Bảo, Quảng Trị và chẳng bao lâu sau thì chết
một cách bí ẩn. Hồng Hưu thông minh, hiểu thời cuộc. Ông thuộc phe chủ hòa, lại
hay qua lại với khâm sứ Pháp là Rheinart, được người Pháp quý trọng.
Để dập tắt hoàn toàn ngọn lửa chủ hòa trong triều, hai vị phụ chính đại
thần là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chỉ còn cách phải giết chết Hồng
Hưu. Hồng Hưu khôn ngoan và cẩn trọng, cáo ốm không vào chầu, không tiếp
khách, khiến các vị chủ chiến bế tắc.
Nhưng gót chân Asin của Hồng Hưu chính là cô em công chúa mà ông yêu
quý đang mang hoang thai. Chụp cái án loạn luân lên đầu anh em họ, Nguyễn Văn
Tường và Tôn Thất Thuyết đã thực hiện được ác ý của mình một cách vẹn toàn.
Công chúa Đồng Xuân không giữ tiết hạnh, chừng đó cũng đủ khiến người
đàn bà vương tôn quý tộc như nàng chịu trừng phạt. Nhưng khép nàng vào tội
loạn luân thì thật quá oan nghiệt. Nàng là nạn nhân của cuộc tương tàn đau xót
giữa hai phái chủ chiến và chủ hòa trong những năm tháng nước mất nhà tan của
triều Nguyễn.
Tuy nhiên, nhà văn chỉ mượn câu chuyện vụ án tày trời này để làm nút thắt
cho công cuộc chọn đường cứu nước của hai phái chủ hòa và chủ chiến. Song
hành với câu chuyện đời tư của công chúa Đồng Xuân là câu chuyện thế sự.
Tác giả tái hiện bức tranh lịch sử Việt Nam từ đời vua Tự Đức đến đời
Thành Thái với trùng trùng mâu thuẫn và xung đột giữa người Pháp xâm lăng và
người Việt yêu nước, giữa quân tướng nhà Nguyễn với quân phiến loạn Trung
Hoa, giữa hai phái chủ hòa và chủ chiến trong triều, giữa nông dân và triều đình,
giữa người Công giáo và người lương giáo...
Máu đã đổ rất nhiều vì hy sinh, vì hiểu nhầm, vì tận hiến cho quốc gia, cho
vương quyền và thần quyền. Mọi con đường cứu nước an dân đều bế tắc, trừ một
con đường là canh tân thì không được thực hiện.
Với kết cấu đa tuyến truyện được kể theo trục thời gian biên niên sử và sự
dịch chuyển không gian, tác giả đã trình bày sự kiện một cách lớp lang, sống
động.
Trừ một vài chỗ chưa thật thỏa đáng (việc; sát Tả; của Nghĩa hội, vai trò
của Đoàn Châu trong khởi nghĩa Đoàn Trưng, hành tung của Cúc Tần...), nhìn
chung, các tình tiết được xử lý chắc tay và kiến giải hợp lý hợp tình.
Đa số các nhân vật lịch sử được xây dựng thành công từ tính cách đến ngôn
ngữ, hành động và tâm lý.
Trong tiểu thuyết, ta thấy vua Tự Đức không làm thơ mà chỉ đau đáu vì
mệnh nước, Từ Dụ thái hậu nhân hậu sắc sảo, Phan Thanh Giản cương trực khẳng
khái, Nguyễn Trường Tộ hoài tài bất ngộ, Nguyễn Tri Phương tận trung quả cảm,
Đoàn Trưng quyết liệt dữ dội, Hồng Hưu điềm tĩnh thẳng thắn, Nguyễn Văn
Tường cơ biến quyền mưu, Tôn Thất Thuyết độc đoán và hiếu sát...
Mỗi người trong họ yêu nước, cứu nước bằng một cách khác nhau, nhưng
giống nhau ở chỗ đầy bế tắc và cùng quẫn.
Vì vậy, đọc tác phẩm, ta không chỉ thương cho sự bạc phước của công chúa
Đồng Xuân, mà lớn lao hơn, là thương cho sự bạc mệnh của đất nước từng lừng
lẫy những chiến công chống ngoại xâm phương Bắc nay vẫy vùng đến tuyệt vọng
trong bàn tay sắt của ngoại bang phương Tây.
Hiểu nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết Trần Thùy Mai mới thấy đa số họ
đều mang nỗi oan lịch sử, nỗi đau trăm năm" mới thấy yêu nước trong đớn đau
và tuyệt vọng thì xa xót biết nhường nào. Vì vậy, Công chúa Đồng Xuân là chút
rượu hồng đây xin rưới xuống / giải oan cho cuộc biển dâu này; (thơ Tô Thùy Yên)
của nhà văn Trần Thùy Mai đối với lịch sử. (NGUYỄN THỊ TỊNH THY)
Phạm Minh Quân: Công chúa Đồng Xuân - vén ẩn tình, bày lịch sử
Với Công chúa Đồng Xuân, nhà văn Trần Thùy Mai đã khắc họa lại toàn
bộ bức tranh lịch sử triều Nguyễn giai đoạn bắt đầu đương đầu trực tiếp với
cuộc xâm lăng của nước Pháp, qua một chân dung bi kịch cá nhân.
Từ mối hàm oan…
Bộ tiểu thuyết hai tập Công chúa Đồng Xuân (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2023)
có bối cảnh kéo dài 40 năm từ 1859 đến 1900, sát theo các mốc cuộc đời của công
chúa Đồng Xuân, đồng nghĩa cũng là các mốc lịch sử thời kỳ Pháp bắt đầu xâm
lược nước ta, với sân khấu chính là cuộc tranh giành quyền lực giữa hai phái chủ
chiến và chủ hòa trong triều đình nhà Nguyễn. Một nhân vật trung tâm của tiểu
thuyết, không những đại diện, mà còn song hành với một thời kỳ lịch sử.
Công chúa Đồng Xuân tên thật là Nguyễn Phúc Gia Phúc, là con gái thứ 35,
và cũng là con gái út của vua Thiệu Trị, mẹ là Cung nhân Hồ Thị Ý Nhi. Mười sáu
tuổi, Gia Phúc lấy phò mã Đô úy Nguyễn Lâm, con trai của Võ Hiển điện Đại học sĩ
Nguyễn Tri Phương. Năm 1873, Phò mã Nguyễn Lâm tử trận khi Pháp công thành
Hà Nội lần thứ nhất, công chúa trở thành góa phụ. Ở tuổi 26, “lá ngọc cành vàng”
đã trải qua biết bao thăng trầm, nhưng đó chưa phải là bất hạnh lớn nhất.
