Tania Libertad performing Jamás Impedirás

02 Tháng Tám 20208:58 SA(Xem: 4802)

VĂN HÓA ONLINE - YOUTUBE - THỨ HAI 03 AUG 2020

Ý kiến-Bài vở vui lòng gởi về:  lykientrucvh@gmail.com (VănHóa Online-California)


Tania Libertad performing Jamás Impedirás


Music video by Tania Libertad performing Jamás Impedirás. (C) 2015 Sony Music Entertainment México, S.A. de C.V. http://www.vevo.com/watch/MXV011500240


image018


https://www.youtube.com/watch?v=S_3Oz6tiAX0


Jamás impedirás (Lyrics)


Tu me podrás negar la luz
de tu mirada
también podrás negarme
ese calor
que ayer me diste
Pero jamás impedirás
que aun te ame como ayer
y que al oir tu nombre
sin querer
me duela el corazón

Pero jamás impedirás
que aun te ame como ayer
y que al oir tu nombre
sin querer
me duela el corazón.


Y aquí en este rincón
yo miraré,
atardecer mi vida
sin tu amor,
sin la fuerza que a diario
me impulsó
a luchar y a soñar.
Si me fallaste tu
en quien creer,
para qué comenzar
de nuevo a amar
si siempre tendré miedo
a tropezar
con otra como tú (bis)


Report lyrics

Tania Libertad de Souza Zúñiga (sinh ngày 24 tháng 10 năm 1952) được biết đến với tên gọi chuyên nghiệp là Tania Libertad, là một ca sĩ người Peru - México trong thể loại Âm nhạc Thế giới.[1]


Libertad được bổ nhiệm làm Đại sứ Hòa bình của UNESCO, Comendadora bởi chính phủ Peru, một thành viên của Order of Rio Branco bởi chính phủ của Brazil, trong số những danh hiệu khác.[2][3] Năm 2009, cô nhận được giải thưởng Thành tựu trọn đời Latin Grammy vì sự xuất sắc trong âm nhạc.[4] Với hơn 44 album và doanh số hơn 12 triệu bản, tác phẩm của cô được biết đến rộng rãi trên khắp Châu Mỹ, Châu Âu và Châu Phi.[5][6] Cô đã thực hiện các buổi hòa nhạc tại Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bỉ, Đức, Thụy Sĩ, Hà Lan, Anh, Morocco, Angola, Senegal, Hoa Kỳ, Peru, Ecuador, Puerto Rico, Venezuela, Dominican Cộng hòa, Honduras, Uruguay, Colombia, Costa Rica, Guatemala, Panama, El Salvador, Argentina, Brazil và Mexico.[7] Năm 2012 đánh dấu 50 năm là một nghệ sĩ biểu diễn với hai buổi biểu diễn được bán hết tại Palacio de Bellas Artes ở Mexico City, khởi động một tour diễn khắp châu Mỹ Latinh.[8]


image019


Tania Libertad trong buổi hòa nhạc tại Feria Internacional de Libro ở Guadalajara vào tháng 11 năm 2005


Libertad sinh ra ở Zaña, một thị trấn nhỏ thuộc Vùng Lambayeque trên bờ biển phía bắc Peru và được nuôi dưỡng tại thủ phủ Chiclayo của khu vực.[9] Mẹ cô là một y tá có nguồn gốc bản địa, và cha cô là một cảnh sát gốc Bồ Đào Nha với quan điểm rất truyền thống về vai trò giới. Cô lớn lên với tám anh trai.[10] Cô thấy lớn lên trong một môi trường do nam giới thống trị khó khăn như vậy.[11]


Cô lần đầu tiên hát trên sân khấu năm tuổi ở Chiclayo. Bởi vì bố mẹ cô làm việc nhiều giờ, gia đình cô không biết cô hát. Trong những buổi biểu diễn đầu tiên, cô đã hát những bài hát truyền thống của Peru và Mexico, bao gồm cả những bài hát ví von và boleros.[12] Khi cha cô phát hiện ra tài năng âm nhạc của cô, ông đã hát những bài hát mà cô đã viết cho tình nhân của mình; cô thấy những bài hát này có chất lượng kém và giúp cô phân biệt giữa nhạc hay và dở.[11] Cô tiếp tục phát triển tiết mục của mình với nhạc rocknhạc truyền thống trên đài phát thanh, và nhớ lại việc hát trong các cuộc thi ở tuổi bảy, biết 300 boleros bằng tám, và thu âm chín.[12]


