E.E - Emprunt Empreinte - Mượn Dấu Thời Gian / Sep 2014
Nếu như những ánh sao băng có xẹt ngang bầu trời và để lại chút dấu thời gian....
Doãn Quốc Sỹ
http://phannguyenartist.blogspot.com/
Doãn Quốc Sỹ
Bút danh khác:
Dương Quan Sơn
(17/02/1923 - .........) Hà Đông
Nhà văn, Nhà giáo
Doãn Quốc Sỹ là
một nhà văn, nhà giáo nổi tiếng tại miền Nam Việt
Giữa thập niên 60,
ông du học tại Hoa Kỳ về ngành Giáo dục và trở về nước dậy học cho tới 1975.
Doãn Quốc Sỹ vừa dậy học vừa viết văn. Ông di cư vào
Mai
Thảo, Thanh
Tâm Tuyền, Tô Thùy
Yên v.v.
Ông là tác giả khoảng 25 tựa sách,
nổi tiếng nhất là bộ trường thiên tiểu thuyết Khu Rừng Lau gồm 4 tập: Ba
sinh hương lửa, Người đàn bà bên kia vĩ tuyến, Tình yêu thánh hóa, Đàm thoại
độc thoại.
Bộ
tiểu thuyết này đã được ví như "Chiến tranh và hòa bình" của Leo
Tolstoy.
Sau biến cố 1975, ông bị đưa đi
"cải tạo" tại trại Gia Trung (Tây Nguyên) và giam cầm hai lần với tội
"viết văn chống phá cách mạng", tổng cộng 14 năm tù trước khi được
phép di cư sang Hoa Kỳ theo diện O.D.P, đoàn tụ với con trai năm 1995.
Ông đã lập gia đình lúc trẻ với bà Hồ Thị Thảo, con gái nhà thơ trào phúng Tú
Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), và là anh ruột Nhạc sĩ Doãn Nho, một người cộng sản nổi
tiếng miền Bắc với những ca khúc Tiến bước dưới quân kỳ, Năm anh
em trên một chiếc xe tăng v.v.
Doãn Quốc Sỹ hiện
đang sống tại
Tác phẩm đã xuất
bản
(danh sách chưa đầy đủ)
Sợ Lửa
(1956)
U Hoài
(1957)
Gánh Xiếc
(?)
(chưa tìm thấy bìa sách)
(1958)
Gìn Vàng Giữ Ngọc
(?)
(Chưa tìm thấy bìa sách)
Dòng Sông Định
Mệnh
(1959)
Hồ
Thùy Dương
(1960)
Trái Cây Đau Khổ
(?)
(Chưa tìm thấy bìa sách)
(1963)
Người Việt Đáng Yêu
(1965)
Cánh
(1966)
Đốt Biên Giới
(1966)
Sầu Mây
(1970)
Vào Thiền
(1970)
Doãn
Quốc Sỹ. Ảnh: Cao Lĩnh
Trường thiên tiểu thuyết
Khu Rừng Lau
4 tập
1- Ba Sinh Hương Lửa
(1962)
2- Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến
(1964)
3- Tình Yêu Thánh Hóa
(1965)
4- Đàm Thoại Độc Thoại
(?)
(chưa tìm thấy bìa sách)
(1966)
Văn Học và Tiểu Thuyết
I & II
Sách in tại Hoa Kỳ
với nxb Văn Nghệ
Mình Lại Soi Mình
Người Vái Tứ Phương
Dấu Chân Cát Xóa
Cò Đùm
Thay Lời Tựa
dành cho tập truyện Cò Đùm của nhà văn Doãn Quốc Sỹ
Hoàng Khởi Phong
"Ngã kim nhật tại tọa chi
địa
Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa
chi"
1- Với tôi nhà văn Doãn Quốc Sỹ là
bậc trưởng thượng. Khi tôi ra đời, ông đã bước vào tuổi hai mươi, đã hăm hở lên
đường cứu nước. Bởi vì năm 1943, dân tộc Việt chúng ta có tới hai cái ách ngoại
bang tròng vào cổ. Trước tiên là người Pháp, đã đặt nền bảo hộ hơn nửa thế kỷ
đầy máu. Kế đó Đệ Nhị Thế Chiến đã mang Quân Đội Nhật vào trú đóng trên đất
nước chúng ta, rêu rao chiêu bài Đại Đông Á. Nhưng mà người Nhật cũng không
khác gì Pháp, cái họ mang tới không phải nền độc lập, sự thịnh vượng, mà chỉ
thêm vào những dòng máu khác. Đó là chưa kể tới những cái ách, của chính người
Việt choàng lên cổ lẫn nhau. Nên vì đó bất cứ một thanh niên nào nhiều nhiệt
huyết, thao thức tới vận mệnh tổ quốc, đều không sớm thì muộn cũng sẽ hăm hở
lên đường như Doãn Quốc Sỹ.
