“Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại tự nhiên vứt bỏ…”

07 Tháng Sáu 201611:43 CH(Xem: 9168)

"BÁO VĂN HÓA-CALIFORNIA" THỨ  TƯ 08  JUNE 2016

“Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại tự nhiên vứt bỏ…”

Đại tá Đặng Việt Thủy

06:15 07/06/16

(GDVN) - Lê Thánh Tông vừa là một vị vua anh minh, quyết đoán vừa là một nhà chính trị tài năng, một nhà văn hóa lớn của dân tộc.

LTS: Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, đã sản sinh ra rất nhiều anh hùng dân tộc và nhân vật lịch sử tiêu biểu, trong đó có vua Lê Thánh Tông - một đấng minh quân văn, võ song toàn.

Ông không chỉ là vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, mà quan trọng là 38 năm ngồi trên ngai vàng, ông đã làm rạng danh đất Việt và để lại cho hậu thế nhiều bài học đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Trong bài viết này, Đại tá Đặng Việt Thủy khái quát những dấu mốc quan trọng về đấng minh quân văn trị, vũ công toàn năng này của nước Đại Việt.

Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả. 

Lê Thánh Tông là vị vua thứ tư của triều Hậu Lê, kể từ vua Lê Thái Tổ (1428-1433), Lê Thái Tông (1434-1442), Lê Nhân Tông (1442-1459). 

Vua Lê Thánh Tông húy là Tư Thành, còn có húy khác là Hạo hoặc Cảnh, con thứ tư của vua Lê Thái Tông và bà Ngô Thị Ngọc Dao - con gái của Thái bảo Ngô Từ, một công thần khai quốc của nhà Lê. 

Ông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (25/8/1442).

Ngay từ khi còn nhỏ, Lê Tư Thành đã có thiên tư khác thường, thần thái anh vĩ, trang nghiêm, ham học, ngày đêm không thấy rời quyển sách. 

Khi Lê Nghi Dân, con cả của vua Thái Tông trước đó bị biếm truất rồi âm mưu thoán đoạt đã giết mẹ con vua Lê Nhân Tông, lên ngôi vua lại phong Tư Thành làm Gia Vương và vẫn cho ở nhà Tây ở trong nội điện. 

Ít lâu sau, các bậc của triều đình phế truất Nghi Dân rồi tôn lập Tư Thành lên ngôi Hoàng đế.

Lúc đó, Tư Thành tròn 18 tuổi.

Ngày mồng 8 tháng 6 năm Canh Thìn (1460), Tư Thành lên ngôi ở điện Tường Quang, xưng làm Thiên Nam động chủ, lấy ngày sinh làm Sùng Thiên Thánh Tiết, đổi niên hiệu là Quang Thuận năm thứ 1, ban đại xá cho thiên hạ.

image019

Lê Thánh Tông là vị vua thứ tư của triều Hậu Lê (Ảnh: doisongphapluat.com)

Vua Lê Thánh Tông của triều Lê là một đấng minh quân, học rộng, tài cao. Với tổ tông thì hiếu nghĩa, với quần thần thì thương yêu.

Trong vòng 38 năm ở ngôi, vua đã sửa sang lại nhiều việc như: mở mang việc học hành, chăm sóc nông nghiệp, chỉnh đốn quân đội, đánh dẹp Chiêm Thành, Ai Lao khiến cơ nghiệp nước nhà ngày thêm vững mạnh, lừng lẫy một phương, kể từ thượng cổ đến lúc đó nước Đại Việt thật sự cường thịnh về mọi mặt.

Ngay từ khi mới lên ngôi, về thể chế, vua đã lo ngay việc tổ chức xã hội, phong tước và cấp ruộng cho các công thần.

Vua còn minh oan cho các bậc công thần bị kết án oan sai ngày trước, tìm con cháu Nguyễn Trãi cấp cho 100 mẫu ruộng để phụng thờ tổ tiên. 

Đối với những người được ban quốc tính, thì vua cho phục tính lại để khỏi mất họ.

Một mặt, vua lo việc đền ơn các bậc công thần nhưng mặt khác vua cũng dốc lòng dốc sức vào việc cai trị đất nước.

