VĂN HÓA ONLINE - VĂN HÓA LỊCH SỬ - THỨ NĂM 18 APRIL 2019
NGÔ THÌ NHẬM (1746-1803): HOÀNG HOA ĐỒ PHẢ - KÝ SỰ ĐI SỨ BÁO TANG VUA QUANG TRUNG VÀ CẦU PHONG VUA CẢNH THỊNH NĂM 1793
VIỆT BÁO 16/04/2019
Vua Quang Trung từ trần ngày 29 tháng 7 nhuần năm Nhâm Tý (1792), Ngô Thì Nhậm được triều đình cử làm Chánh sứ sứ bộ sang báo tang vua Quang Trung và cầu phong vua Cảnh Thịnh.
Ngày 20 tháng 3 năm Quý Sửu (1793) khởi hành từ Thăng Long.
Ngày 27 tháng 3 qua cửa ải Nam Quan.
Ngày 8 tháng 5 tới Yên Kinh. Ở kinh đô nhà Thanh 12 ngày.
Ngày 20 tháng 5 lên đường về nước.
Tháng 9 mùa thu Quý Sửu về đến kinh đô Phú Xuân.
Sứ bộ được vua Càn Long và triều đình trọng đãi. Sứ bộ được xem hí kịch, ban thưởng vật báo, mỗi ngày thực phẩm ba lần, suốt tuần ca nhạc, yến tiệc. Vua Càn Long làm thơ, viết văn vào thiếp ban cho.
Đọc biểu báo tang vua Càn Long phê: “Đáng tiếc”, vua tặng một tấm lụa quý “đại cát đạt “của người Mãn Thanh, và ba nghìn lạng bạc để làm chay. Vua phong ngay cho vua Cảnh Thịnh Quốc Vương.
Cuộc đi sứ này được Ngô Thì Nhậm chép trong Hoàng Hoa đồ phả.
“Sứ bộ đi qua các đất Việt, Sở, Tống, Ngụy, Trịnh, Triệu, Yên tính dài đến hơn một vạn hai ngàn hai trăm dặm (khoảng gần 6000 km) kể cả đường về tăng gấp đôi, ngày đêm rong ruổi không lúc nào nghỉ ngơi..
Trên đường đi phàm những nơi núi sông hiểm yếu, dịch quán dừng chân, những di tích của người xưa, những cảnh người nay trông thấy, nhất nhất đều vẻ lại rồi đem những vần thơ đã làm được, cùng những điều ghi chép được trên lầu vách, bia ký, chép lại ở phía trên bản đồ, để sau này có ai vào công việc ấy có thể lấy đó làm kim chỉ nam cho đường đi sứ chăng ? “
Ngô Thì Nhậm tự là Hy Doãn, hiệu Đạt Hiên, khi nghiên cứu thiền học có danh hiệu là Hải Lượng, sinh năm 1746 nguyên quán làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Đông. Con quan Ngự Sử Ngô Thì Sĩ, một gia đình đại thế tộc nhiều đời đỗ đại khoa, nhận tước lộc cao nhất triều đình. “Gia tộc họ Ngô một bồ Tiến sĩ,”
Năm Ất Dậu 1765 ông đỗ đầu kỳ thi Hương,
năm 1769 đỗ khoa sĩ vọng được bổ làm Hiến sát phó sứ Hải Dương.
Năm 1775 ông đỗ tiến sĩ được bổ làm Hộ Khoa cấp sự trung rồi thăng Giám sát Ngự sử đạo Sơn Nam, sau đổiu làm Đốc đồng Kinh Bắc.
Năm 1780 xãy ra vụ án Trịnh Tông, ông được thăng Hữu thị lang bộ Công. Thân phụ mất ông xin về chịu tang tránh sự dèm pha dư luận.
1782 chúa Trịnh Sâm mất, kiêu binh nổi loạn ông trốn tránh về quê vợ ở Sơn Nam suốt 6 năm.
Năm 1788 Nguyễn Huệ ra Bắc lần II, ông được Trần Văn Kỷ tiến cử. Nguyễn Huệ trọng dụng phong ông làm Tả Thị lang Bộ Lại, tước Trình Phái hầu. Trong giai đoạn giúp vua Quang Trung tài năng ông được phát huy cao độ trên các lãnh vực chính trị ngoại giao. Ông được thăng chức Thượng Thư bộ Binh. Nào ngờ chưa đầy 4 năm vua Quang Trung mất đột ngột sau một cơn bệnh. Ông được triều đình cử làm Chánh sứ đi báo tang và cầu phong vua Cảnh Thịnh.
Tình hình chính trị rối ren triều Tây Sơn, năm 1796 ông rút lui về dinh cũ của cha tại Bích Câu lập thiền viện, em rễ là Phan Huy Ích lập Bảo Chân quán. Ông viết Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh và Cúc Thu Bách Vịnh gồm 50 bài Ngô Thì Nhậm xướng họa với 50 bài Phan Huy Ích.
Năm 1802 triều đại Tây Sơn sụp đổ, vua Gia Long từ Phú Xuân ra Bắc cùng Nguyễn Nể, ông được gọi đến cùng Phan Huy Ích dò xét ý kiến hỏi việc đi sứ, nhưng vua Gia Long chỉ dùng em con họ là Ngô Thì Vị , Phan Huy Chú, Phan Huy Vịnh. Nguyễn Du, Nguyễn Ức.
Sau đó không lâu ông bị Đặng Trần Thường, Binh Bộ Thượng Thư triều Gia Long vì có thù riêng, đem ra kể tội và đánh tại Văn Miếu cùng Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan.. Sau trận đánh ông về nhà không lâu thì mất năm 1803 hưởng dương 57 tuổi.
Ông để lại đời các tác phẩm: Nhị thập nhất sử toát yếu, Bút Hải Tùng đàm, Ung văn nhàn vịnh, Ngọc đường xuân khiếu, Cúc hoa thi trận, Thu cận dương ngôn, Cẩm đường nhàn hoài, Hoàng hoa đồ phả, Hàn Các Anh hoa, Kim mã hành dư, Xuân thu quản kiến, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh đều là những sách giá trị trong văn học cổ nước ta.
Trong bài này tôi xin dịch lại thơ đường luật, phú các bài thơ đi sứ của Ngô Thì Nhậm để tìm hiểu con đường đi sứ của nhà thơ hàng đầu nước ta, mà tiếc thay toàn bộ sáng tác bằng chữ Hán, thế hệ chúng ta ngày nay đọc các bản dịch nghĩa như đọc thơ người ngoại quốc, không thấy được cái hay của một thi tài danh tiếng thời Tây Sơn.