Sự nghiệp


Khi còn là thiếu niên, Libertad chuyển đến thủ đô Lima của Peru. Cô hát trong các hộp đêm ở đó, và cha cô làm quản lý. Cô sớm được đề nghị hợp đồng với RCA Victor và có bản hit quốc gia đầu tiên ở Peru, "La Contamanina".[9] Trong khi Libertad theo đuổi sự nghiệp âm nhạc của mình, cô đã thuyết phục cha mình cho phép cô học ngành kỹ thuật tại trường đại học. Bởi vì cha cô muốn nghiên cứu những gì một trong những anh em của cô đã làm, cô học ngành khoa học và kỹ thuật trong nghề cá. Cô không bao giờ sử dụng giáo dục này sau này trong cuộc sống, nhưng cô tin rằng kinh nghiệm ở trường đại học của cô là tiếp xúc với những người khác quan tâm đến nghệ thuật và chính trị cánh tả, đặc biệt là các phong trào phản chiến.[12]


Trong thời gian này, mối quan tâm của Libertad đối với âm nhạc Afro-Peru, phát triển mạnh ở miền bắc quê hương của cô, đã tăng lên. Chính phủ Peru theo chủ nghĩa dân tộc muốn khuyến khích các biểu hiện của văn hóa Peru, đi xa tới mức thành lập một công ty múa ba-lê Afro-Peru. Cô cũng trở nên khó chịu khi hát trong các hộp đêm do chủ nghĩa phân biệt giới tínhphân biệt chủng tộc ở đó, điều này thúc đẩy cô bắt đầu hát nhạc có ý thức xã hội trong các trường đại học và hội trường.[9] Nhưng khi cha cô trở thành bảo vệ nhiều hơn về cô như một thiếu niên, anh muốn cô từ bỏ sự nghiệp âm nhạc của cô,[10] nên ở tuổi 20, cô đã bỏ trốn khỏi nhà và sống với bạn bè trong hai tuần cho đến khi cô cha chấp nhận mong muốn được hát toàn thời gian.[12]


image020


Tania Libertad với Los Tigres del Norte vào ngày 17 tháng 5 năm 2007


Năm 1976, Libertad bắt đầu đi ra nước ngoài, và được truyền cảm hứng từ các truyền thống âm nhạc và ý thức chính trị mà cô gặp ở những nơi cô đến thăm, chẳng hạn như Cuba.[12] Không thành công ở Peru với thương hiệu âm nhạc mới của mình, cô quyết định di cư sang Mexico. Cô đến đó không một xu dính túi và gắn bó với các nghệ sĩ Mỹ Latinh trốn khỏi đất nước của họ vì lý do chính trị.


Ngay sau đó, cô đã tìm được công việc đầu tiên của mình tại Nhà hát Blanquita ở Mexico City.[11] Ở đó, Libertad đã được PolyGram hát hợp đồng hát nhạc trova, nhạc Afro-Peru, salsa và bolero.[9] Năm 1985, cô phát hành album boleros đầu tiên. Cô đã sống ở Mexico kể từ đó, và đã hát ở hơn 20 quốc gia trên mọi lục địa có người ở.


image021


Tania Libertad hát tại Lễ hội văn hóa ở Zacatecas vào ngày 13 tháng 4 năm 2006


Trong suốt sự nghiệp của mình, Libertad từng đứng chung sân khấu với các nghệ sĩ quốc tế khác như Mercedes Sosa, Joan Manuel Serrat, Silvio Rodríguez, Pablo Milanes, Alberto Cortez, León Gieco, Juan Carlos Baglietto, Guadalupe Pineda, Chico Buarque, Gal Costa, Alfredo Zitarrosa, Cesária Évora, Vicente Fernández, Eugenia León, Juan Gabriel, Miguel Bose, Plácido Domingo, Armando Manzanero, Simón Díaz, Willie Colón, Tito Puente, Oscar Chávez, Iván Lins, Ricardo Cocciante, Soledad Pastorutti, Marco Antonio Muñiz, Soledad Bravo, Amalia Rodrigues, Susana Rinaldi, Phil Manzanera, Lucha Villa và nhóm Inti Illimani, cùng với những người khác.[13]


