VOA 29.07.2013
Nhân chuyến viếng thăm của Chủ tịch Trương Tấn Sang ở Mỹ
trong mấy ngày cuối tháng 7 vừa qua, thử nghĩ về mối quan hệ giữa Việt Nam và
Mỹ.
Điều đầu tiên cần nhấn mạnh ngay là quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ được xây dựng
trên một nền tảng khá bất bình thường: sau một cuộc chiến tranh đẫm máu kéo
dài; và, có lẽ, do ảnh hưởng của nền tảng ấy, nó phát triển khá chậm: Đã 38 năm
sau chiến tranh, 18 năm sau ngày bình thường hóa ngoại giao và 16 năm kể từ
ngày Tòa Đại sứ Mỹ mở cửa tại Hà Nội, quan hệ giữa hai nước tuy càng ngày càng
được mở rộng nhưng nó lại không có chiều sâu gì đặc biệt như hai bên – hoặc ít
nhất một số người ở cả hai bên – mong muốn.
Mục đích chuyến đi của Trương Tấn Sang ở Mỹ là để “nâng cấp quan hệ” với Mỹ.
Trong các phát biểu đây đó, Trương Tấn Sang luôn luôn nhấn mạnh là Việt Nam xem
Mỹ là “đối tác quan trọng hàng đầu”, một “đối tác tích cực, hữu nghị, xây dựng,
hợp tác nhiều mặt, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi”. Trong thông báo chung,
phía Việt Nam
và Mỹ còn dùng chữ “đối tác toàn diện” (comprehensive partnership).
Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam tại Học viện Quốc phòng Hoàng gia
Úc, cho chuyến đi của Trương Tấn Sang được tổ chức một cách vội vã, “chỉ có hai tuần lễ để chuẩn bị”,
một thời gian ngắn bất thường trong quan hệ quốc tế. Sự “vội vã” ấy có lẽ xuất
phát từ chuyến đi thăm Trung Quốc của Trương Tấn Sang vào giữa tháng 6 vừa qua,
ở đó, Trương Tấn Sang và Bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam nhận thấy nhu cầu
đến gần Mỹ trở thành khẩn thiết hơn.
Nói cách khác, Việt Nam
cần Mỹ để cân bằng lực lượng với Trung Quốc, đặc biệt trong các tranh chấp ở
Biển Đông. Điều này đã được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bắn tiếng trong bài phát biểu khai mạc trong cuộc Đối thoại Shangri-La ở
Singapore vào ngày 31/5/2013: “Tôi tin rằng các nước trong khu vực đều không
phản đối can dự chiến lược của các nước ngoài khu vực nếu sự can dự đó nhằm tăng
cường hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển. Chúng ta có thể kỳ vọng nhiều
hơn vào vai trò của các nước lớn, nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc, hai cường quốc
có vai trò và trách nhiệm lớn nhất (tôi xin nhấn mạnh là lớn nhất) đối với
tương lai quan hệ của chính mình cũng như của cả khu vực và thế giới. […] Chúng
ta đặc biệt coi trọng vai trò của một nước Trung Hoa đang trỗi dậy mạnh mẽ và
của Hoa Kỳ - một cường quốc Thái Bình Dương.”
Đó cũng chính là điều Mỹ đang cần. Trong chiến lược trở lại châu Á để kiềm hãm
sự bành trướng của Trung Quốc, Mỹ rất cần đồng minh trong khu vực. Hiện nay, họ
đã có một số đồng minh chiến lược rất đáng tin cậy: Nhật, Hàn Quốc, Philippines
và Úc. Để vòng vây thực sự được thắt chặt, họ cần thêm những đồng minh khác
nữa: các nước Đông Nam Á. Trong các nước Đông Nam Á, nước có vị trí quan trọng
nhất chính là Việt Nam, nước có biên giới chung với Trung Quốc, hơn nữa, đó
cũng là nước có vùng biển đang bị Trung Quốc dòm ngó nhiều nhất.
Trong quan hệ quốc tế, sự gặp gỡ của một nhu cầu chung là yếu tố quan trọng
nhất để nối kết hai quốc gia lại với nhau. Người ta hay nói, để xây dựng quan
hệ đối tác toàn diện với một nước nào đó, với Mỹ, có ba trụ cột chính: Một,
những lợi ích về chiến lược; hai, những lợi ích về kinh tế; và ba, vấn đề nhân
quyền hay những giá trị mà Mỹ muốn cổ vũ. Dư luận hay chú ý đến yếu tố thứ ba.