Đến Lạng Sơn, trước khi qua cửa ải ngày 27 tháng ba. Ngô Thì Nhậm làm hai bài thơ : Núi sông hai xứ Lạng. Lạng Sơn và Lạng Giang (nay là Bắc Giang) bờ cõi tiếp nối. Thông với Kinh Châu, Quảng Đông, Quảng Tây , nối liền hai xứ Cao Bằng và Tuyên Quang. Tranh đổ ra biển dòng khe chảy xiết. Vươn thẳng lên trời, đường núi thang treo. Hòn đá tướng Minh Liễu Thăng còn hằn vét chém. Hòn đá tại đèo Yên Ngựa, tương truyền Lê Lợi chém Liễu Thăng nơi đây. Tương truyền hồn Liễu Thăng thành hòn đá không đầu có hằn vết chém. Ngô Thời Vị em Ngô Thì Nhậm, 17 năm sau năm 1807, khi sứ qua đây có làm bài thơ về hòn đá Liễu Thăng. Khói đền tướng Hán Mã Viện tỏa chặt không qua được ải Quỷ Môn Quan. Nam Bắc sau khi mở thông cửa ải, có người dẫn đường đưa xe sứ tới Yên Kinh. Mỗi đoàn sứ sau khi qua cửa ải, vật quà cống phẩm được quan nhà Thanh mở ra xem xét ở đài Chiêu Đức và đóng dấu khèn khóa chặt lại. Triều đình nhà Thanh cử ông Vân Trường một vị tướng chỉ huy tiếp đón với quân hộ tống, đưa từ Nam Quan tới Bắc Kinh và đưa về, qua mỗi địa phương có quan cung cấp thuyền bè xe ngựa, phu dịch, bày cổng chào, dịch quán tiếp đón, quân lính canh phòng nghiêm ngặt đề phòng thảo khấu cướp bóc.
ĐƯỜNG ĐI LẠNG SƠN
Bài I
Sông núi Lạng Sơn cảnh nối liền,
Đường thông Kinh Quảng nối Cao Tuyên.
Băng băng khe suối dồn ra biển,
Đường thẳm thang treo vút núi lên.
Hòn đá tướng Minh còn vết chém,
Khói đền tướng Hán, Quỷ môn ngăn.
Sau khi Nam Bắc thông qua ải,
Người đưa xe sứ tới Yên Kinh.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt”
LẠNG SƠN ĐẠO TRUNG
Kỳ nhất
Nhị Lạng giang sơn cảnh giới liên,
Bàng thông Kinh Quảng tiếp Cao Tuyên,
Khê lưu bôn sứ tranh qui hải,
Lĩnh đạo thùy thê trực hướng thiên.
Thần kiếm thượng lưu Minh tướng thạch,
Quỷ môn không tỏa Hán từ yên.
Tự tùng Nam Bắc thông quan hậu,
Chỉ điểm tinh biền đái tự Yên.
Bài hai: Giáp ranh Bắc Lạng có đài tướng Hán, Mã Viện. Cỏ hoang nước đọng ngỡ hạt ý dí rơi. Tương truyền Mã Viện thích hạt bo bo, khi về nước có chỡ theo vài xe ý dĩ là hạt bo bo để dùng. Ông mất, bị người vu cáo là vơ vét chỡ trân châu Giao Chỉ làm của riêng, nên con cháu không dám đem ông về chôn nơi quê quán. Cây cối héo tươi xưa nay vẫn thế. Người qua lại khe núi đông đúc chẳng quen nhau. Đường cái ra đi từ đám cỏ biếc. Ruộng nương bậc thang lộ khỏi tầng mây xanh. Cảnh quan đẹp nhất sắc trời một dãi. Ban đêm trông vòm tinh tú rực rỡ sao Đẩu, sao Thai.
Bài II
Bắc Lạng giáp ranh đền tướng Hán,
Cỏ hoang nước đọng , hạt bo rơi,
Vô cùng kim cổ, cây tươi héo,
Không đổi núi khe người với người,
Từ bãi đường ra, bờ bát ngát,
Trên cao nương ruộng, biếc mây trôi,
Cảnh quan kỳ tuyệt trời xanh thẳm,
Tinh tú đầy đêm rực Đẩu Thai.
Kỳ nhị
Bắc Lạng giao cương Hán tướng đài,
Thác nghi ý dĩ lạc vu lai.
Vô cùng kim cổ thụ vinh tụ,
Bất lão sơn khê nhân vãng lai.
Đạo lộ kiến tòng thanh thảo xuất,
Điên trù vãn lục tự vân khai.
Kỳ quan tối thị trường thiên sắc,
Trung cực kinh tinh huyến Đẩu Thai.
ĐĂNG MẪU TỬ SƠN . Lạng Sơn có hai núi liền nhau gọi là núi Mẹ và núi Con. Cờ sứ buổi sớm lên đường vượt vòm trời cao, mây khói cảnh vật sát trong tầm mắt. Ngọn núi cao sừng sững truyền rằng đó là núi Mẫu Tử. Sông chảy quanh co không rõ nước chảy hướng Đông hay hướng Tây. Ngắm khắp bảy châu không đâu bằng phẳng. cười vui muôn dặm bỗng gặp gió lành. Đục đẽo từ năm nào mà chuyển tới. Muốn rõ nhờ Khoa Phụ hỏi Ngu Công. Khoa Phụ là nhân vật thần thoại có sức lực, thấy mặt trời trước mặt và đuổi theo, giữa đường thấy đầm Đại Trạch dừng lại uống nước, uống xong ngã lăn ra chết.( Sơn Hải Kinh). Tích Ngu Công, nhà ông phía nam Châu Ký có hai núi cao, ông quyết tâm dời núi, có người cười ông nói : “Tôi không làm xong thì có con tôi, con tôi lại sinh cháu, cháu lại sinh chắt, mà ngọn núi thì không cao hơn, sao không san bằng được.”(Liệt Sử)
LÊN NÚI MẪU TỬ
Trời cao xe sứ bước thong dong,
Cảnh vật trong tầm mắt ngắm trông.
Sừng sững núi cao truyền Mẫu Tử,
Quanh co sông chảy chẳng Tây Đông,
Bảy châu nhìn khắp không đâu phẳng,
Vạn dặm cười vui gặp gió trong.
Đục đẽo từ bao giờ chuyển tới,
Muốn nhờ Khoa Phụ hỏi Ngu Công.
ĐĂNG MẪU TỬ SƠN
Tinh mao hiểu phát độ khung lung,
Vạn vật hoành từ chỉ cổ trung.