Để làm cơ sở cho việc khẳng định nền độc lập, Lê Thánh Tông rất quan tâm đến việc xác định rõ ràng cương vực của đất nước. 

Năm Đinh Hợi (1467), niên hiệu Quang Thuận thứ 8, vua sai quan ở các đạo điều tra địa hình giới hạn, ghi rõ trong hạt có những sản phẩm gì, đường giao thông thủy, bộ thế nào, sông núi hiểm trở ra sao hay chỗ nào có sự tích gì, tất cả đều phải ghi chép đầy đủ, rõ ràng, vẽ thành bản đồ gửi về bộ Hộ để tập hợp làm thành bản đồ cả nước. 

Tới năm Kỷ Sửu (1469), niên hiệu Quang Thuận thứ 10 thì bản đồ cả nước hoàn thành, lần đầu tiên xác định rõ lãnh thổ và cương giới đất nước. Bản đồ này làm xong vào cuối năm Quang Thuận nhưng vẫn được gọi là bản đồ Hồng Đức.

Đó là một bước tiến triển rất cao về sự thống nhất đất nước, đầy đủ chủ quyền của nước Đại Việt ta lúc bấy giờ.

Vua Lê Thánh Tông còn sai Ngô Sĩ Liên hoàn thành bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Đây là một công trình biên soạn lịch sử rất có giá trị. 

Về quân sự, vua Lê Thánh Tông là người tổ chức quân đội rất có kỷ cương và nghiêm chỉnh. Hơn nữa, vua còn đích thân đề ra các trận pháp.

Vua ra lệnh cho các quan Tổng binh phải luôn luôn giảng dạy, tập luyện trận đồ cho tướng sĩ. 

Do vậy, quân đội thời Hồng Đức lập được nhiều chiến công oai hùng, mở rộng cương vực, rất được các nước láng giềng kính phục.

Để quản lý quân đội một cách thuận tiện, dễ dàng, vua quyết định đổi 5 vệ quân ra 6 phủ là: Trung quân phủ, Nam quân phủ, Đông quân phủ, Bắc quân phủ và Tây quân phủ. 

Mỗi phủ có 6 vệ, mỗi vệ có 6 sở, mỗi sở có 400 người. Tổng số quân cả 5 phủ là 72.000 người. Đây là số quân tại ngũ, không kể số quân cho thay phiên về cày ruộng theo chính sách "Ngụ binh ư nông".

Tổng số quân tại ngũ, quân thường trực và quân về cày ruộng là 16 vạn. 


image020

Thư tịch ghi lời của vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497) nói với các quan phụ trách biên cương vào tháng 4/1473. (Ảnh: baodaklak.vn)

Đội quân 16 vạn này được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật và kỹ thuật chiến đấu cao.

Hàng năm, quân sĩ đều phải tập trung ở địa phương hoặc về Kinh sư để tập thủy trận.

Trang thiết bị quân đội thì có thêm vũ khí mới như ống phun lửa gọi là hỏa pháo và hỏa đồng. 

Cũng như thi văn, vua đặt lệ 3 năm có một kỳ thi võ, tướng sĩ ai đỗ thì thưởng, ai hỏng thì phạt, tất cả mọi người đều hăng hái luyện tập võ nghệ.

Dưới thời Lê Thánh Tông, quân đội thực sự hùng hậu, đóng vai trò quan trọng trong việc gìn giữ lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, nổi tiếng là quốc gia mạnh bậc nhất ở vùng Đông Nam Á.

Đi đôi với biện pháp ngăn chặn, hạn chế quyền lực của các thế lực địa phương, Lê Thánh Tông tăng cường đàn áp bạo loạn, nhất là những hành vi bạo phản ở vùng biên giới có sự tiếp tay của các thế lực ngoại bang ở cả phía Tây, phía Bắc và phía Nam. 

Bổ trợ cho hoạt động đó, triều đình tiến hành quản lý chặt chẽ hơn trước đối với những thổ quan miền biên viễn: ngoài việc cử những viên quan tin cậy người miền xuôi lên trấn trị những vùng hiểm yếu của biên cương, triều đình còn buộc họ phải thực hiện nghiêm ngặt các quy định, nghi thức của triều đình; mặc dù được tự trị lớn song các viên quan người địa phương phải chịu sự giám sát của triều đình và họ không có quyền thế tập nếu không có quyết định của triều đình. 