Trần Thùy Mai đã ấp ủ chấp bút Công chúa Đồng Xuân từ lâu. Khi còn công
tác tại Đại học Sư phạm Huế, trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu văn học dân
gian, đặc biệt ghi chép được các ca dao, truyện kể, bài vè sử xứ Thừa Thiên, nhà
văn phát hiện trong ký ức nhân dân có hai nhân vật triều Nguyễn được ghi dấu
đậm nét là Từ Dụ thái hậu và Tôn Thất Thuyết. Nhân vật thứ nhất - Từ Dụ thái
hậu, đã được bà chuyển tác thành bộ tiểu thuyết hai tập cùng tên ra mắt năm
2019, xoay quanh chủ đề cung đấu với những âm mưu, xung đột trong cung cấm.
Nhân vật còn lại - Tôn Thất Thuyết, thì đóng vai trò then chốt trong tiểu
thuyết Công chúa Đồng Xuân. Ông là thủ lĩnh phe chủ chiến, còn đối lập với ông,
Gia Hưng vương Hồng Hưu là người phe chủ hòa. Cả hai cùng với Nguyễn Văn
Tường đều là phụ chính đầu triều lúc bấy giờ. Sự nghiệp chính trị của Hồng Hưu bị
kết liễu bằng hai vụ việc, một là vụ loạn dâm với em gái cùng cha khác mẹ, chính
là Đồng Xuân công chúa, hai là án thông đồng với Khâm sứ Đại Pháp Pierre Paul
Rheinart.
Bởi thế, nhân vật chính của tiểu thuyết đồng thời cũng là bị can chính của
một trong hai nghi án lớn nhất thời Nguyễn. Án đầu triều trước đó là án Mỹ
Đường, xoay quanh Ứng Hòa công Mỹ Đường, con trai trưởng của hoàng thái tử
Nguyễn Phúc Cảnh, đích trưởng tôn của Hoàng đế Gia Long, bị vu tội tư thông với
mẹ ruột là Anh Duệ vương phi Tống Thị Quyên. Hậu cục là vương phi họ Tống bị
gia hình, còn Mỹ Đường thì thân bại danh liệt.
Hai vụ án chấn động triều Nguyễn đều được các nhà bình luận hậu thế
nhận định dường như là các vụ hàm oan nhằm động cơ chính trị. Điểm chung là
chứng cứ không thuyết phục, thuần túy dựa trên lời tố giác, dẫn đến hai nghi can
đều bị khép tội và xét xử một cách vội vã.
Việt sử giai thoại khi bàn về án Mỹ Đường cung cấp thêm một manh mối:
“Thời ấy, có hai tội thuộc hàng đại ác không thể tha, ấy là bất trung và thất đức.
Bất trung thì con trai trưởng của Hoàng tử Cảnh chẳng có biểu hiện gì, vậy thì
Minh Mạng muốn được yên vị trên ngai, ắt phải khép Mỹ Đường vào tội thất đức
là thông dâm với mẹ. Ôi, giá mà Mỹ Đường chẳng phải cháu đích tôn của Gia Long
thì đời ông sẽ êm thấm biết ngần nào...”.
Vậy chăng, nếu Nguyễn Phúc Hồng Hưu không phải là một nhân vật chủ
chốt của phái chủ hòa, không liên đới mâu thuẫn với phái của Tôn Thất Thuyết, thì
số phận của ông lẫn Đồng Xuân công chúa sẽ không phải chịu bi khốc?
Sự thật là sự thật nào?
Tại sao nhà văn Trần Thùy Mai lại chọn vụ án công chúa Đồng Xuân làm đề
tài cho tiểu thuyết của mình? Theo lời tác giả, vụ án xảy ra vào đêm trước khi kinh
đô thất thủ, sự kiện được coi là “một trong những chấn thương lớn để lại ám ảnh
sâu sắc trong đời sống văn hóa Việt”. Một chuỗi sự kiện biến động và song hành
như vậy, hiển nhiên có vấn đề của riêng nó.
Về đề tài lịch sử trong văn học Việt Nam sau 1986, nhìn chung các nhà
nghiên cứu cố gắng khái quát thành các khuynh hướng chính, có thể kể đến như
tái hiện, phục dựng và minh định lại bức tranh lịch sử (theo quan điểm của nhà
văn); hay ở một đối cực, lấy lịch sử làm bối cảnh cơ sở để tự do hư cấu; hoặc tận
dụng lịch sử như một chất liệu để diễn giải các vấn đề lịch sử, văn hóa, tín
ngưỡng…; đối thoại với lịch sử, mượn lịch sử để suy nghiệm về thời cuộc cùng
những vấn đề đương đại.
Tự thân tái minh định lịch sử cũng có hai chiều cạnh, một là “điền vào chỗ
trống”, nhà văn vận dụng óc hư cấu sáng tạo bổ sung vào những chi tiết sử học
còn đang bỏ ngỏ hoặc khiếm khuyết (như các tác phẩm của Hàn Thế Dũng, Ngô
Văn Phú, Đan Thành, Hoàng Quốc Hải), hai là “lật ngược” quan niệm cố hữu về sự
kiện và nhân vật lịch sử có vấn đề (Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Lại Giang, Võ Thị
Hảo, Nguyễn Quang Thân).
Công chúa Đồng Xuân, cùng Từ Dụ thái hậu trước đó cho thấy rõ quan điểm
tiếp cận của Trần Thùy Mai đối với tiểu thuyết lịch sử, đặc biệt là trong sự chuyển
dịch từ âm hưởng khuấy động, hiệu triệu tập thể của tiểu thuyết truyền thống -
bắt nguồn chủ nghĩa lãng mạn/anh hùng, cảm hứng lịch sử dân tộc - sang chủ
thuyết nhân đạo. Lịch sử là một đại tự sự cấu tạo nên từ nhiều tiểu tự sự riêng tư
của mỗi người. Lúc này, cái cá nhân, nhân văn được chú trọng và lên ngôi.