Điệp trĩ mạn truyền sơn Mẫu Tử,
Hồi lưu bất biện thủy Tây Đông.
Thất châu mãn nhãn cô di địa,
Vạn lý hân nhiên hữu cốc phong.
Khai tạc hà niên di đáo thử,
Dục bằng Khoa phụ vấn Ngu Công.
Cờ sứ ruổi rong đường xa, tạm dừng trên núi Thanh Sơn. Sớm dậy dục tùy tùng đóng yên ngựa. Hình cỏ cây phản phất, bóng hoa thấp thoáng. Núi đồi xen lẫn nhau chim chóc hót véo von. Lầu canh lính thú vừa dứt tiếng trống canh năm. Giấc mộng mây sớm trong xóm hoa còn chưa tàn. Triêu vân là áng mây buổi sớm, tích Sở Hoài Vương đi chơi nơi Cao Đường đầm Vân Mộng, thấy mình giao hoan cùng thần nữ núi Vu Sơn: “Sớm làm mây, chiều làm mưa”, ở đây tác giả chỉ giấc ngủ sum vầy dân chúng trong xóm. Bỗng một vầng đỏ từ đâu nhô lên. Xua tan sương khói, lộ rõ mặt núi non.
BUỔI SỚM ĐỨNG NGẮM TRÊN NÚI THANH SƠN
Tạm dừng cờ sứ trú Thanh Sơn,
Mai sớm dục đoàn ngựa đóng yên,
Phản phất cỏ cây hoa thấp thoáng,
Chập chùng đồi núi tiếng chim muông.
Lầu canh tiếng trống canh năm dứt,
Gối mộng thôn hoa mây sớm vương.
Đỏ chói vầng dương đâu đó tới,
Xua tan sương khói lại xanh non.
THANH SƠN HIỂU VỌNG
Sứ tinh thiều đệ trú thanh san, (sơn)
Tảo khởi thôi đồng sức ngã an.(yên)
Thảo thụ y hy hoa ẩn ước,
Phong loan tùng tạp điểu miên man.
Thú lâu dạ cổ thanh sơ yết,
Hoa ổ triêu vân mộng vị tàn,
Hà xứ hồng luân thôi nhất khởi,
Bát khai yên vụ kiến sơn nhan.
. Ngô Thì Nhậm đi qua cửa ải, các bạn từng đi sứ Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn.. tiễn đưa. Ngô Thì Nhậm làm thơ tặng các bạn: Cờ mao tinh có ngù lông đưa đoàn sứ lên đường. Ngẫng đầu trông con đường mây nghìn núi thẳm. Dương Quan tên một cửa phía Tây Trung Quốc trên đường đi Tây Vực, phía đông nam Nhạn Môn quan đây chỉ Trấn Nam quan. Bờ cõi Trung Quốc xưa giới hạn đến núi Ngũ Lĩnh. Uy đức bản triều tràn ngập cả cõi xa. Đạo vua sòng phẳng, đường lối không thiên lệch. Người bề tôi có tấm lòng trung chính bền vững sẽ vượt mọi gian nan. Lọ phải rót chén rượu tiễn khi lên đường. Tại cửa ải quan này các bạn từng cưỡi xe sứ đi rồi lại về.
QUA CỬA ẢI LÀM THƠ LƯU TẶNG CÁC BẠN
Phất phơ cờ sứ vượt Dương Quan,
Ngoãnh lại đường mây núi chập chùng.
Trung Quốc cõi xưa ranh Ngũ Lĩnh,
Bản triều uy đức đến muôn trùng.
Đạo vua rộng phẳng đường không lệch,
Thần tử trung trinh vượt hiểm nan.
Chẳng phải biệt ly nâng chén rượu,
Ải quan các bạn đã từng sang.
QUÁ QUAN LƯU TẶNG CHƯ CÔNG
Mao tinh liệp liệp xuất Dương Quan,
Nhương phủ vân trình bát vạn san.(sơn)
Trung thổ đề phong cương Lĩnh kiệu,
Bản triều uy đức dật khu hoàn.
Đãng bình vương đạo tuân vô trắc,
Trinh cố thần tâm lợi khắc gian.
Bất dụng lâm kỳ châm biệt tửu,
Chư quân tằng thử cận thiều hoàn.
Thành Thụ Hàng trên đường qua Mạc Phủ, nơi Tôn Sĩ Nghị từng đóng binh, cách Nam Quan hai mươi dậm vào tới Bằng Tường. Thành Thụ Hàng cũ nguyên là bờ cõi nước ta. Núi non giống như Lạng Sơn nhưng khe suối ít hơn. Mốc đá gọi là mốc Hạ thạch dậm đường cũng khá dài. Mốc đá Hạ Thạch trên đường Lạng Sơn đi Bằng Tường, nay nằm trên đất Trung Quốc. Vũ Huy Tấn đời Tây Sơn có làm bài thơ về mốc đá này tương truyền đó là trụ đồng Mã Viện phân định biên giới, có ghi: “Trụ đồng chiết Giao Chỉ diệt”. Trụ đồng ngã nước Giao Chỉ bị diệt vong, vì thế nên mỗi người Việt đi qua, đều bỏ một viên đá nên lấp cả trụ đồng. Xe nước chuyển trục bên bờ sông ầm ầm như tiếng sấm. Đài hỏa hiệu trên đường, tàn bay như tuyết rơi đầy sở canh. Tại Trung Quốc ngày xưa cứ 10 dặm hoặc 3, 4 dậm có xây đài hỏa hiệu bằng gạch trên nhọn dưới vuông, đốt lửa trộn phân chồn khói bốc thẳng lên cao, khi có cấp báo các phong hỏa đài nối nhau đốt lửa truyền tin đến kinh đô. Một vị đô thống xin hàng còn ra trò trống gì ? Đây chỉ Mạc Đăng Dung, chức vụ nhà Minh phong An Nam Đô Thống sứ tư đồ thống sứ. Khiến nghìn đời sau người ta còn nguyền rủa đất Nghi Dương, tỉnh Kiến An quê hương Mạc Đăng Dung.
THÀNH THỤ HÀNG
Đường qua Mạc Phủ tới Bằng Tường,
Thành Thụ Hàng xưa ấy cố cương.
Núi tựa Lạng Sơn nhưng ít suối,
Đá ghi Hạ thạch dặm đường trường.
Thủy xa chuyển trục ầm ầm sóng,
Lửa hiệu tàn bay tựa tuyết sương,
Đô Thống xin hàng trò tủi nhục,
Nghìn sau nguyền rủa đất Nghi Dương.