Khi tiếp kiến quan trên, những thổ quan phải đội mũ đeo đai giống các viên quan khác, không có quyền tự ý ăn mặc theo lối riêng; nếu có công họ được ban thưởng, nếu có tội họ bị xử lý nghiêm khắc theo luật nước.

Nhằm chống nguy cơ xâm lấn từ bên ngoài và làm phản từ bên trong, Lê Thánh Tông coi trọng việc sử dụng các biện pháp pháp luật. 

Bộ luật Hồng Đức đã thể chế hóa những tư tưởng, chính sách, biện pháp để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh quốc gia qua khá nhiều điều luật, chẳng hạn: Các quy định trừng phạt các hành vi xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền kinh tế quốc gia, như: trốn ra nước ngoài (Điều 71), bán ruộng đất ở bờ cõi cho người nước ngoài (Điều 74), bán binh khí và thuốc nổ cho người nước ngoài (Điều 75), chặt tre, gỗ phá thế hiểm yếu vùng biên giới (Điều 88), vận chuyển trái phép hàng hóa thiết yếu qua biên giới (Điều 76). 

Các quy định trừng phạt hành vi phá hoại an ninh quốc gia và trật tự ven biên, như: mưu phản (Điều 25), thông đồng với người nước ngoài tiết lộ bí mật quốc gia (Điều 79). 

Các quy định trừng phạt hành vi vi phạm trách nhiệm của quan lại trấn ải nơi biên giới, như: tướng sĩ trấn giữ nơi biên ải mất cảnh giác làm tổn hại nghiêm trọng đến chủ quyền và an ninh quốc gia (Điều 613). 

Như vậy có thể thấy rằng trong một Bộ luật Hồng Đức với 13 chương 722 điều đã có 8 điều quy định về bảo vệ an ninh, lãnh thổ đất nước, chống thù trong, giặc ngoài. 

Đây cũng là một trong những yếu tố xác định vị vua có tư tưởng pháp trị nhất trong xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc thời Lê Sơ.

Xây dựng nhà nước độc lập, thống nhất trên cơ sở bảo toàn lãnh thổ là một nội dung tư tưởng nhất quán trong đường lối trị nước của Lê Thánh Tông.

Tư tưởng đó không chỉ là tư tưởng chỉ đạo mọi hành động mà còn thể hiện ở những chủ trương, chính sách cụ thể của vua Lê Thánh Tông. Những chính sách đó không chỉ là cơ sở mà còn tác động sâu sắc tới các triều đại sau.

Ở đây cũng cần nhấn mạnh rằng, chính sách đối ngoại của Lê Thánh Tông vừa cứng rắn vừa mềm dẻo, uyển chuyển đối với các nước láng giềng. 

Ông đã từng nói: "Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại tự tiện vứt bỏ?... Nếu người nào dám đem một tấc đất của vua Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di". (Đại Việt sử ký toàn thư).

Câu nói trên giống như một tuyên ngôn đanh thép về chủ quyền, độc lập dân tộc. Uyển chuyển để giữ thế ứng xử trong ngoại giao, nhưng cứng rắn là để giữ từng tấc đất, từng thước núi của cha ông. 

Việc sử sách ghi lại rất nhiều những cuộc tuần du, duyệt võ, dùng binh của Lê Thánh Tông đều không nằm ngoài mục đích bảo vệ và giữ yên bờ cõi.

Dưới thời Lê Thánh Tông, các chính sách ngoại giao được gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền dân tộc và chủ quyền dân tộc lại được xác nhận bằng một văn bản có tính chất nhà nước đó là bản địa đồ toàn quốc, vẽ và công bố cho thần dân trong cả nước đều biết. 