Tác giả người Bồ Đào Nha đoạt giải Nobel Jose Saramago viết về tác phẩm của mình:


"Lần đầu tiên tôi nghe Tania Libertad hát, đó là một tiết lộ từ trên cao - từ một nơi chỉ có giọng nói trần trụi, một mình trên thế giới, không có nhạc cụ nào kèm theo. Tania đang hát bài hát" La Paloma "của Rafael Alberti. một capella, và mỗi nốt nhạc chạm vào một chuỗi trong tâm hồn tôi cho đến khi tôi hoàn toàn bị lóa mắt. " - Jose Saramago [7]


(Italian = Cappella, Spanish = Capilla) - (nhà nguyện - English Chapel)


https://www.youtube.com/watch?v=NfPxBAYgpio


Ảnh hưởng


Mặc dù không phải là người gốc Phi, Libertad được truyền cảm hứng từ âm nhạc Afro-Peru bản địa ở khu vực Peru nơi cô sinh ra, một khu vực chủ yếu là con cháu của nô lệ châu Phi.[9][12] Album của cô Costa NegraColor Negro, từ năm 2003 và 2004, là bản thu âm của các bài hát Afro-Peru.[9]


Sự đánh giá cao của cô về âm nhạc Afro-Antillan đã được phản ánh trên các tác phẩm tham khảo TrovaNueva canción, và đã bao gồm các buổi biểu diễn được sắp xếp cho các tác phẩm của Silvio Rodriguez.


Ngoài ra, cô đã hợp tác với Armando Manzanero.


Cuộc sống cá nhân


Libertad đã kết hôn với một doanh nhân và có một con trai; họ sống ở Mexico City.[11]


Cô tự coi mình là một công dân của thế giới, và đưa ra những ý tưởng của Simón Bolívar, đặc biệt là Mỹ Latinh phải là một thể thống nhất không biên giới.[14] Cô xác định là phản chiến, nhưng không thích bị coi là ca sĩ phản kháng.[15]


Danh sách đĩa hát

Tania Libertad đã thu âm 44 album với hơn 12 triệu bản được bán ra.[16]


  • Tania Libertad
  • Soy Peruana
  • La Contamanina
  • Mejor que nunca
  • La dulce voz de Tania Libertad
  • El mismo Puerto
  • Concierto en la voz de Tania Libertad
  • Hits
  • Hits Vol. II
  • Alfonsina y el mar
  • Lo inolvidable de Chabuca Granda
  • Como una campana de cristal
  • Boleros
  • Nuevamente Boleros
  • Me voy pa'la pachanga
  • Trovadicción
  • Mucho corazón
  • Razón de Vivir (duet with Djavan)
  • Tania canta a José Alfredo Jiménez (duet with Vicente Fernandez)
  • Boleros hoy (duet Armando Manzanero, Miguel Bose, Ivan Lins and Azucar Moreno)
  • México Lindo y Querido
  • África en América
  • La Libertad de Manzanero
  • Amar Amando
  • Tania y su sabrosa Libertad
  • Himno al amor
  • Mujeres apasionadas
  • Tomate esta botella conmigo
  • Armando la Libertad
  • Blue Note, Live in New York
  • La vida, ese paréntesis (duet with Joan Manuel Serrat and Willie Colon)
  • Arias de Ópera, ¿Y... por que no?
  • Alfonsina Y El Mar XX Años
  • Costa Negra
  • 20 De Colección
  • Negro Color
  • Tania 50 años de Libertad
  • Manzanero a Tres Pistas
  • Desarmando a Tania
  • Por Ti y Por Mi
  • Las Tres Grandes: Primera Fila with Guadalupe PinedaEugenia León
  • Jose Alfredo y Yo

Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 9 tháng 4 năm 2020 lúc 06:23.


Rafael Alberti tác giả ca khúc La Paloma

image022


Rafael Alberti


Rafael Alberti Merello (16 tháng 12 năm 190227 tháng 10 năm 1999) – nhà thơ, nhà soạn kịch Tây Ban Nha.