Tuy nhiên, trên thực tế, một điều hầu như ai cũng biết là Mỹ, cũng như bất cứ
quốc gia dân chủ và lớn mạnh nào khác ở Tây phương, rất sẵn sàng bỏ qua yếu tố
nhân quyền vì những lợi ích về kinh tế cũng như về chính trị của họ. Lâu nay,
ai cũng lên án Trung Quốc về vấn đề nhân quyền, nhưng hầu như nước nào cũng
bang giao và làm ăn với Trung Quốc. Với Saudi Arabia, Equatorial Guinea, Uzbekistan,
Turkmenistan…
Mỹ vẫn giữ quan hệ chặt chẽ dù tất cả đều là những quốc gia độc tài và vi phạm
nhân quyền nghiêm trọng.
Việt Nam
sẽ được hưởng những sự “ưu đãi” tương tự như vậy chăng?
Có thể. Trong cuộc họp giữa Trương Tấn Sang và Barack Obama ngày 25/7 vừa qua,
có lẽ Tổng thống Mỹ chỉ đề cập đến vấn đề nhân quyền một cách nhẹ nhàng dù ông
thừa biết trong nửa đầu năm 2013, Việt Nam bắt bớ những người bất đồng chính
kiến nhiều hơn hẳn trong cả năm 2012 trước đó. Trong số những người bị gọi là
bất đồng chính kiến ấy, có nhiều blogger và những người hoạt động tôn giáo với
chủ trương bất bạo động; hơn nữa, cái gọi là “bất đồng” ấy chủ yếu chỉ tập
trung trong quan hệ đối với Trung Quốc.
Nhưng được đề cập một cách nhẹ nhàng không có nghĩa là vấn đề không còn sức
nặng gì nữa. Thứ nhất là tuy Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong
chiến lược trở về với châu Á của Mỹ nhưng đó không phải là một vai trò không
thể thay thế. Thứ hai, chính phủ Mỹ chịu khá nhiều áp lực từ dư luận để không
thể thản nhiên gạt bỏ các yêu sách về nhân quyền đối với Việt Nam. Những áp lực ấy đến một phần,
thậm chí, phần nhỏ, từ cộng đồng người Việt ở Mỹ; phần khác, quan trọng hơn, từ
chính dân chúng Mỹ, những người vẫn còn bị ám ảnh nhiều với chiến tranh Việt
Nam trước đây. Chính ký ức chiến tranh này là một yếu tố khiến chính phủ Mỹ
không thể bất chấp dư luận được.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất quyết định quan hệ giữa Việt Nam và
Mỹ nằm ở chỗ khác: Sự tin cậy. Có thể nói ngay: hiện nay hầu như không ai tin
ai cả. Việt Nam cần Mỹ nhưng
vẫn không tin Mỹ và cũng không muốn Mỹ có ảnh hưởng sâu rộng ở Việt Nam.
Lý do đơn giản: từ phía giới cầm quyền Việt Nam, tất cả các ảnh hưởng đến từ
Mỹ, vốn gắn liền với xu hướng dân chủ hóa, đều là những đe dọa đối với sự độc
quyền và độc tài của họ. Dân chúng Việt Nam, từ lâu, đã khái quát điều đó
bằng nhận định: “Đi với Mỹ thì mất đảng”. Còn Mỹ thì dĩ nhiên cũng không tin gì
Việt Nam.
Ký ức chiến tranh là một nguyên nhân. Nhưng nguyên nhân chính là sự khuất phục
của Việt Nam
đối với Trung Quốc. Từ các lời phát biểu đến cách hành xử, kể cả những sự đàn
áp dân chúng trong các cuộc biểu tình chống Trung Quốc, đều gợi lên ấn tượng là
với Việt Nam, sự lựa chọn đã rất rõ ràng: một mực đi theo Trung Quốc và sẵn
sàng nhân nhượng Trung Quốc. Việt Nam chỉ sử dụng các nước khác, kể
cả Mỹ, để cò kè trả giá cho sự nhân nhượng ấy mà thôi.
Không thể có quan hệ đối tác toàn diện hay chiến lược nào được xây dựng trên
nền tảng những sự nghi ngờ như vậy cả.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá
nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Đài VOA nhưng
không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.