Nên tôi không lấy làm lạ, nếu như nhà văn
Doãn Quốc Sỹ đã có một thời gian bôn ba trong vùng kháng chiến. Khi người ta
còn trẻ và lòng đầy lý tưởng, ngay cả việc hy sinh tính mạng cũng là một điều
nhỏ, thì sá gì những chặng đường rừng, những ngọn đồi cao, những con sông rộng.
Khi người ta còn trẻ và tràn đầy những giấc mộng lớn, thì sá kể gì bụng đói,
trên thân người một manh áo mỏng, một chiếc quần vải thô. Bởi vì người ta đem
thân ra đi, để sống muôn đời. Mưa và nắng gió đường xa chỉ có thể làm cho lý
tưởng vững chắc hơn, chứ không bao giờ làm cho nhụt đi những tin tưởng mãnh
liệt vào tương lai của tổ quốc. Chọn lựa vào đời đầu tiên của nhà văn Doãn Quốc
Sỹ, là tham gia vào bất cứ một tổ chức nào, đi trên bất cứ con đường nào, miễn
sao cứu được tổ quốc ra khỏi cảnh khốn cùng. Ông đã đem tuổi thanh xuân của
ông, cống hiến cho cuộc chiến đấu một mất, một còn của tổ quốc, như bất cứ một
người tuổi trẻ nào, ý thức được bổn phận của một công dân trong một xứ sở
bị trị. Trước Doãn Quốc Sỹ nhiều thế hệ, những người thanh niên đã ra đi. Sau
Doãn Quốc Sỹ sẽ còn nhiều thế hệ nữa tiếp tục lên đường.
Thế nhưng chỉ vài năm sau, Doãn Quốc Sỹ đã
mơ hồ nhìn thấy con đường ông chọn, rồi ra sẽ không đưa tổ quốc tới được một
tương lai tươi sáng hơn, nếu không muốn nói là tăm tối hơn, tàn bạo hơn so với
sự cai trị của người ngoại chủng. Chính vì đó mà ông đã trở về thành, yên tâm
đến trường, hoàn tất việc học mà ông đã bỏ dở. Ông đã phải bỏ lại đằng sau,
cuộc chiến đấu ông đã chọn lựa, để rồi năm 1954, ông đã dắt díu gia đình vào
Nam, chiêm nghiệm lại sự thất bại của thế hệ ông trước những đòi hỏi của lịch
sử. Chính vì đã vào thành, bỏ dở lý tưởng ông đã chọn trong lúc tuổi thanh
xuân, ông đã phải tìm con đường khác, để hoàn thành giấc mộng cũ. Đó là một
trong những lý do khiến ông trở thành nhà văn sau này. Bởi vì văn chương chính
là một sức mạnh tiềm ẩn, người ta không thể nhìn thấy, không thể cân đo, đong
đếm được sức mạnh của văn chương. Nhưng người ta cảm nhận được sức mạnh của văn
chương, chữ nghĩa.
2- Nhiều năm sau tôi bắt đầu thích đọc
sách. Biết thế nào là những cuốn sách hay, và những cuốn sách biết hay không
biết phân biệt thế nào là văn chương và thế nào là những chuyện hoang đường
tưởng tượng. Tôi đã đọc Doãn Quốc Sỹ và mơ hồ nhận biết: Một tác phẩm lớn mở
lối tới tương lai, khác với một cuốn tiểu thuyết hay, phục vụ cho thị hiếu bình
thường của người đọc. Một tác phẩm kích thước, có thể thay đổi số phận nhiều
con người, thường khi là một cuốn sách bán không chạy.