Ngay cả vấn đề hai phái chủ chiến và chủ hòa cũng được nhận định lại bằng
lăng kính bình thản, công tâm. Nếu trước đây, phe chủ chiến thường được xem
như lá cờ chính nghĩa, dựa theo truyền thống yêu nước đánh giặc, “quốc gia hưng
vong thất phu hữu trách” ngàn xưa, thì phái chủ hòa bị quy là chủ hàng (và chủ
bại), nhu nhược, dâng đất bán nước.
Song, khi lắng xét từ nhận thức đương đại, ranh giới tốt - xấu phân minh sẽ
bị xóa nhòa. Ngay cả trong số những người chủ hòa, cũng có một trí thức yêu
nước với nhân cách lớn, và không may cuộc đời là bi kịch cá nhân lớn: Phan Thanh
Giản. Dưới cái nhìn cảm thông hơn, cũng có thể giải pháp của họ, trong một trạng
huống ngặt nghèo của lịch sử, là để giảm thiểu thương vong xương máu nhân
dân.
Viết Công chúa Đồng Xuân, là Trần Thùy Mai muốn tìm một sự thật cho
nhân vật đầy bi thương và oan khuất này. Sự thật ở đâu sau một bản án vội vã,
đặt giữa chồng chéo những xung đột căng thẳng triều chính. Các sử gia hậu thế có
chắc đã chiêu tuyết cho nàng? Sâu xa hơn nữa, là sự thương cảm mang thiên tính
nữ tác giả dành cho một thân phận nữ đa truân nhưng đầy tình yêu-sống, tình
yêu-với-tình yêu.
Một trong những đặc sắc tài tình của tiểu thuyết lịch sử, là cấp cho những
sự kiện và nhân vật vốn vô tri trên văn tự một cái “hồn” sinh động. Không chỉ công
chúa Đồng Xuân, những nhân vật lịch sử có thật như vua Tự Đức, Từ Dụ thái hậu,
Phan Thanh Giản, Nguyễn Trường Tộ, Đoàn Trưng, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn
Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Phúc Hồng Hưu đều hiển hiện ấn tượng, có
sắc thái cá tính riêng qua mỗi trang viết. Còn một nhân vật hư cấu như Nguyễn
Chí, xuất hiện để biểu trưng cho sự chứng kiến và tham dự của tác giả lẫn người
đọc vào từng sự kiện, trong từng mối quan hệ với từng nhân vật, thậm chí hơn
thế nữa, lấy chính mình minh giải mối hàm oan cho nàng công chúa.
Sự thật là sự thật nào? Sứ mệnh của tiểu thuyết gia không phải là lệ thuộc
quá nhiều vào sự kiện lịch sử, để tìm cách “chép lại” nhân vật lịch sử “đúng” nhất
nhân danh sự thật, bởi đó là công việc của sử gia. Trái lại, với quyền hư cấu và
diễn giải của mình, họ “khắc họa” một chân dung nhân vật lịch sử sống động nhất
có thể thông qua văn chương. Đó là sự thật của nhà văn.
Nhà văn Trần Thùy Mai sinh năm 1954, quê ở huyện Hương Trà, nay là
phường Hương Long, thành phố Huế. Bà sáng tác văn chương khi còn là nữ sinh
trường Đồng Khánh và sinh viên Đại học Sư phạm Huế (trước 1975).
Trần Thùy Mai đã in 16 tập sách, một số tác phẩm tiêu biểu: Thị trấn hoa
quỳ vàng (1994), Trò chơi cấm (1998), Quỷ trong trăng (2001), Người khổng lồ núi
Bạc (2002), Thương nhớ Hoàng Lan (2003), Mưa đời sau (2005), Trăng nơi đáy
giếng (2010), Từ Dụ thái hậu (2019), Công chúa Đồng Xuân (2023)… Trong đó,
một số tiểu thuyết được chuyển thể thành phim và kịch: Gió thiên đường, Thập tự
hoa (2005), Trăng nơi đáy giếng (2009) …
Nhà văn Trần Thùy Mai đã được trao các giải thưởng: Giải A, Văn học nghệ
thuật Cố đô với tập truyện ngắn Thập tự hoa (2005); Giải cống hiến vì cộng đồng
do Ủy ban Kết nghĩa TP.HCM và Thành phố San Francisco trao tặng (2001); Giải
thưởng Sách Hay với tiểu thuyết Từ Dụ thái hậu (2020); Giải nhất tiểu thuyết Hội
Nhà văn Việt Nam với tác phẩm Từ Dụ thái hậu (2020) ... (Phạm Minh Quân)
Thuận Phát: Trần Thùy Mai trở lại cùng Công chúa Đồng Xuân
PNO - Sau bộ tiểu thuyết lịch sử; Từ Dụ Thái hậu; nhận nhiều đánh
giá tích cực, nhà văn Trần Thùy Mai vừa cho ra mắt bộ sách; Công chúa
Đồng Xuân; xoay quanh biến động của Triều Nguyễn từ năm 1859 đến
1900.
Chuyện những người phụ nữ
Công chúa Đồng Xuân tên thật là Nguyễn Phúc Gia Phúc, là con gái út
của Vua Thiệu Trị và là con dâu của danh tướng Nguyễn Tri Phương. 1 tuổi
đã mồ côi, 26 tuổi thành góa phụ khi Phò mã Nguyễn Lâm chết trận ở Hà
Nội. 37 tuổi nàng vướng vào án “loạn luân” với người anh trai là Gia Hưng
Công Nguyễn Phúc Hồng Hưu. Tuy thế, như nhà văn Trần Thùy Mai chia sẻ,
vụ án đó chưa được khẳng định và Đồng Xuân có thể chỉ là nhân vật bị sa
vào âm mưu phân tranh quyền lực thời bấy giờ.
Vào quãng thời gian đó, Gia Hưng Công và 2 cận thần là Nguyễn Văn
Tường, Tôn Thất Thuyết có nhiều tranh đấu trong các phản ứng đối với
quân Pháp. Do đó, tội trạng “loạn luân” còn nhiều ẩn khuất trong các động
cơ có phần cá nhân, không qua xét xử mà chỉ dựa trên chỉ một lời khai.
Qua thể loại hư cấu dựa trên lịch sử, Công chúa Đồng Xuân không chỉ
nói về số phận của một nhân vật riêng lẻ, mà còn là tổng hòa của nhiều yếu
tố: câu chuyện của một thời kỳ lịch sử phức tạp, phản ánh tư tưởng nữ giới
cũng như chứa đựng những nghiên cứu văn hóa - xã hội.