Tiểu sử


Rafael Alberti sinh ở El Puerto de Santa María, tỉnh Cádiz. Năm 1917 gia đình chuyển về Madrid, Rafael học vẽ. Từ năm 1920 bắt đầu làm thơ. Tập thơ đầu tay Marinero en tierra (Thủy thủ trên bờ) in năm 1925 được trao giải Văn học Quốc gia. Tiếp đó là các tập thơ El alba de alhelí (Hoa của bình minh, 1927), Sobre los ángeles (Về những Thiên thần, 1929)… lần lượt được xuất bản. Năm 1927 Rafael Alberti trở thành một trong những người sáng lập phong trào văn học Thế hệ năm 27.


Năm 1930 Rafael Alberti cưới nữ nhà văn María Teresa León. Năm 1931 ông gia nhập Đảng cộng sản Tây Ban Nha. Năm 1932 sang thăm Liên Xô. Năm 1933 thành lập tạp chí Octubre tập hợp những trí thức cách mạng của Tây Ban Nha. Năm 1934 ông cùng vợ sang Liên Xô dự Đại hội Nhà văn Liên Xô lần thứ nhất.


Những năm nội chiến ở Tây Ban Nha (1936 – 1939) ông đứng về phía những người cộng hòa. Sau khi phe cộng hòa thất bại ông rời Tổ Quốc sang sống ở Pháp (1939 – 1940) sau đó sang Argentina. Từ năm 1964 đến năm 1977 ông sống ở Ý. Tháng 5 năm 1977, sau khi Franco chết, ông trở về Tây Ban Nha. Năm 1981 ông được trao Giải thưởng kịch Quốc gia (Nacional de Teatro), năm 1983 – giải Cervantes. Ngoài ra, ông còn được nhận giải Lenin de la Paz của Liên Xô (1964), giải Roma de Literatura của Ý (1991). Năm 1985 ông được trao bằng Tiến sĩ danh dự của Đại học Cádiz. Năm 1995 ông được trao bằng Tiến sĩ danh dự của Đại học Valencia.


Rafael Alberti mất ngày 27 tháng 10 năm 1999.

Tác phẩm

image023


Tượng Rafael Alberti


  • Marinero en tierra, M., Biblioteca Nueva, 1925 (Premio Nacional de Literatura).
  • La amante, Málaga, Litoral, 1926.
  • El alba de alhelí, Santander, 1927 (Edición privada de José María de Cossío).
  • Domecq (1730-1928). Poema del Ilmo. Sr. Vizconde de Almocadén, Jerez de la Frontera, Jerez ndustrial, 1928.
  • Cal y canto, M., Revista de Occidente, 1929.
  • Yo era un tonto y lo que he visto me ha hecho dos tontos, publicado por primera vez en distintos números de La Gaceta Literaria, 1929.
  • Sobre los ángeles, M., CIAP, 1929.
  • El poeta en la calle (1931-1935), Aguilar, Madrid, 1978. Publicado por primera vez en Poesía (1924-1937).
  • Consignas, M., octubre de 1933.
  • Un fantasma recorre Europa, M., La tentativa poética, 1933.
  • Poesía (1924-1930), M., Ediciones del Árbol(Cruz y Raya), 1935.
  • Versos de agitación, México, Edit. Defensa Roja, 1935.
  • Verte y no verte. A Ignacio Sánchez Mejías, México, N. Lira, 1935.
  • 13 bandas y 48 estrellas. Poemas del mar Caribe, M., Manuel Altolaguirre, 1936.
  • Nuestra diaria palabra, M., Héroe, 1936.
  • De un momento a otro (Poesía e historia), M., Europa-América, 1937.
  • El burro explosivo, M., Edic. 5º Regimiento, 1938.
  • Poesías (1924-1937), M., Signo, 1938.
  • Poesías (1924-1938), Bs. As., Losada, 1940.
  • Entre el clavel y la espada (1939-1940), Bs. As., Losada, 1941. Dibujos de Rafael Alberti.
  • Pleamar (1942-1944), Bs. As., Losada, 1944.
  • Poesía (1924-1944), Bs. As., Losada, 1946.
  • A la pintura, Bs. As., Imprenta López (Edición privada).
  • A la pintura. Poema del color y la línea (1945-1948), Bs. As., Losada, 1948.
  • Coplas de Juan Panadero. (Libro I), Montevideo, Pueblos Unidos, 1949 (2ª edición ampliada). Dibujos de Toño Salazar.
  • Buenos Aires en tinta china, Bs. As., Losada, 1952. Dibujos de Attilio Rossi.
  • Retornos de lo vivo lejano, Bs. As., 1952.
  • A la pintura (1945-1952) 2ª edic. aumentada, Bs. As., Losada, 1953.
  • Oda marítima seguido de Baladas y canciones del Paraná (1953), Bs. As., Losada, 1953.
  • Balada y canciones del Paraná, Bs. As., Losada, 1954.