Khi nhận biết được những điều này, tôi bước
chân vào tuổi hai mươi. Tuổi của Doãn Quốc Sỹ khi ra đi tham gia trận chiến của
ông. Thế hệ tôi lớn lên có một trận chiến khác. Nhưng rồi trận chiến nào cũng
giống trận chiến nào. Cũng súng đạn ngoại bang, cũng máu xương dân Việt. Có
khác chăng giữa hai trận chiến là diện mạo quân thù. Khi Doãn Quốc Sỹ chong mũi
súng về phía đằng trước, thì trước mặt ông là những người thực dân Pháp da
trắng, cùng những người lính đánh thuê da mầu. Phía trước mũi súng của tôi là
những người đồng chủng, tệ hơn nữa có thể là những anh em con chú, con bác
đã không di cư vào Nam như gia đình tôi. Nói một cách khác, thế hệ chúng tôi
tiếp tục trận chiến bỏ dở của thế hệ Doãn Quốc Sỹ. Riêng Doãn Quốc Sỹ, ông đã
chọn trận chiến của riêng ông, là gióng lên những thất bại của thế hệ ông, nhằm
cảnh giác thế hệ chúng tôi trong thế trận mới.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ đến với tôi có một vị
trí đặc biệt. Trước tiên do những thất bại của ông và của thế hệ ông, những
thất bại vì không thể nhắm mắt đồng lõa với sự tàn bạo của con người, dành cho
con người. Ông đã bỏ lại đàng sau, cái hàng ngũ đã reo rắc kinh hoàng, tang tóc
cho một nửa nước phương Bắc. Ngay khi đặt chân xuống miền
Để chống lại sự tàn bạo đến phi nhân của kẻ
địch, võ khí mà nhà văn sử dụng chính là lòng thương yêu. Năm mười tám tuổi,
khi đọc "Dòng sông định mệnh - Chiếc chiếu hoa cạp điều" của ông, tôi
bắt được những ý nghĩ trong lành trong từng trang sách.
Nói một cách khác trong đời chiến đấu khá ngắn
ngủi của ông, ngay khi phát giác những người sát cánh bên cạnh mình, là những
con người bạo tàn với đồng loại, với ngay cả đồng bào của chính mình. Khi phát
giác ra điều này, nhà văn phải lập tức quay lưng lại với quyền lực, không những
quay lưng lại mà còn phải lớn tiếng tố cáo, chống lại những bạo lực này, bằng
cách ghi lại những ao ước của mọi người, thể hiện những ao ước này bằng lòng
thương yêu, nơi mọi nhân vật trong tác phẩm của mình. Tính nhân bản luôn là nét
chính, trong các tác phẩm đầu tiên của nhà văn Doãn Quốc Sỹ.
Năm 1963, tôi hai mươi tuổi, nằm trong quân
trường Thủ Đức. Tôi đọc cuốn đầu của bộ trường thiên tiểu thuyết bốn
cuốn"Khu rừng lau", của nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Bên ngoài hàng rào quân
trường, xã hội miền Nam đang trải qua những cơn bão tố chính trị. Thời đó ông
chỉ mới hoàn tất cuốn đầu: "Ba sinh hương lửa - 1962", để rồi những
năm sau, trôi nổi trong đời quân ngũ, lúc nào tôi cũng quan tâm đến các phần
còn lại của bộ trường thiên tiểu thuyết này: "Người đàn bà bên kia vĩ
tuyến, 1964 - Tình yêu thánh hóa, 1965 và Đàm thoại độc thoại,
1966".
Cách ông đặt tên cho toàn bộ trường thiên,
cũng như từng phần cho thấy trong tác phẩm này, nhà văn Doãn Quốc Sỹ đã bầy
trước mặt ông quá nhiều vấn đề, quá nhiều mong ước. Éo le thay giải quyết các
vấn đề này, cũng như làm đầy những ước mơ này, không nằm trong tay các nhà văn.
Đau lòng hơn thế, suốt trong hơn hai thế kỷ cận đại, chưa bao giờ số phần của
dân tộc Việt
Một đàng là những bạo tàn đến từ phương
Bắc, một đàng là những ung thối của miền
3- Năm 1975 ập tới, thế hệ của tôi mang về cho tổ quốc một kết quả
tương tự như thế hệ Doãn Quốc Sỹ. Thế hệ của ông tuy thất bại, dẫu sao nữa vẫn
còn giữ được cho chúng tôi một khoảnh đất tự do, một chút vốn liếng cuối cùng.