Có thể thấy, từ những truyện ngắn đậm tính đương đại cho đến 2 bộ
tiểu thuyết lịch sử, hình tượng người phụ nữ luôn luôn ẩn hiện trong văn
chương của Trần Thùy Mai. Đó có thể là người mẹ, người vợ mất con trong
cuộc “tắm máu” phi nghĩa; những phụ nữ bị khép tội không qua xét xử mà
chỉ góc nhìn của thời hiện đại mới giúp họ có được tiếng nói công bằng.
Trần Thùy Mai không chọn lối viết an toàn. Bà dấn thân đến tận cùng
để khai thác tâm lý nhân vật. Cuốn tiểu thuyết này cũng chứa đựng không ít
phân cảnh ái ân cùng những khát khao rất riêng của người phụ nữ. Từ trước
đến nay, đây vẫn được cho là cách tiếp cận có phần phạm húy hay làm lệch
đi đặc tính trang nghiêm về mặt lịch sử. Thế nhưng đọc hết bộ tiểu thuyết,
ta có thể hiểu vì sao những yếu tố đó là không thể thiếu.
Trần Thùy Mai nói: “Theo tôi, đã là sáng tạo thì càng ít nói về giới hạn,
càng tốt […] Bản thân câu chuyện của Đồng Xuân là một câu chuyện về tình
dục và chính trị. Một câu chuyện như vậy mà không có những trang đặc tả
chuyện khuê phòng thì thật là rất, rất vô vị”.
Những góc nhìn mới
Bằng một lượng lớn các nhân vật lịch sử, các mối quan hệ phức tạp,
nhà văn Trần Thùy Mai đã dựng nên cốt truyện lớn về 30 năm cuối Triều
Nguyễn, từ đời Tự Đức cho đến Đồng Khánh. Bà tiết lộ đã mất hơn 1 năm
để sắp xếp sử liệu trước khi khai bút. Bằng tài năng nổi trội, qua tác phẩm
của bà, những nhân vật lịch sử hiện ra rõ nét và đầy cá tính. Ở đó có một
Gia Phúc ương bướng, hoang dại; một Hoàng thái hậu Từ Dụ kín kẽ, nhân
hậu; Tôn Thất Thuyết bản năng, độc đoán; Phan Thanh Giản thấu suốt, tận
trung…
Được viết theo cách tôn trọng sử liệu hết mức có thể nên Công chúa
Đồng Xuân cũng có thể đọc như một bức tranh phản ánh tình hình chính trị -
xã hội vào giai đoạn này - khi giặc Tây bám lấy các tỉnh miền Nam, giặc Tàu
luôn chờ thời cơ đánh phá phía Bắc. Từ bối cảnh này mà câu hỏi lớn rằng ta
nên hòa hay là chiến đấu với giặc Tây đã tạo ra những phe phái khác nhau,
từ đó quyền lực sẽ bị thâu tóm và những hàm oan cũng được tạo ra.
Nhờ được đặc tả vô cùng sống động, ta có thể thấy những người theo
phái chủ hòa như Nguyễn Trường Tộ, Phan Thanh Giản… hiểu rõ thế sự,
nhìn trước tương lai là không thể thắng do sự thua sút về mặt nhân lực -
công nghệ, từ đó chủ trương hòa hoãn để canh tân đất nước. Phía còn lại
gồm Tôn Thất Thuyết, Hoàng Tá Viêm… quyết liệt đánh Tây nhưng không
cân nhắc rõ ràng bàn cờ quyền lực, dẫn đến thất bại là không tránh khỏi.
Về tính lịch sử, ngoài phản ánh bối cảnh thời đó một cách trung thực,
Trần Thùy Mai cũng cho thấy được khả năng viết tiểu thuyết sử khi tái hiện
các trận lật đổ, phản kháng và chiến đấu vô cùng chân thật và đầy kích
thích. Đó là các trận ở thành Kỳ Hòa, thất thủ kinh đô cũng như tấn công
vào đồn Mang Cá… Tuy bà chỉ điểm qua các hành động chính, người đọc
vẫn có thể cảm được sự khắc nghiệt và những bi kịch mà nó gây ra.
Với lối viết theo trục thời gian và các không gian liên tục chuyển đổi,
nhà văn Trần Thùy Mai biết cách làm “mềm” thể loại tưởng như khô khan
để câu chuyện sống động, cuốn hút cũng như giữ được kịch tính từ đầu đến
cuối.
Nhà văn Trần Thùy Mai, với Công chúa Đồng Xuân, đã thêm một lần
thành công với tiểu thuyết lịch sử. Đây là thể loại có phần khó viết vì dễ sa
vào việc bị dẫn dắt bởi các sử gia - những người cũng có thiên vị và tư kiến
riêng. Nhờ sự đồng cảm, thấu hiểu cũng như làm việc một cách trung thực
với các tư liệu, Trần Thùy Mai đã khắc họa được những người phụ nữ có số
phận chìm nổi, từ đó hơn 40 năm biến động với “thù trong giặc ngoài”, “4
tháng 3 vua” … đã được dựng nên. Đây là tác phẩm đạt được đến độ đa ảnh,
đa thanh và cũng có thể đọc dưới nhiều góc nhìn. (Thuận Phát)
Văn Chinh: Đọc tiểu thuyết “Công Chúa Đông Xuân” của Trần Thùy Mai
Văn Chinh
Tôi không thể hình dung đồng bằng sông Cửu Long khi chưa được khai phá
là thế nào, khi tôi đến, nó đã hơn 300 tuổi, đã thành vựa lúa với các làng quê trù
mật; dấu vết cuối cùng còn sót lại là người ta gọi “ấp” thay cho “thôn”, “làng”
[bản, phum sóc…] Từ điển Thiều Chửu: Ấp (邑) “Một mình đứng ra chiêu tập
mấy người khác ở chung một chòm để cùng nhau khai khẩn ruộng vườn.” Truyện
ngắn Rừng mắm của Bình Nguyên Lộc, khảo cứu Tứ giác miệt vườn của Sơn Nam
chỉ như một gợi mở để hình dung một cách khó khăn và lại còn thêm hấp dẫn bí ẩn
hơn nữa. Cũng vậy khi đọc xong Công chúa Đồng Xuân của Trần Thùy Mai, tôi
chợt hình dung: Còn một cánh đồng hoang nữa, cánh đồng hoang lịch sử chưa khai
phá về mặt tiểu thuyết. Đó là nhà Nguyễn vào cuối đời vua Thiệu Trị, cả đời vua
Tự Đức, loạn tứ nguyệt tam vương rồi nối vào đời vua Thành Thái. Đây là nửa thế
kỷ dân tộc rơi vào bi kịch - của cả vua quan lẫn dân chúng; khi buộc phải lựa chọn
giữa canh tân [đổi mới] để cường thịnh, văn minh hay đánh Tây để giữ gìn độc lập
cùng mọi hủ tục hay mỹ tục đã trở nên lỗi thời được tích lũy sau nghìn năm độc lập
tự cường?