Một số bài thơ

Federico


Federico.


Tôi đi trên phố Pinar


Tìm ngôi nhà anh ở.


Đến nơi tôi gõ cửa.


Nhưng anh chẳng có nhà.


Federico.


Anh cười như mọi người.


Anh tìm ra những lời


Không ai tìm thấy cả.


Tôi đến nơi anh ở.


Mà anh chẳng có nhà.


Federico.


Giờ bên sông Aniene


Cây của anh tươi tốt.


Tôi và ngọn gió hát


Về anh, anh có nghe.


Roma, nguy hiểm cho người đi bộ


Đừng ngắm nhìn di tích ở Roma


Khi bạn đến Roma mà đi bộ


Cần cả trăm đôi mắt mở thật to


Bạn là nô lệ ở trên đường phố.


Đừng ngắm nhìn vẻ đẹp bao kỳ quan


Bao cung điện, mái vòm, đài phun nước


Đang chờ bạn cả hàng ngàn cái chết


Nếu bạn thờ ơ, cái chết rất gần.


Nhìn phải trái nếu bạn muốn qua đường


Đèn xanh đỏ để dừng hay đi tiếp


Dù muốn dù không vẫn phải quan tâm.


Nếu muốn sống – hãy làm chim bồ câu


Nếu muốn chết – đến Roma đi bộ


Hồn bơ vơ trong phố nhỏ u sầu.


Người bị thương


– Hãy tặng anh chiếc khăn nào, em gái


Để anh đem buộc vết thương…


– Em biết chọn cho anh khăn nào vậy


Màu nghệ tây hay màu hồng?


– Màu nào cũng được. Ngực anh máu đỏ.


Máu thành tia đang chảy xuống tay anh.


Nhưng con tim của mình, em hãy nhớ


Đem thêu vào từng góc của trái tim.

Federico


Federico.


Voy por la calle del Pinar


para verte en la Residencia.


Llamo a la puerta de tu cuarto.


Tú no estás.


Federico.


Tú te reías como nadie.


Decías tú todas tus cosas


como ya nadie las dirá.


Voy a verte a la Residencia.


Tú no estás.


Federico.


Por estos montes del Aniene,


tus olivos trepando van.


Llamo a sus ramas con el aire.


Tú sí estás.


Roma, peligro para caminantes


Trata de no mirar sus monumentos,


caminante, si a Roma te encaminas.


Abre cien ojos, clava cien retinas,


esclavo siempre de los pavimentos.


Trata de no mirar tantos portentos,


fuentes, palacios, cúpulas, ruinas,


pues hallarás mil muertes repentinas


-si vienes a mirar-, sin miramientos.


Mira a diestra, a siniestra, al vigilante,


párate al ¡alto!, avanza al ¡adelante!,


marcha en un hilo, el ánimo suspenso.


Si vivir quieres, vuélvete paloma;


si perecer, ven, caminante a Roma,


alma garaje, alma garaje inmenso.


El herido


—Dame, tu pañuelo, hermana,


que vengo muy mal herido.


—Dime qué pañuelo quieres,


si el rosa o color de olivo.


—Quiero un pañuelo bordado,


que tenga en sus cuatro picos


tu corazón dibujado.


Bản dịch của Nguyễn Viết Thắng

Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 1 tháng 3 năm 2017 lúc 12:07.
19 Tháng Sáu 2019(Xem: 7307)
05 Tháng Tư 2019(Xem: 7264)
27 Tháng Giêng 2019(Xem: 7772)
17 Tháng Giêng 2019(Xem: 8606)
07 Tháng Giêng 2019(Xem: 8017)
13 Tháng Mười Hai 2018(Xem: 7793)
27 Tháng Mười Một 2018(Xem: 7896)
22 Tháng Mười Một 2018(Xem: 7690)