THỤ HÀNG THÀNH
Lộ kinh Mạc phủ nhập Bằng Tường,
Cố Thụ Hàng thành thị cố cương,
Sơn tự Lạng Sơn, khê giáo thiểu,
Thạch xưng Hạ thạch lý thiên trường.
Thủy xa chuyển trục lôi thiên ngạn,
Hỏa hiệu tiêu đài tuyết mãn đường.
Đô thống hành thành thành thậm sự,
Linh nhân thiên tải mạ Nghi Dương.
Ngày giỗ thân mẫu, đầu canh năm, Ngô Thì Nhậm đặt hương án trong thuyền hướng về phương Nam bái vọng. Từ ngày mẹ mất đến nay đã ba kỷ, (một kỷ 12 năm, ba kỷ 36 năm). Kẻ du tử đến nay tóc đã lốm đốm. Ngoài nghìn dặm chỉ có thể ngữa trông vầng nhật nguyệt. Một thìa canh cúng mẹ khôn dễ rút ngắn quan san. Trên bến sông bờ bãi quanh co bao bọc. Mơ màng như mặc áo xiêm cúng tế nơi nhà thờ tự. Trông ngóng mộ mẹ cây tùng bách lên tươi tốt. Theo gia phả họ Ngô Tả Thanh Oai, mộ của thân mẫu Ngô Thì Nhậm được đặt tên là Nhân Phần. Thực nhờ tiên ấm hộ trì tốt lành trở về.
TRÊN BẾN NAM NINH CẢM HOÀI
Ba kỷ từ xa khuất mẹ già,
Người đi tóc bạn điểm sương hoa.
Ngưỡng trông nhật nguyệt từ nghìn dậm,
Cúng mẹ thìa canh tự chốn xa.
Bờ bãi bên sông quanh quất bọc,
Mơ màng xiêm áo tế quê nhà.
Nhân Phần tùng bách xanh tươi tốt,
Cầu mẹ bình an ban phúc ta.
NAM NINH CHU THỨ CẢM HOÀI
Tự lai, tam kỷ cách từ nhan,
Du tử như kim phát dĩ ban.
Thiên lý chỉ kham chiêm nhật nguyệt,
Nhất đề na đắc súc quan san.
Tầm giang khâm đái loan ao xứ,
Thanh miếu y thường mộng mị gian.
Cảnh ngưỡng Nhân Phần tùng bách mậu,
Thực bằng tiên ấm bảo khan hoàng.
Bài phú Ngỡ là tuyết hay trăng của Ngô Thì Nhậm là một bài thơ hiếm có trong thi ca Việt Nam tả cảnh tuyết, một sứ thần Việt Nam thấy cảnh tuyết rơi trên đường đi sứ. Do việc báo tang phải ra đi gấp rút trong mùa đông giá lạnh, không thể đợi qua tháng nóng. Từ trong xe nhìn ra ngoài trời ngỡ ngàng không biết đêm tối hay sáng ngày, nhìn lên bầu trời cả sao hôm sao mai đều biến mất, cây cỏ núi cao bao phủ chập chùng một màu trắng xoá. Đêm dài chưa dứt canh ư ? sao đã nghe chim chóc hót. Hay trời vừa rạng sáng ư ? sao đường Bản kiều vắng lặng không một bóng người .(Bản kiều là đường đi qua các làng người miền núi) Nghi hoặc là tuyết hay là ánh trăng, ông kêu người đánh xe mà hỏi, người này trả lời khó nghe, Ngô thì Nhậm đành tự hiểu. Ông đặt những câu hỏi theo Khuất Nguyên, theo quan niệm Hình Nhi Thượng của người xưa: Xưa đời hồng hoang vũ trụ còn chưa phân chia. Dưới đất ai tạo thành sông núi. Trên trời ai bày ra sao mây ? Ở giữa lấy gì làm vật ? Lấy hình gì mà làm người ? Lại sao chia trên, dưới và ở giữa ? Khiến cho muôn vật đều họp thành từng loài và chia thành từng đàn ? Cái ” lý “ấy sao mà ngô nghê khó giải ! Cái “khí” ấy sao mà hổn độn không phân ? Sao có cuộc lợi danh đua đuổi nhau ? Ai là người sơ, ai là người thân ? Sao có cuộc đưa đón nhau phiền phức ? Ai là người giả dối, ai là người chân thật ? Từ khi có thuyền có xe đường giao thông rộng ra. Mới phân biệt đây là dòng Miêu (người Tam Miêu, người Mèo vùng Tây nam Trung Quốc, vì họ đi đường núi thoan thoát như mèo,) kia là dòng Huân, (dòng Hung Nô phía Bắc Trung Quốc).Vừa có cuộc chiến tranh dáo mác sát phạt nhau. Nay lại bày lễ ngọc lụa hòa hiếu với nhau. Rồi trên đường dài muôn dậm đi sứ mới phải qua ba lần dịch, đời Chu Thành Vương, xứ Việt Thường đem cống bạch trĩ, ngôn ngữ bất đồng phải qua ba lần phiên dịch mới hiểu nhau và gióng ngựa tốt đi sứ. Nơi nào có vết chân người là đều có cuộc lặn lội xông pha bụi hồng. Thế thì còn nghi ngờ gì tuyết hay trăng, và suy tính đêm khuya cùng tảng sáng. Chỉ nguyện tấm thân này luôn luôn mạnh khỏe. Bắc chước xe họ Cừ Bá Ngọc quan đại phu nước Vệ, giữ lễ ngay cả đêm tối để ruổi rong yên ổn trên dặm trường. May ra việc đi sứ không mắc phải lỗi lầm. Để chút đền đáp cái ơn trời cao. Chờ ngày qui lai sẽ sum vầy trong hội Bạch Liên thi xã như Tuệ Viễn cao tăng chùa Đông Lâm núi Lư Sơn hội 123 thiền sư và danh nho ngâm vịnh. (Ngô Thì Nhậm thực hiện điều này về sau lập thiền viện tại Bích Câu, xưng danh Hải Lượng thiền sư viết Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, quy tụ giới sĩ phu Bắc Hà đương thời). Học làm dân ở đất Hữu Sằn như Y Doãn hiền thần nhà Thương khi chưa giúp vua Thang cày ruộng vui thích đạo Nghiêu Thuấn.
BÀI PHÚ NGỠ LÀ TUYẾT HAY TRĂNG
Man mác một màu ta nào biết ảnh hình gì chừ !
Đêm tối hay sáng mai ?
Ta muốn nhìn lên bầu trời thì chừ,
Sao hôm sao mai đều biến mất.
Ngoảnh nhìn núi cao trước mặt chừ,
Cây cỏ bao phủ chập chùng màu trắng móc.