Thực ra, bối cảnh của Công chúa Đồng Xuân chỉ là đoạn sông Hương từ Huế
đổ ra cửa bể Thuận An, thượng nguồn là tiểu thuyết Từ Dụ Thái hậu của cùng tác
giả với chủ lưu là tranh đoạt ngôi vua, quyền lực trong nội cung câu kết với quan
lại triều chính. Xung đột nội cung chỉ chấm dứt khi bà Thái hoàng Thái hậu Trần
Thị, vợ thứ vua Gia Long mệnh chung. Thay bà, là Từ Dụ Thái hậu họ Phạm đức
độ từ tâm, là thân mẫu vua Tự Đức; là hiện thân tư tưởng nhà Nguyễn hướng tới:
Hòa ái với Hoàng gia [để sám hối vụ án mẹ con Tống thị - Mỹ Đường]; khoan thứ
sức dân để mưu đồ đời đời yên vị ngai vàng; khai mở học vấn ở vùng đất thang
mộc với việc lấy đỗ lần đầu tiên một tiến sĩ quê Nam bộ Phan Thanh Giản rồi dùng
làm Thượng thư cận thần; bắt đầu có giao thương với các nền kinh tế lớn: Hương
Cảng, Pháp, Bồ Đào Nha... Có thể ví tư tưởng nhà Nguyễn đến sau đời Thiệu Trị là
khúc sông Hương chảy ngang qua Huế: Thơ mộng, hiền hòa, trù phú. Các sách du
ký của người Pháp và châu Âu xuất bản vào đầu thế kỷ XIX đều cùng nhận định:
Đại Nam là đế quốc thịnh vượng nhất vùng Đông Nam Á. Vâng, tôi không cho
rằng, trước họa Pháp xâm lăng, Đại Nam ở vào thế nghèo nàn lạc hậu như một số
sử liệu đời sau công bố.
Vậy Đại Nam mất nước/ bị đô hộ vì đâu?
Vì trước hết là tai họa tranh giành quyền lực giữa các phe phái liên miên
không dứt và càng về sau càng trở nên khốc liệt. Vào thời Từ Dụ cai quản, nội
cung tương đối êm đềm; chỉ đến khi Tự Đức và Thái hậu đều buộc phải nhìn thẳng
vào sự thật rằng, vua không thể có con, buộc phải nhận con cháu trong Hoàng tộc
làm con nuôi và giao cho Trung phi Vũ Thị Duyên – chính thất nuôi Ưng Chân,
Lượng tần nuôi Ưng Đăng, Thiện phi nuôi Ưng Thị thì mầm họa mới xuất hiện. Nó
bắt đầu bằng các nhóm toan tính phò tá kẻ nối ngôi vua. Loạn tứ nguyệt tam vương
chi phối gần như toàn bộ tâm trí của triều chính, không còn mấy cho kế sách giữ
vận nước đang như trứng để đầu đẳng cân lại.
Thật xót xa, Tự Đức là ông vua nhân từ, không giết một ai mà chưa qua xét
xử; là người tài trí vào bậc nhất trong các vua nhà Nguyễn nhưng lòng dạ lúc nào
cũng bấn loạn bởi các thế lực tranh quyền; loạn Chầy Vôi nhằm lật đổ ngai vàng
chỉ là một ví dụ còn xa mới thành công nhưng là một ví dụ ám ảnh. Trong triều thì
vậy, ngoài kia Pháp đã chiếm ba tỉnh miền Đông; triều đình buộc phải ký Hiệp ước
Nhâm Tuất (1862) giặc lại đang toan tính lấy nốt ba tỉnh miền Tây, rồi sau đấy là
Bắc kỳ. Hơn ai hết, nhà vua hiểu rằng, ngoài tội bất hiếu không có con nối dõi, ông
còn bị lịch sử trách tội làm mất một phần đất đai do tổ tiên để lại. Trong tiểu
thuyết, những trang viết về tâm trạng lo sợ, hối hận của vua Tự Đức thật và sâu
sắc. Tác giả cũng thật khách quan, biện chứng: Về mặt trách nhiệm chính trị, nhà
vua là tội đồ của lịch sử. Nhưng về mặt con người, ông là kết tinh của nỗi bi thảm
thời thế, là chỗ oằn gẫy của áp lực tranh đoạt ảnh hưởng và thị trường của phương
Tây đè lên phương Đông.
Nguyên nhân mất nước thứ hai: Không có chiến lược phù hợp với lực lượng,
vũ khí thua kém kẻ xâm lược.
Âm mưu tranh đoạt trong Từ Dụ Thái hậu mới chỉ từ nội cung kết nối lợi ích
nhóm với triều chính, còn ở Công chúa Đồng Xuân, nó bắt đầu từ Hoàng tộc vắt
qua triều chính mà nối dài đến vấn nạn sát hại Giáo dân, dùng tư tưởng đánh Tây
làm ngọn cờ [Tờ biểu của Hoàng thân Hồng Tập có câu: “Tiên tận sát Tả dân, hậu
quyết chiến Tây tặc”.] Cái đuôi của vụ Loạn Chầy Vôi là Đoàn Châu và Cúc Tần
đều trở thành các vai nữ chính trong vở kịch “nhân danh”: Họ cầu viện nhà Thanh,
trước đó thì quân Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc – đoàn quân vừa đánh Tây vừa cướp của,
hãm hiếp, giết người [Việt.] Và như một logic tất yếu, khi có quyền hành Cúc Tần
quay trở lại trả thù ân nhân cũ là công chúa Gia Phúc [vì mặc cảm thân phận chủ
tớ], người từng cứu mạng cô trong khi chạy trốn khỏi sự truy bắt của quân triều
đình rồi sau nữa Cúc Tần ra tay giết hại giáo dân ở giáo phận Nước Nhỉ - là một
giáo phận vào hàng đệ nhất nước Nam sống an lành, trù mật trong Phúc Âm.