Đó là Hồng Đức bản đồ (hay bản đồ Hồng Đức như phần trước đã đề cập). Hồng Đức bản đồ đã đi vào chính sử và nổi tiếng có đến hơn 500 năm…

Trong cuộc đời của mình, Lê Thánh Tông đã đi tuần du gần như khắp nước. Ở đâu cũng thấy ông lưu đề văn thơ, khi thì trên một vòm hang, khi thì trên một vách núi, một cửa biển… 

Ở đây, không chỉ đơn thuần là chuyện đề vịnh của một thi nhân cảm hứng trước sơn thủy hữu tình, mà đó chính là ý thức của một vị hoàng đế về giang sơn xã tắc. 

Trong một bài thơ đề ở vách núi Truyền Đăng (nay là núi Bài Thơ thuộc tỉnh Quảng Ninh), Lê Thánh Tông đã hạ một câu thơ bất hủ: "Thiên Nam vạn cổ hà sơn tại" (Muôn thuở trời Nam, núi sông còn mãi).

Lê Thánh Tông là một vị vua anh minh, quyết đoán, giữ vị trí hàng đầu trong công cuộc củng cố nhà nước phong kiến, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước về các mặt kinh tế, chính trị, quốc phòng và văn hóa.

Ông không chỉ là một vị vua giỏi mà còn là một nhà chính trị tài năng, một nhà văn hóa lớn của dân tộc.

Tài liệu tham khảo:

- "54 vị Hoàng đế Việt Nam", NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2008

- "10 vị Hoàng đế Việt Nam tiêu biểu", NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2011.