Há phải đêm dài chưa dứt canh ư ?
Sao đã vang vang chim chóc hót,
Hay trời vừa rạng sáng chừ ?
Sao đường Bản Kiều chẳng thấy bóng ai ?
Ta nghi là tuyết hay trăng chừ,
Liền gọi người đánh xe mà hỏi lời,
Nhưng tiếng nói nghe chừng khó hiểu chừ,
Tay chỉ trỏ, miệng líu lo hoài,
Thôi thì lòng ta tự hiểu chừ !
Xưa thuở hồng hoang vũ trụ chưa phân chừ,
Ai tạo núi sông dưới đất chừ,
Ai sắp tinh vân trên trời cao,
Ở giữa lấy gì làm vật chừ ?
Lấy gì mà tạo nên con người ?
Lại phân trên dưới ở giữa chừ,
Muôn vật chia đàn và hợp loài.
Lý ấy ngô nghê khó giải chừ.
Khí ấy sao hổn độn khắp nơi.
Sao có lợi danh tranh đua chừ ?
Sơ là ai mà thân là ai ?
Đưa đón làm chi phiền phức chừ ?
Ai người giả dối ai chân thật ?
Từ thuở thuyền xe giao thông chừ !
Dòng Miêu, dòng Huân biệt giống nòi.
Giáo mác sát phạt giết nhau chừ.
Ngọc lụa hòa hiếu bày lễ tân,
Đường dài ngàn dậm ruổi rong đi.
Rong ngựa vượt ngàn sóng dặm băng.
Xứ sở nơi nào vết chân người.
Sương xanh, bụi hồng lặn lội hoài.
Vậy còn nghi gì tuyết hay trăng chừ.
Là ngày là đêm suy tính hoài.
Chỉ nguyện thân này luôn mạnh khỏe,
Bắt chước xe Cừ rong ruổi thảnh thơi.
May ra việc sứ không lỗi lầm,
Chờ ngày quy lai Bạch Liên Xã,
Làm dân đồng Sằn cày thảnh thơi.
TUYẾT NGUYệT NGHI PHÚ
Nhất sắc phân phân, ngô bất tri kỳ hà vi hề.
Tiêu dữ thần.
Ngô dục quan kỳ thái hư hề.
Trường canh dữ khải minh, nhi câu dân.
Chỉ tiền sơn nhi thí chiêm hề.
Thảo thu đôi bạch dĩ luân huân.
Khởi trường dạ chi vị ương hề.
Hồ vi hồ điểu thanh ước lược tương văn.
Tương thanh thần chi sơ hy hề.
Hồ vi hồ Bản Kiều quýnh bất kiến nhân.
Dư hữu nghi hồ tuyết nguyệt hề,
Hoán dư giả nhi tư tuân.
Nãi thù ly chi bất biện hề,
Thủ chỉ nhi khẩu vân vân.
Hành độc hội ư dơ tâm hề
Vũ trụ hồng hoang chi vị phân hề,
Hạ thùy vi xuyên nhạc hề,
Thượng thùy vi tinh vân ?
Trung dĩ hà trạng vi vật hề,
Dĩ hà hình vi nhân ?
Hựu hà vi hồ thượng hạ trung hề,
Sử loại tụ nhi quần phân ?
Thị “ lý” để không đồng hề,
Thị “khí” để hồn luân ?
Hà danh lợi chi tương trục hề,
Thục vi sơ nhi vi thân ?
Hà tống nghinh chi tương phiền hề ,
Thục vi ngụy nhi vi chân ,
Tự chu xa chi ký trần hề,
Bỉ vi Miêu nhi thử vi Huân ?
Ký mâu kích chi tương tầm hề,
Nải ngọc bạch chi tương lân.
Thủy hữu vạn thiên lý chi tu đồ hề,
Trùng tam dịch nhi sách hoa nhân.
Cẩu nhân tích chi sở đáo hề.
Giai khả lý thanh sương nhi đạp hồng trần.
Hựu hà nghi kỳ tuyết nguyệt hề,
Kế hiệu thâm tiêu chi dữ đại hân.
Nguyện cường khang hồ thử thân hề.
Hiệu Cừ xa chi lân lân.
Hạnh tư tu chi vô cừu hề,
Kỳ thiểu đáp phù hồng quân.
Phú Liên Xã chi qui lai hề,
Hiêu hiêu nhiên hy Sằn dã chi thiên dân.
Buổi sớm thuyền khởi hành ở Tuyền Châu. Tuyền Châu tên một châu ở phủ Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây. Nhìn chim âu bơi lênh đênh giữa dải Trường giang. Vụt bay đi không nhớ là bãi nào. Lục xục réo bên thuyền, dòng sông nổi sóng chảy gấp. Bập bềnh xô mạn thuyền, tiếng thác chảy qua đá kêu sầu. Khi thuyền đi giữa sông, nghe dưới đáy nước có tiếng kêu lục xục. Đó là tiếng những hòn đá bị dòng nước cuốn mạnh mà chuyển động. Cuộc thế đầy vơi luân chuyển, há phải sự bỗng dưng. Cơ trời khép mở dường có an bài, không thể mưu cầu được. Mấy quyển đồ thư (sách vở văn học), tạm làm thú tiêu khiển. Lòng ta như chiếc thuyền không, chẳng lo gì nghiêng đổ hiểm nghèo. Sách Trang Tử, chương Dịch sở : “Dĩ trung tín nhi tế nạn, nhược thừa hư chu dĩ thiệp xuyên.” Lấy đạo trung tín mà vượt qua hoạn nạn, khác nào cưỡi chiếc thuyền không mà vượt qua đòng sông.
BUỔI SỚM THUYỀN KHỞI HÀNH Ở TUYỀN CHÂU
Chim âu trôi nổi giữa trường giang,
Một thoáng vụt bay chẳng bãi ngàn.
Nước cuộn xô bờ ghềnh sóng dạt,
Dội thuyền qua đá thác sầu vang,
Đầy vơi sự thế ai người hiểu,
Khép mở cơ trời mưu chẳng bàn,
Mấy quyển đồ thư khuây khỏa đọc,
Lòng ta thuyền rỗng chẳng lo toan.
TUYỀN CHÂU TẢO PHÁT
Trường giang phiếm phiếm thủy trung âu,
Khoảng khắc phi bôn bất ký châu.
Đấu ngạn cổn lai thoan thế cấp,
Lược chu luân khứ trách thành sầu.
Doanh hư lưu động phi vô sự.
Hấp tịch an bài bất dụng mưu.
Sổ quyển đồ thư liêu giải thích,
Na quan khuynh hiểm đáo hư chu.