Đoàn Châu vốn thầm yêu Nguyễn Chí, chàng trai miền Nam giỏi võ, phong
lưu tài tử. Chí là bè bạn với anh em Đoàn Trưng, Nguyễn Lâm…Họ có lòng yêu
nước, đều đồng lòng chống Tây nhưng bằng các cách khác nhau. Chí đến Kinh đô
lần này là để dâng tờ biểu HÒA TỪ và qua Thái hậu Từ Dụ, nó đã đến tay vua
nhưng nó đến sau khi các phái HÒA, CHIẾN đã ngã ngũ, khiến ngài không cả đọc
hết tờ biểu mà cả quyết đọc Chiến dụ cho Trung Lương soạn thảo để ngài phê
duyệt. Vậy là cả tháng giời chờ chực thành công cốc, ngoại trừ chàng gặp được
công chúa Gia Phúc bằng cái cơ duyên kịp đỡ nàng khỏi ngã trên cây gãy cành
xuống đất, lại nhặt được mảnh khăn thơm mà chàng gọi là khăn của tiên sa. Còn
một mối duyên nữa, duyên thầm là Đoàn Châu, em gái Đoàn Trưng thầm yêu mến
chàng. Hai cái cơ duyên rồi ra sẽ thành phúc họa đời Chí.
Thực ra, HÒA TỪ là kết tinh của giới tinh hoa ngoài hệ thống quyền lực, các
linh mục, các trí thức miền Nam – nơi sớm có ảnh hưởng tân học do sở học và môi
trường tư tưởng Tây phương. Họ nhìn ra ý đồ của Pháp, muốn mượn đất Sài Gòn
làm bàn đạp, là cảng trung chuyển để tiếp cận với thị trường Trung Quốc bao la
[như Vương quốc Anh mượn Hương Cảng hay như chính Pháp mượn sông Hồng
về sau] ba tỉnh miền Đông chỉ là vùng đệm giữ cho vững Sài Gòn. Cũng qua thực
tiễn, họ nhận thấy dân chúng ba tỉnh này dưới cai trị của Pháp được sống và buôn
bán thịnh vượng hơn phần còn lại của đất nước. Và họ xác quyết rằng, nhà vua cần
HÒA, “nhường cái phần đã mất trên thực tế” cho Pháp, tránh chiến tranh, tranh thủ
hòa bình để buôn bán với chính nước Pháp làm cho đất nước cường thịnh hơn để
chờ cơ hội đánh đuổi được Tây, thu hồi lại phần đất đã mất. Chưa biết rằng nếu để
Pháp “nuốt ngon” ba tỉnh miền Đông rồi thì, với lòng tham vô tận của bọn thực
dân – bọn “tiền tích lũy tư bản” liệu chúng có tiếp tục tìm cớ cướp cho gọn Đại
Nam hay không. Nhưng biết chắc, nếu tranh thủ hòa hiếu, canh tân đất nước để trở
nên cường tịnh hơn thì cái âm mưu cướp nước của giặc cũng không thể dễ dàng
thực hiện, thực hiện vị tất đã thành công. Vua Tự Đức từng mua tàu bọc đồng
[dạng second hand và lại là một vấn nạn khác, thuộc dân trí và tham nhũng] và như
vậy, nếu canh tân đất nước để trở nên giàu mạnh, đổi mới sở học để gấp rút nâng
dân trí; thì cái việc mua đại bác của Anh, Tây Ban Nha qua ngả Hương Cảng hay
Bangkok là hoàn toàn trong tầm tay.
Vả lại, chính vua Tự Đức từng tự hỏi, đánh Tây ngay thì ai đánh, đánh bằng
vũ khí nào? Đại đồn Kỳ Hòa tốn hầu như toàn bộ ngân khố, với viên đại tướng
lừng danh Nguyễn Tri Phương chỉ huy, cũng chỉ cầm cự được hai ngày thì đồn lũy
tan tành, quân tướng tan tác; chính Nguyễn Tri Phương bị khép tội trảm giam hậu.
Cũng chính danh tướng Nguyễn Tri Phương với thành Hà Nội xây từ thời Đại Việt
có thành Sơn Tây, Bắc Giang, Lạng Sơn làm thế ỷ giốc và với một thế trận lòng
dân sôi sục lòng yêu nước căm thù giặc mà cũng chỉ giữ được ba ngày thì thất thủ,
chính ngài phải tuyệt thực mà tự vận với thành. Trận thua còn khiến con trai ngài,
phò mã Nguyễn Lâm bị chết trận, con dâu ngài, công chúa Đồng Xuân lâm vào
một số phận bi đát, nàng bị sa vào vụ án oan loạn luân - vết nhơ thứ hai của lịch sử
triều Nguyễn. Mà thành Hà Nội với danh tướng Nguyễn Tri Phương chỉ huy đã
thất thủ không hoàn toàn bởi quân đội Pháp. Trên danh nghĩa, ông thua viên toàn
quyền Bắc kỳ là đại úy F. Garnier, nhưng thực tế là thua tên bảo kê thuyền buôn
kiêm tướng cướp người Pháp là Jean Dupuis. Trước khi đại úy Garnier đến Hà
Nội, J. Dupuis đã nhiều lần neo thuyền trên sông Hồng cạnh thành Hà Nội, hách
dịch đòi nhà đương cục mở sông Hồng cho thuyền buôn của chúng lên Vân Nam.
Cũng chính y dùng thuyền đi đón F. Garnier; 150 tên lính của y là lực lượng nòng
cốt tấn công thành Hà Nội; các pháo thuyền Scorpion và Espignole dưới sự chỉ
huy của thuyền trưởng Balny d' Avricourt chỉ có 60 tay súng. Vâng, không phải
danh tướng Đại Nam cùng lòng yêu nước của sĩ dân thua trận, ở đây là vũ khí thua
vũ khí, phương Đông thua phương Tây.
Lịch sử cũng ghi nhận, Lưu Vĩnh Phúc chém được F. Garnier ở Cầu Giấy.