Đại tá Đặng Việt Thủy

01 Tháng Ba 2015(Xem: 10762)
Làng Mai là một mô hình thiền học phật giáo Việt Nam thành công ở nước Pháp, quốc tế, mặc dù chưa được hoàn toàn thừa nhận ở Việt Nam do các lý do khác nhau, theo một nhà nghiên cứu sử học đương đại và văn hóa tôn giáo tại Pháp.
12 Tháng Hai 2015(Xem: 11162)
Có những điều không thể ngờ, hay không thể tin mà có thể xảy ra. Ví dụ chúng tôi có tạp chí Vấn Đề số 52 – số bị tịch thu - ở xứ Mỹ này khi mà 43 năm về trước trên số 53 đăng lời cáo lỗi cùa Ban Chủ trương nguyệt san Vấn Đề như sau:
30 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 11869)
Điều làm du khách không khỏi ngạc nhiên là nhiều hạng mục cổ của các di tích này bị phá đi và xây mới lại. Không gian đỉnh Yên Tử những ngày này trở nên ồn ào bởi hàng loạt công trình dở dang cùng tiếng máy xây dựng vang vọng khắp vùng núi.
23 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 12442)
07 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 11082)
Xuân Tân Mùi-791-Phùng Hưng (người Đường Lâm-Sơn Tây) dấy binh đánh đuổi quân xâm lược nhà Đường, làm chủ đất nước, nhân dân tôn là bố cái đại vương Kỷ Mùi-889-Năm sinh Ngô Quyền , anh hùng dân tộc, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống nam Hán năm 938, lập nhà Ngô mở đầu giai đoạn quốc gia độc lập
02 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 20203)
Hồ Trường là một thi phẩm nổi tiếng của nhà cách mạng Nguyễn Bá Trác vào đầu thập niên hai mươi. Tác giả người làng Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từng theo Cụ Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du và hưởng ứng phong trào Đông Kinh của Cụ Phan Chau Trinh. Từng làm quan dưới triều Nguyễn, Ông cũng là nhà biên khảo cho Phủ Toàn Quyền Đông Dương và là chủ bút ( phần Hán Văn) của tờ Nam Phong Tạp Chí do Phạm Quỳnh sáng lập.
24 Tháng Mười Một 2014(Xem: 16126)
Hát Quan Họ là một lối Hát Thơ rất đặc thù nổi tiếng vùng Kinh Bắc ( gồm Bắc Ninh và Bắc Giang). hay còn gọi là Dân Ca Quan Họ. Hằng năm cứ dip Xuân về vào tháng Giêng Âm Lịch là Hội Làng mở các Lễ Hội đầy mầu sắc văn hóa dân gian, trong đó Lễ Hội Lim làng Tiên Du là lễ hội lớn và hoành tráng nhất.
14 Tháng Mười 2014(Xem: 10478)
Chiều 27-9, ông Nguyễn Đức Kiếm - phó giám đốc bảo tàng tỉnh Nghệ An cho biết, bảo tàng đã tổ chức trao thưởng của UBND tỉnh cho ông Nguyễn Văn Bình (ngụ ở xóm 9, xã Hưng Lợi, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An) - người đã có công phát hiện và giao nộp 2 khẩu súng thần công cho bảo tàng.
07 Tháng Mười 2014(Xem: 10665)
(Dân trí) - Ngày 6/10, TS. Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế (TTBTDTCĐH) cho biết chiếc xe kéo của vua Thành Thái đang làm một số thủ tục, chuẩn bị được đưa về cố hương.
01 Tháng Mười 2014(Xem: 11824)
Dân ca Ví, Giặm là “thổ sản” độc đáo trong kho tàng dân ca Nghệ Tĩnh, thể hiện đậm nét bản sắc riêng của con người xứ Nghệ. Hát Ví, hát Giặm đã tồn tại hàng trăm năm nay trong đời sống nhân dân xứ Nghệ, được lưu truyền qua nhiều thế hệ cho đến ngày nay.
08 Tháng Chín 2014(Xem: 14761)
Doãn Quốc Sỹ là một nhà văn, nhà giáo nổi tiếng tại miền Nam Việt Nam từ trước 1975. Ông đã dậy học tại các trường Trung học như Nguyễn Khuyến (Nam Định) Chu Văn An (Hà Nội) Trần Lục (Sài Gòn). Làm Hiệu trưởng trường Trung học Hà Tiên, Giáo sư trường Trung học Hồ Ngọc Cẩn, Giáo sư trường Đại học Văn khoa Sài Gòn và Đại học Sư phạm Sài Gòn Giữa thập niên 60, ông du học tại Hoa Kỳ về ngành Giáo dục và trở về nước dậy học cho tới 1975.
28 Tháng Tám 2014(Xem: 10742)
Một giá hầu bóng đang cử hành giá “Quan lớn Tuần Tranh” tại đền ngã Năm Sàigon. Khởi động cho giá hầu là ban nhạc Cung Văn gồm đàn nguyệt, đàn đáy, phách, trống chầu, trống con, sáo, ngâm hát những bài ca vinh danh vị tướng “Trấn thủ Lưu đồn” trong lịch sử Việt Nam.
21 Tháng Tám 2014(Xem: 12548)
Trước mắt tôi là sưu tập Văn Nghệ số 40 ra 3-1953. Lúc này cơ quan Hội văn nghệ đang đóng ở rừng Việt Bắc. Nhân cái chết của Stalin, tạp chí của Hội ra một số đặc biệt, không chỉ Tố Hữu mà nhiều tác giả khác có bài liên quan tới sự kiện này.
07 Tháng Tám 2014(Xem: 11277)
Nhân câu chuyện bầu chọn, đề cử và chỉ định cán bộ tại Việt Nam trước Đại hội Đảng Cộng sản dự kiến vào năm 2016 đang thu hút sự chú ý của dư luận, BBC Tiếng Việt xin giới thiệu một số trích dẫn lịch sử liên quan đến chế độ quan tước và thế tập thời phong kiến để bạn đọc tham khảo:
20 Tháng Ba 2014(Xem: 11863)
Kể từ ngày 20 tháng Ba cho đến 20 tháng Năm năm 2014, Viện Lưu trữ Quốc Gia (Archives Nationales) tổ chức cuộc triển lãm với tựa đề ‘‘Quan hệ Việt-Pháp qua bốn thế kỷ’’. Sau khi được trưng bày ở Hà Nội và Sài Gòn, nay cuộc triển lãm được đưa sang Paris, trong khuôn khổ chương trình Năm Việt Nam tại Pháp.
06 Tháng Ba 2014(Xem: 12365)
Chùa Hương (Hà Nội), đến hẹn lại lên, sau Tết Nguyên đán Canh Dần 2010, chỉ trong duy nhất cái ngày khai hội thôi, đất Phật đã đông đến kỷ lục: 6 vạn lượt khách/ngày! Bên cạnh tắc đường, trộm cắp, chèn ép khách..., nạn xả thịt thú rừng diễn ra ngang nhiên và kinh hoàng.