Lệ Giang còn gọi là Tả Giang một con sông tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tôi đã đi thăm vùng này năm 2009, vùng Quế Lâm nổi danh Trung Quốc : “Quế Lâm cảnh đẹp nhất trần gian “, phong cảnh rất giống miền Bắc Việt Nam, làng mạc với lũy tre xanh, vườn chuối, ao sen, nhà nào cũng có hai câu đối đỏ trước cửa, nông dân cày bừa trên những mảnh ruộng nhỏ với con trâu, cái cày. Hai bên bờ sông Lệ Giang là núi đá vôi chạy thẳng tới Vịnh Hạ Long, phong cảnh tranh thủy mặc vẽ từ các núi đá vôi vùng này. Dân cư 18 triệu người Tráng còn gọi là Nùng hay Nông có chữ nôm riêng, là thiểu số đông dân nhất Trung Quốc. Trên sông họ nuôi giống ngỗng đen để bắt cá. Ngô Thì Nhậm viết : Dãi núi dốc đá dài năm dậm, bờ đê dài mười dậm. Nhà thôn xóm xen lẫn, ẩn trong bụi tre. Chòm cây rợp áng mây chiều, vẳng nghe tiếng chim hót. Quanh bến đò xưa thường thấy từng bầy cá dỡn bên thác đá lạnh. Đoàn chèo thuyền hò đua nhau, nhiều tiếng người Ngạn. Trung Quốc còn gọi người Miêu là người Ngạn. Bán cũi đổi gạo phân nửa người ăn mặc sắc áo Nùng. Nước sông Lệ chảy xiết, thuyền sứ vượt sông rất mau lẹ. Tưởng như cưỡi chiếc bè sông Ngân có ánh sao Bắc Đẩu lấp lánh. Tích Trương Tịch cỡi bè ngược sông Hoàng Hà đi sứ sang Tây Vực (đến A Phú Hãn ) đời Hán.
NHÀN VỊNH CẢNH SÔNG Lệ
Núi dài năm dặm đê ngàn trùng,
Xóm nọ nhà kia tre trúc lồng.
Cây rợp ngàn mây chim chóc hót,
Giỡn bờ thác đá cá tung tăng.
Thuyền đua hò hét lời dân Ngạn,
Gạo đổi cũi rừng áo kẻ Nùng.
Thuyền sứ vượt dòng sông Lệ xiết,
Ánh sao Đẩu ngỡ vượt sông Ngân.
Lệ GIANG NHÀN VỊNH
Ngũ lý huyền nhai thập lý đường,
Thôn lư thác lạc ẩn tùng hoàng.
Mộ vân mật thụ văn đề điểu,
Cổ độ hàn cơ kiến hý phường.
Đấu trạo hô đoàn nhiêu Ngạn lỵ,
Mãi sài hoán mễ bán Nùng trang.
Lệ xuyên thủy cấp thừa lan khoái,
Nghi thị Ngân xa phiếm Đẩu quang.
Sông Ly Giang thuộc tỉnh Quảng Tây, phát nguyên từ Toàn Châu chảy đến Ngô Châu thì hợp dòng với Tầm Giang. Bài Mùa thu đi thuyền trên sông Ly Giang viết : Một núi một sông thay đổi nhau đón tiếp ta. Màu sông sắc núi cùng một vẻ thanh tú. Thu tháng tám lửng lờ làn khói nhẹ. Đêm canh ba đầm đìa hạt sương lạnh. Thuyền bè chật bến, buộc tấm ván dài. Đàn tỳ bà tiễn khách ca hát nơi đoản đình. Cuộc chơi tang bồng vùng vẫy, thường mong ước đến cái đêm thả thuyền trên sông Xích Bích. Một khúc ca Thương lương, rắp những giặt bụi ở giải mũ ta. Sách Mạnh Tử, bài Hữu nhu tử ca viết: ‘Thương lương chi thủy thanh hề, khả dĩ trục ngã anh”. Có em bé hát rằng: “sông Thương Lương nước trong chừ, có thể giặc dải mũ ta”.
MÙA THU ĐI THUYỀN TRÊN SÔNG LY GIANG
Một núi một sông đón tiếp ta,
Màu sông sắc núi vẻ thanh hòa.
Mùa thu tháng tám bay sương khói,
Khí lạnh canh ba sương móc sa.
Ván dài đông chật thuyền neo bến,
Đoãn đình tiễn khách tiếng tỳ bà.
Vùng vẫy tang bồng thuyền Xích Bích,
Giặt mũ Thương Lương một khúc ca.
LY GIANG THU PHIẾM
Nhất sơn nhất thủy diệt phùng nghinh,
Thủy sắc sơn quang nhất dạng thanh.
Đạm đãng khinh yên thu bát nguyệt,
Tư nhương hàn lộ dạ tam canh.
Mê tân kha trạm duy trường bản,
Tống khách tỳ bà xướng đoản đình.
Hồ thỉ tráng du hy Xích Bích,
Thương lương nhất khúc trạc trần anh.