Nhưng tiểu thuyết kể, Nguyễn Chí [hiện phò tá Đồng Xuân công chúa ra Bắc thăm
chồng] trong loạn quân gặp lại Đoàn Châu đang vào vai một sư ông ở chùa Thanh
Đình để làm điệp vụ, chàng đã vào vai đầu bếp của giặc, nghe F. Garnier trao đổi
với tùy tùng, sáng sớm mai sẽ tấn công lên thành Sơn Tây; nghe bằng tiếng Pháp,
cố nhiên; trong khi bọn giặc kiêu ngạo đinh ninh mọi dân Nam đều bị “điếc.” Chí
đã kịp báo với Đoàn Châu tin mật này, Hoàng Tá Viêm đã sai Lưu Vĩnh Phúc thi
hành kế phục binh và đã chém đầu giặc. Đây là minh chứng thêm vào, của luận
điểm muốn đánh thắng giặc, phải hiểu được giặc, phải ngang cơ!
Nguyên nhân mất nước thứ ba: Mượn sức cáo cùng mình xua mãnh hổ.
Sau khi Hà Nội thất thủ lần thứ hai, đại thần Hoàng Diệu thủ tiết, Hoàng Tá
Viêm còn mượn sức nhà Thanh cùng quan quân triều đình đánh Pháp nhiều trận
trong thế dằng co. Bấy giờ Tôn Thất Thuyết đã nắm Bộ Binh, Cơ mật viện, quyền
thế áp đảo, thi hành nhiều chính sách tàn độc, thậm chí là giết vua lập vua theo phe
cánh của mình. Tôn ra mặt mượn binh nhà Thanh kịch liệt chống Pháp. Tôn lạm
giữ quyền Binh Bộ, ở Kinh đô mà đánh giặc ngoài Bắc; còn Hoàng Tá Viêm là
tướng chiến trường; ông dần dà nhận ra, chứng cứ ngày càng rõ rệt, rằng nhà
Thanh đang mượn cớ đánh Pháp mà xâm lược nước nhà; ông đã cùng tàn binh về
triều chịu tội để tìm kế khác.
Viên tùy tướng trung thành của Hoàng Tá Viêm là Hữu Ngạo, từng có tên
Hãn Mã trong một gánh xiếc. Chàng con Đoàn Hữu Trưng, từng bị tội tru di bởi vụ
án Loạn Chày Vôi, được Đoàn Khánh nuôi chờ đủ tuổi 15 mới thi hành án. Hãn
Mã theo học võ thày Nguyễn Chí cùng Tri Kiểm, cháu đích tôn danh tướng
Nguyễn Tri Phương, ở trong phủ Đồng Xuân. Hoàng đã sai tùy tướng Hữu Ngạo
tập bắn súng như một ẩn dụ về việc thay đổi tư duy của ông, phải học cách đánh
khác, cách của chính kẻ xâm lược. Nhưng lần bắn đạn thật thứ nhất, Hữu Ngạo bắn
vào chiếc khóa đồng cột các Tả dân vào chuỗi dây xích sắt, trả tự do cho họ lại là
một ẩn dụ khác: Cách khác ấy chính là bỏ sát hại Giáo dân, do Tôn Thất Thuyết sai
khiến các nhóm Văn thân; họ “Tiên tận sát Tả dân, hậu quyết chiến Tây tặc.” Cử
chỉ của Hữu Ngạo, nhưng mà đánh dấu bước chuyển quan trọng của viên tướng
công huân Hoàng Tá Viêm, ông nhận ra, Văn thân chưa đánh Tây được mấy nhưng
đánh dân [theo Đạo Gia to] thì thây phơi đầy đồng, suốt từ Bắc vào Trung phần
Đại Nam. Còn lần bắn đạn thật thứ hai, Hữu Ngạo bắn vào thái dương mình.
Chàng hiểu mình mãi mãi không sao trở lại là chính mình sau mấy mươi năm mai
danh ẩn tích, một kết thúc không thể khác, chàng không được gánh sứ mệnh báo
quốc, cũng chưa biết làm cách nào để gánh, trước mắt là loạn lạc, không có cõi
bình yên cho cuộc sống để chàng làm người đàng hoàng.
Chiến cuộc xô đẩy Tri Kiểm vào một nhóm Văn thân sát Đạo, để chàng gặp
lại gia tướng kiêm thày dạy võ của mình là Nguyễn Chí trong cuộc tàn sát giáo dân
xứ Nước Nhỉ. Chàng trở thành ẩn dụ về ngu trung, lại là ẩn dụ về giới tinh hoa
triều đình bị cái ác của phái chủ chiến Tôn Thất Thuyết sai khiến; cái tinh thần tôn
sư với nền tảng đạo Nho còn sót lại ở Tri Kiểm, vừa đủ để chàng tha thày Nguyễn
Chí, tạm dừng vụ sát Đạo do thày dẫn đầu tranh đấu trong hòa bình; còn chính sứ
mệnh mình thì vẫn mờ mịt tối tăm.
Vì đâu mà một danh gia vọng tộc như Nguyễn Tri Phương rơi vào cảnh nước
mất nhà tan; cháu đích tôn Tri Kiểm lâm cảnh tối tăm mù mịt mà xét về đạo làm
con, chàng còn mang tội bất hiếu?
Ở trên, chúng ta nhận ra nguyên nhân từ cái sai lầm chiến lược của triều đình
Tự Đức. Đến đây, câu trả lời còn nằm ở chỗ cuộc tranh đoạt quyền lực đã đến lúc
hung hiểm một mất một còn. Với tất cả mẫn tiệp của mình, vua Tự Đức luôn luôn
không muốn trọng dụng Tôn Thất Thuyết. Nguyễn Văn Tường cũng biết thế,
nhưng ông ta lại biết thêm rằng, trên bàn cờ thế lực, ông không thể bằng đại thần
kỳ cựu Trần Tiễn Thành. Ông ta bền bỉ bảo cử, lôi bằng được Tôn Thất Thuyết vào
triều để từng bước cả hai dồn Trần vào thế ngồi chơi xơi nước. Ông ta chỉ không
biết trước cái tai họa rước hổ vào triều, cũng như Tôn Thất Thuyết không biết
mượn sức nhà Thanh là rước sói vào nhà. Nhà văn với sự chừng mực cần thiết, đã
không xoáy sâu, không nói rõ rằng Thuyết không biết thật hay giả vờ không biết;
nhưng cái loạn tam vương sau khi Tự Đức băng hà, cái kết cục xử tội Trần Tiễn
Thành, vụ vu oan giá họa Hoàng thân Hồng Hưu loạn luân với công chúa Gia Phúc
để bị xử tội chết, chính Tường bị đày còn chủ soái của phe chủ CHIẾN là Thuyết
thì cha con cùng chết, vua Hàm Nghi bị Pháp đày sang Angeri còn tàn dư của nó là
các nhóm Văn thân tiếp tục giương cờ chống Tây để đi tàn sát người Việt theo
Đạo. Những kết cục ấy chứa đựng tư tưởng nghệ thuật của tác giả, với hai viên
tướng trẻ của Đại Nam Hữu Ngạo và Tri Kiểm như các ẩn dụ chói lóa.