Thế mà thế hệ chúng tôi nỡ lòng nào đánh mất cái vốn liếng cuối cùng này, để
đến nỗi toàn bộ xứ sở chìm trong tù ngục. Tháng Tư năm 75, khi những
người Cộng Sản ngoài Bắc tràn vô chiếm lãnh Sài Gòn, Doãn Quốc Sỹ đã không
may mắn như năm 54. Ông ở lại và nhận lấy hậu quả nơi những dòng chữ chuyên chở
lòng thương yêu của ông. Ông bị Cộng Sản giam giữ cùng với nhiều nhà văn, nhà
thơ, nhà báo của miền
Cũng như bao người khác, thoạt mới bị giam
giữ Doãn Quốc Sỹ bị bao trùm bởi sự sợ hãi. Nhưng nhờ đã có kinh nghiệm với
người Cộng Sản trước kia, và nhờ ý chí mạnh ông đã qua khỏi được giai đoạn kinh
hoàng khi mới bị bắt giam. Ông tiết kiệm từng hơi thở, gìn giữ mỗi cử chỉ, cốt
để cho những người quản giáo không có cơ hội xúc phạm tới nhân phẩm của ông.
Ông hít sâu vào lồng ngực, thở ra chậm chạp, như thở của một tu sĩ trong cơn
tọa thiền. Vả lại nhà văn là những người có khả năng phân thân, có thể nhẩy lùi
lại quá khứ, sống cuộc đời trăm năm trước, hay phóng mình tới xã hội của trăm
năm sau, do đó thân tuy bị giam trong ngục tối, nhưng hồn thì ở cuối chân trời.
Tuy bị bóng tối bao phủ, nhưng trong mắt nhìn của nhà văn, ông bắt gặp những
mầu sắc tươi đẹp của ngày mai.
Doãn Quốc Sỹ là một trong những nhà văn của
miền
Những ai đã từng yêu Doãn Quốc Sỹ, nhận
ngay ra văn phong của ông trong ba tác phẩm này. Ông là một ngòi bút dùng để
tuyên dương điều thiện, cái đẹp, thế mà ông bị giam hãm trong một vùng đất mà
tính ác và điều xấu bao trùm tới khóm cây ngọn cỏ. Thêm vào đó gần hai chục năm
đắm chìm trong suy nghĩ, không có dịp cầm bút, nên cái nhịp của các tác phẩm
này chậm chạp, các nhân vật ít linh hoạt hơn, so với những nhân vật trong các
tác phẩm trước kia của Doãn Quốc Sỹ.
4- Tác phẩm mới nhất của
nhà văn Doãn Quốc Sỹ có tên là "Cò Đùm". Đây là một tác phẩm mới mà
cũ, bởi vì ông đã viết truyện ngắn này vào năm 71. Cuốn sách được ông quyết
định mang in sau khi ông đã hít thở không khí tự do của nước Mỹ chẵn tròn một
năm. Trong một năm đó, gót chân ông đã vân du hai ba đại lục. Ông đã nhìn thấy
tận mắt, đã nghe tận tai, đã thấy thế nào là hoan hô, đả đảo. Ông có dịp quan
sát từ đối cực này sang đối cực khác. Những năm trong tù giúp ông có thời gian
nghiền ngẫm lịch sử. Ông chiêm nghiệm được một điều: Trong các cuộc biến thiên
của lịch sử bất lợi cho đất nước, trong mọi cuộc chiến tranh, đặc biệt là trong
các cuộc nội chiến, lớp người thiệt thòi, khổ đau nhất là những nông dân, mà
nhân vật "Cò Đùm" là một thí dụ. Nhưng cũng chính những người nông
dân này có sức chịu đựng bền bỉ nhất. Chính những người nông dân này, đã oằn
vai sốc vác gánh nặng của lịch sử trong những thời khoảng đen tối nhất. Họ là
những mạch sống ngầm của dân tộc, hệt như những mạch nước do địa thế không thể
chẩy lộ thiên, đã ngấm xuống và chẩy ngầm trong lòng đất. Khác với dòng nước
sông Hồng đỏ ngầu máu địch, họ là những cái giếng trong cho mỗi một ngôi làng.
Trong những lũy tre xanh, mỗi một ngôi làng là một cứ điểm tích lũy vốn
sống của tổ tiên. Dưới mái ngói của mỗi ngôi đình là một niềm tự hào riêng của
từng địa phương, mà ở đó những người dân quê tuy hiền lành, nhưng bướng bỉnh
duy trì những mạch đời, liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Sự khôn ngoan của "Cò Đùm", không
thể là cái khôn ngoan rút được từ trong sách vở. Sự khôn ngoan đó là kinh
nghiệm sống của nhiều kiếp con người. Những kinh ngiệm đó không phải thứ kinh
nghiệm ù lì. Mà trái lại đó là những ứng dụng đầy sáng tạo. Trong những điều
kiện thật khắc nghiệt của lịch sử, quân thù giới hạn việc di chuyển, thông
thương. Mỗi một ngôi làng vẫn có thể tồn tại được, cho dù không được tiếp xúc,
giao thương với các làng khác. Những cải tổ nông nghiệp thường khởi đi từ dân
chúng, thí dụ như cách làm khoán cho từng gia đình, là sáng tạo của người nông
dân Việt Nam, trước việc làm chung hợp tác xã cái kiểu cha chung không ai khóc
được ứng dụng tại Trung Cộng trong những năm của thập niên 60. Muời năm trước
Sài Gòn là một thành phố buồn thảm, như một cái cây trụi lá trong mùa đông,
hiện nay đã có những tàn lá xanh, tuy chưa phải là mùa xuân, nhưng ít ra thành
phố đã có mầu sắc. Sự thay đổi này được khởi đi từ dân chúng, không phải bởi
những sắc lệnh "đổi mới" được ban bố từ trên xuống.