.Bài ngâm mĩm cười . Buổi sáng khởi hành từ thành Nam Ninh tỉnh Quảng Tây. Buổi chiều tối năm nghỉ ở cửa sông Tam Giang, nơi hợp lưu ba con sông Uất Giang, Lãng Giang và Trinh Giang cũng thuộc tỉnh Quảng Tây. Nước mùa thu trong suốt và yên lặng. Sắc núi mùa thu xanh tươi, trông xa thấy rõ. Trên khoảng trời rộng không có khói mây. Dưới làn ao tĩnh lặng ít bụi bậm. Đẩy mui thuyền nhìn xem màu sắc núi non. Ngồi ngẫm nghĩ trước cảnh vũ trụ bao la. Ta đi sứ con đường muôn dậm. Mùa qua mùa lại kể phải ba mùa. Những điều mắt thấy và tai nghe. Cõi Nam cõi Bắc thật là thú vị. Mặt trời, mặt trăng ở chỗ nào cũng là ở giữa. Núi sông tùy mặt đất mà tụ lại. Lời nói đất “ Lạc Dương như lòng đỏ trứng gà “ chia đều là sai. Nguyên chú :” Hoặc nói đất Lạc Dương là giữa cõi đất, như quả trứng gà phân đôi tròng đỏ với tròng trắng. Nhưng đất Hứa Xương chỉ cách Lạc Dương 40 dặm lại không như thế.” Trung Quốc so sánh Trung Châu là vùng các kinh đô cũ Hoa Hạ Trung Quốc trong đó có: Lạc Dương, Khai Phong, Hứa Đô, Hàng Châu.. là vùng tròng đỏ trứng gà. Người Hoa ví nước mình là trung tâm của thế giới nên gọi tên nước là Trung Quốc. Do kiến thức hạn hẹp ngày xưa, nước nào cũng cho nước mình là cái rốn của vũ trụ cả. Lời nói “ba gái một trai “ là lầm. Nguyên chú sách Kiên Hồ tập nói : “Vùng đất Kinh, Dương con trai hai, con gái ba, ngoài vùng Bách Việt thì con gái ba con trai một”, nhưng xét số sinh trai gái của nhân dân thì vùng Yên, Triệu và vùng Sở, Việt đều như nhau cả. Lời nói “man di và Trung Quốc âm dương khác nhau” cũng là lời nông cạn, quê kệch. Xưa nay lẽ trời đều ở tại “lòng người”. Chỉ phong khí có nơi khai hóa trước, nơi khai hóa sau. Nhưng đều biết tôn quân vương, đều biết yêu cha mẹ. Tiếng nói thì âm “dấu “khác mà “thanh” vẫn giống nhau. Mọi kiến thức cũng do một khiếu tâm tình mà ra. Đường hoàng thay Chu Phu Tử, tức Chu Hy danh nho đời Tống. Lời nói một đại hiền thật thấu suốt. Ông khen ngợi những dân tộc miền Tây Nam, có nhiều người giỏi văn tự. Chắc nền văn hiến của họ đã mở mang từ lâu. Há chỉ riêng Trung Quốc mới có tiến hoá sao ? Lời nói thật khoáng đạt rất hợp lòng ta. Ta về bảo với các bạn hữu ta : Chúng ta may mắn được sinh ở nước Nam. Nghiễm nhiên là người lưng đai, dải ấn. Đừng bảo chúng ta kém văn phong Trung Quốc, đất Việt Thường xưa có nhiều bậc “hoàng cẩu “(người già tuổi thọ cao). Đời Chu Thành Vương có họ Việt Thường sang hiến chim trỉ trắng nói là vâng lệnh các bậc hoàng cẩu trong nước, phải qua ba lần phiên dịch mới hiểu nhau. Hãy xem sông Minh Ninh kia, dòng nước cuồn cuộn chảy về đông. Sông ấy bắt nguồn từ đâu ? Từ phương Canh Dậu chuyển sang Ngọ Đinh. Ngọ Đinh và Canh Dậu chỉ hai phương vị tây và nam của Việt Nam. Câu này nói Việt Nam có truyền thống văn hóa, phát triển song song với Trung Quốc.
BÀI NGÂM MĩM CƯỜI
Sáng từ thành Nam Ninh,
Chiều đến Tam Giang Khẩu.
Mùa thu dòng nước trong,
Sắc núi thu xanh thẳm.
Trời xanh không khói mây,
Ao lạnh không bụi vướng,
Đẩy mui nhìn núi xanh,
Trầm ngâm nghĩ vũ trụ.
Đi sứ muôn dậm đường,
Ba mùa qua lại đủ,
Mắt nhìn và tai nghe,
Nam Bắc đều lý thú.
Nhật nguyệt cùng giữa trời,
Non sông mạch hội tụ.
“Lòng đỏ “ chia đều sai,
“Ba gái, một trai “ ẩu,
Di Hạ khác âm dương,
Lời này thật nông cạn,
Lẽ trời ở lòng người,
Phong khí trước sau có.
Cùng biết tôn quân vương,
Cùng kính yêu cha mẹ.
Âm khác thanh giống nhau,
Kiến thức do tâm có.
Chu Phu Tử đường đường,
Lời hiền thật hiểu thấu.
Khen ngợi dân Tây Nam,
Nhiều người giỏi văn tự.
Có văn hiến từ lâu,
Há chẳng riêng Trung Quốc.
Lời ấy thực lòng ta,
Về nói cùng bạn hữu,
May ta sinh nước Nam,
Nghiễm nhiên lưng đai ấn,
Đừng bảo ta văn kém,
Việt Thường nhiều kỳ tài,
Hãy nhìn sông Minh Ninh,
Cuồn cuộn về đông chảy,
Bắt nguồn từ nơi đâu ?
Ngọ Đinh đến Canh Dậu.
HOÃN NHĨ NGÂM
(Ngũ ngôn cổ phong, nhị thập vận)
Triêu phát Nam Ninh thành,
Mộ tức Tam Giang Khẩu.
Thu thủy tối trừng ngưng,
Thu sơn diệc thanh sấu.
Trường không vô vân yên,
Tĩnh đường thiển trần cấu.
Tôi bồng khán thúy vi,
Trẩm ngâm tưởng cao hậu.
Ngã hành vạn lý trình,
Lai khứ tam thời hậu.
Mục đỗ dữ nhĩ văn,
Nam Bắc vô thù thú.
Nhật nguyệt đảo xứ trung,
Sơn hà tùy lý thấu.
“Kê noản bình phân” ngoa.
“Nữ nam tam nhất” mậu.
“Di hạ âm dương phân”,
Thử ngôn thái thiển lậu.
Thiên lý tại nhân tâm,
Dân khí phong tiên hậu.
Giai tri tôn quân vương,
Giai tri thân phụ mẫu.
Âm dị thân tác đồng,
Kiến thức nhất tình đậu,
Đường đường Chu Phu Tử,
Hiền ngôn cực suy thấu.
“Thịnh suy tây nam phiên,
Văn tự đa cao thủ,
Tất hữu khai kỳ tiên,
Bất độc quốc trung hữu.”
Khuếch nhiên dung ngã tâm,
Qui ngô ngứ ngã hữu :
Hạnh tai sinh Nam bang,
Nghiễm nhiên hội thân thụ.
Vật vị ngã bất hoa,
Việt thường hữu “hoàng cẩu.”
Thí khán Minh Ninh giang,
Cổn cổn thủy đông tẩu,
Phát nguyên hà sở tự,
Ngọ đinh chuyển canh dậu.
Từ Tân Chân thuộc Quảng Đông trở đi đường qua các đồi núi, và nhiều khe lạch. Đi giữa dòng sông, mỗi khi nước lũ ở các khe lạch dồn về, dòng sông không chảy thoát kịp, xô vào thác đá, gây thành tiếng sóng ì ầm, ngày đêm không ngớt, nhất là mùa mưa nhiều. Bài Tiếng nước, ông viết : Nước vốn không tiếng mà lại có tiếng. Vì ai mà kêu ầm ỉ trên sông kia. Thuận dòng chảy xuống nguyên vẫn yên lặng. Gặp tảng đá chắn ngang, mới nổi cơn bất bình. Khi chưa trừ được vật chướng ngại nước liền giận dữ. Chỗ có lượng bao dung, khúc sông lớn không tranh giành gì. Người quân tử thái hòa, hãy nên hiểu thấu nội chất. Một làn ánh bạc sông trong suốt tận đáy.