Đồng Xuân công chúa có nhiều mối tình, chúng giăng mắc nhau như mạng
nhện. Đúng ra là những mối nhân duyên: Nguyễn Chí thầm yêu công chúa Gia
Phúc, Đoàn Châu thầm yêu chàng, chồng Gia Phúc là Nguyễn Lâm, bạn Chí. Tình
yêu của Chí thật đẹp và lạ: Lần gặp đầu tiên là chàng kịp ôm đỡ công chúa ngã từ
trên cây, mùi hoắc hương rồi ra ám ảnh chàng suốt đời. Lần gặp thứ hai, chàng truy
đuổi Cúc Tần trốn trong phòng vợ chồng nàng, nhìn thấy nàng nằm hớ hênh sau ân
ái với chồng – vụ ân ái cố tình nhằm che đậy Cúc Tần trốn dưới gậm giường; cuộc
gặp thật éo le. Những ngày gần nhau gang tấc mà lại trong thân phận chủ tớ, gia
tướng của vụ nàng ra Bắc thăm chồng rồi đưa nàng hồi gia với những hồi hộp, lo
lắng khi cái chết cận kề, chàng giải cứu nàng dưới mật đạo cạnh sông Lam – nơi
chàng và nàng bị quân Văn Thân Nghệ An bắt giam cùng các Giáo dân. Hẳn là qua
hàng chục năm giời bên nhau như thế, Gia Phúc cũng lờ mờ nhận ra tình yêu câm
nín của chàng và nàng, sau mấy năm góa bụa thờ chồng, sức sống nàng bật dậy,
hồi xuân thì hẳn nàng cũng âm thầm yêu thương chàng. Những trang viết về hai
lần họ giao ái thật lãng mạn và cũng thật độc lạ, cả hai đều trong đêm, dưới “ánh
đuốc” đưa dẫn của hương hoa thanh trà. Tưởng như tình dục không khởi từ trái tim
yêu mà từ hương hoa thanh trà cùng nỗi cô đơn của góa phụ đã cộng lực bật thức,
khởi động.
Kết quả cuộc ân ái sau là con gái, do mẹ thất tiết mà bị giáng từ công chúa
xuống nô tỳ. Đây là ẩn dụ nghệ thuật tinh tế. Nguyễn Chí hiện thân của tinh hoa trí
thức thời đại, chàng tự do, chỉ bị câu thúc bởi tình yêu thương, hòa ái, yêu nước –
chàng gần Thiên Chúa hơn là đạo Nho, đạo Phật. Gia Phúc lại là hiện thân khác
của khát vọng tự do, là con vua, được mẹ đích là Thái hậu Từ Dụ nuôi từ bé trong
cung Gia Thọ nhưng thường trốn cung ra ngoài đi chơi cùng anh em họ bên phủ
Gia Hưng, đặc biệt quý trọng Hoàng thân Hồng Hưu là trí thức kết tinh giữa nền
tảng Hán học với tân học phương Tây, hiểu chuyện và hiểu thời thế. Có lẽ cái hồn
nhiên ngây thơ của khát vọng tự do ở cô em họ đánh thức và nuôi dưỡng cái mới
trong ông, để ông khả dĩ tiếp cận nổi với nền chính trị quân chủ lập hiến từ phương
Tây đến. Oái oăm thay là sự hoa của khát vọng tự do lại nở ra quả nô tỳ sau khi
cuộc kết đôi ấy bị thời thế, bị cuộc tranh bá đồ vương và bị cuộc chiến không cân
sức xô đẩy, quăng quật, dập vùi. Cái chết của nàng lại là một ẩn dụ khác, tự do
không gặp thời, tự do không thể tự vận phép khinh công mà bay qua bức tường của
danh phận, của phép tắc thủ cựu và các định kiến nghiệt ngã của nghìn xưa.
Nguyễn Chí là nhân vật thành công nhất của tiểu thuyết Công chúa Đồng
Xuân. Sau mỗi trải nghiệm, mỗi sự kiện dù cam go ác liệt hay âm thầm lãng mạn;
chàng đều có chiêm nghiệm để dần trở nên thấu hiểu con người và thời cuộc. Và
như thế, tâm lý tính cách Chí luôn chuyển động, luôn hòa ái; nhưng khi cần thì
cũng bùng nổ một chân lý trái ngược với thường hằng: Ngay sau khi Cúc Tần
chém cụt chân chàng với vẻ mặt kiêu ngạo của kẻ coi sát Đạo là nghề, chàng đã
nén đau mà chồm lên, chém bay đầu Cúc Tần như một triết lý thêm vào của nhận
thức chàng: Không thể hòa ái với cái ác đã thành “sự nghiệp” của con người, cái ác
được nhân danh ngọn cờ yêu nước.
Đoàn Châu từ nhóm Văn thân sát Đạo trở về sống bên Nguyễn Chí lại mang
một triết lý khác. Là người của Hoàng Tá Viêm, bên cạnh biến chuyển nhận thức
ra cái sai lầm mượn cáo về nhà trừ hổ, cái thực tế chiến trường đánh Tây toàn thua
chỉ đánh dân Đạo là toàn thắng của chủ tướng Hoàng và cậu em con cậu Hữu
Ngạo, nàng đã buông gươm mà về bản quán, cùng Chí nuôi đứa con gái mồ côi của
Anna Thắm, đứa con của tự do mang thân phận nô tì của Chí và Gia Phúc. Họ mở
“quán bên đường” để phụng sự một tương lai đất nước: Những Ngô Đức Kế, Phan
Châu Trinh, Nguyễn Sinh Sắc khi vào kinh thi Hội, đã lưu trọ tại đây.
Vâng, vận thế vần xoay, ngay cả khi bí cực nhất, thái lai của đất nước bao giờ
cũng xuất hiện. Cổ đại đã vậy. Cận đại cũng vậy. Nhưng vì vậy mà những cuốn
sách viết chân thực về thời bĩ cực bao giờ cũng hàm chứa những bài học cho hôm
nay và mai sau. Công chúa Đồng Xuân là cuốn sách như thế. (Văn Chinh)