Hãy tưởng tượng những "Cò Đùm"
của đất nước chúng ta, trong thời Bắc thuộc, khi chưa có bà Trưng, bà Triệu,
Phùng Hưng, Triệu Quang Phục... cho tới khi lịch sử sản xuất một Ngô Quyền. Thế
rồi trên dòng trường giang của lịch sử, khi nòi Hán với các triều đại Hán,
Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh xâm lăng từ bên ngoài, mà nước Việt chưa kịp
có những Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung... Rồi
gần chúng ta hơn nữa, trong thời Pháp thuộc, cái bạo tàn của thực dân được hỗ
trợ bởi sự nhu nhược của triều đình, cộng thêm với sự nhũng lạm của các tham
quan đã khiến cho dân chúng phải gầm mặt mà sống. Phải sống mà chờ một người
anh hùng áo vải của ngày mai. Để có thể sống còn khi mà lịch sử còn đang u
u, minh minh, những lũy tre làng hữu hiệu hơn các đô thị. Mỗi một ngôi làng là
một cứ điểm đơn độc lặng lẽ sống, kiên nhẫn chờ, cho đến khi bóng dáng người
anh hùng thực xuất hiện, bởi vì hơn bao giờ hết thời đại của chúng ta có
quá nhiều anh hùng giả. Khi những người của lịch sử xuất hiện, thì ngàn vạn
ngôi làng, ức triệu con người như "Cò Đùm" ngẩng mặt lên, nhất tề
đứng dậy xếp hàng sau lưng người của muôn đời dựng lại lịch sử. Hãy tưởng tượng
những "Cò Đùm" hôm nay, đang cúi mặt xuống, sống để mà sống. Ôi những
người nông dân sông Tiền, sông Hậu, những người nông dân
Cách
ông viết bây giờ, là lấy ngón tay chỉ mặt trăng. Hãy chú trọng tới mặt trăng,
còn ngón tay chỉ là phương tiện.
5- Ở vào tuổi thất thập cổ lai hy, những tác phẩm mới của nhà văn
Doãn Quốc Sỹ quả đúng là "Văn Dĩ Tải Đạo". Trong văn chương, ông
chống lại mọi guồng máy làm cho sức sống của dân tộc bị trì trệ. Bất kể guồng
máy đó thuộc về phía nào. Ông viết từ tốn, không khoa đại ngôn ngữ, song thái
độ của ông là một thái độ quyết liệt với bạo lực và tăm tối.
Với tôi nhà văn Doãn Quốc Sỹ là một bậc
trưởng thượng. Trên con đường văn nghiệp, ông đã khởi hành trước tôi 20 năm.
Với tên tuổi, và những tác phẩm ông đã đóng góp với dòng văn học gần nửa thế kỷ
nay, ông không cần một bài tựa. Bài viết này nghĩ cho cùng chỉ là những lời cám
ơn, của một người khởi hành sau ông một khoảng thời gian, cách ông một thôi
đường. Trong hành trình tiến tới tương lai, có thể ông sẽ nằm xuống trước tôi.
Điều quan trọng chính là những nhát búa mở đường của ông và của thế hệ ông để
lại, đã giúp cho hậu sinh chúng tôi tiến về phía trước thêm được một khoảng
cách. Tôi tin rằng thế hệ của tôi cũng sẽ làm những việc tương tự, phóng những
nhát búa, phạt những đường dao khác tiến tới phía trước.
Tôi cầu chúc nhà văn Doãn Quốc Sỹ sức khỏe,
sống lâu trăm tuổi để có thể thấy những "Cò Đùm" của ông nơi quê nhà,
rồi ra sẽ không còn cúi mặt.