TIẾNG NƯỚC
Nước không tiếng lại reo thành tiếng,
Ầm ỉ vì đâu réo bến sông.
Sông chảy xuôi dòng thường lặng lẽ,
Đá ngăn, dòng xiết bất bình dâng.
Chưa trừ chướng ngại sông cuồng giận,
Khúc rộng bao dung chẳng đấu tranh.
Quân tử thái hoà nên tự hiểu,
Thấu suốt lòng sông bạc sắc trong.
THỦY THANH
Thủy bản vô thanh khước hữu thanh,
Tăng oanh giang thượng vị thùy minh.
Trường lưu thuận chú nguyên thường tĩnh,
Đoạn thạch hoành lan, nãi bất bình.
Ngạch vị khứ thời, ưng hữu nộ,
Lượng năng vô xứ tiện vô tranh.
Thái hoà quân tử tu tiềm hội,
Thấu triệt ngân quang đáo đề minh.
Ngô Thì Nhậm lúc qua phía Bắc thành Ngô Châu có một núi gọi là Cửu Nghi. Ở đây là quận Thương Ngô nhân đó mà biện luận hư thực về chuyện này. Ông chú thích: ‘Thuyết vua Thuấn chết chôn ở Cửu Nghi xuất phát từ thơ Ly Tao của Khuất Nguyên’. Sử ký đời Hán viết: ‘Thuấn chết chôn ở cánh đồng Thương Ngô’, Thạch Lượng Vương (?) biện luận sâu sắc về cái sai của ý kiến trên. Lại theo Anh Đài Yên Thoại của Bùi Quỹ (1796-1861) chú về Cửu Nghi như sau : ‘Tương truyền ở phía Bắc thành Ngô Châu có một núi gọi là Cửu Nghi, Thuấn chết chôn ở đấy, nay xét Cương Mục tập lãm : Thuấn băng ở Thương Ngô, chôn ở Linh Lăng và lời chú nói : Thương Ngô là tên núi, lại có tên là núi Cửu Nghi, ở huyện Ninh Viễn, phủ Vĩnh Châu tỉnh Hồ Nam.. Vả lại quận Thương Ngô là đất Bách Việt cổ, nhà Tần gọi là Quế Lâm, nhà Hán gọi là Thương Ngô, ở ngoài hoang phục mấy nghìn dậm, mà vua Thuấn chỉ đi hành thú đến Hành Sơn, Hồ Nam thôi. Người sau lầm núi Thương Ngô ở Hồ Nam với quận Thương Ngô ở Quảng Tây.
Ông viết: Núi Cửu Nghi chôn vua Thuấn từ lâu đã truyền mối ngờ. Hư thực nên theo sự lý mà suy. Ngoài ngũ phục, ngọc hoàn khuê chẳng phải thuộc đất Việt. Ngoài kinh đô đất vương kỳ ra thì có năm phục mà cuối cùng là hoang phục. Theo thiên Vũ Cống, Kinh Thư thì ‘năm phục’ đến Hành Sơn, ngoài ra là ở hoang phục. Hoàn khuê là thứ hốt ngọc vua ban cho chư hầu cầm lúc vào chầu. Ý nói Ngũ phục vào chầu không có đất Việt (Quảng Đông và Quảng Tây) như vậy làm gì có việc vua Thuấn đi tuần tới Thương Ngô của đất Việt. Bảy tuần nhảy múa là rút quân về. Theo Ngu thư, Kinh Thư, dân Miêu nghịch mệnh, vua sai Vũ đi đánh ba tuần (một tháng) mà chưa được, cuối cùng lui quân, múa ‘can vũ’ (múa lễ nhạc), sau bảy tuần thì Miêu quy thuận. Thế tức là không có chuyện vua Thuấn đem quân ra ngoài hoang phục. Như vậy làm gì có chuyện các vua chư hầu đến chầu Thuấn ở Thương Ngô tận đất Việt ngoài hoang phục, cũng không có chuyện hai bà phi Nga Hoàng và Nữ Anh khóc vua Thuấn nhỏ nước mắt trên cây trúc thành trúc đốm. Đặt ra lời xuyên tạc rất nhảm nhí. Đó là chuyện các nhà nho đời Hán đặt ra để bán sách. Tiền người ta mua sách chỉ để cứu đói các nhà Nho đời Hán.
NGỜ NÚI CỬU NGHI
Vua Thuấn truyền chôn núi Cửu Nghi.
Thực hư theo lý sự mà suy.
Ngọc khuê, Năm phục không quê Việt,
Nhảy múa ba tuần quân rút đi,
Chẳng chuyện Thương Ngô chư chúa đến,
Làm gì trúc đóm khóc bà phi.
Đặt bàn nhảm nhí lời xuyên tạc,
Cứu đói Hán nho sách đặt bày.
NGHI CỬU NGHI
Cửu Nghi táng Thuấn cửu truyền nghi,
Hư thực tu lòng sự lý suy.
Ngũ phục hoàn khuê phi nội Việt,
Thất tuần can vũ thủy ban si.(sư)
Thương Ngô ná đắc triều quản hậu,
Ban trúc hà tầng khấp nhị phi.
Xuyên tạc xuất lai thù mạnh lãng.
Cầu kim chỉ liệu Hán Nho ky (cơ).
Đi trên sông Tiêu Tương . Buông mắt nhìn lên bầu trời, mái chèo nhẹ thả xuôi theo dòng nước. Sông Tiêu, sông Tương rộng dần dần, đến huyện Kỳ Dương và huyện Hành Dương chảy chầm chậm. Phía sau đều là núi Việt thời Chiến Quốc, phía trước mặt là đồi gò nước Sở. Cảnh vật sáng sủa đáng yêu, nhưng làng xóm lại thưa vắng. Chim én làm tổ nơi cửa lầu canh. Cá ẩn mình dưới sàn nhà nhà buôn. Lẽ tẻ thấy trâu cày ruộng, Lờ mờ nhận ra nhà trên đảo giữa sông. Hứng cạn lại rót thêm rượu. Gió lạnh thì ôm bầu rượu ấp. Vang tai nghe oanh hót, kêu hoài xuân sắp tàn. Khắp nơi người ta trồng tùng, tùng sẽ lớn lên vào đầu hè. Ta từ phương Nam đến, nơi quan ải bến đò đều hỏi giấy tờ. Ngày nào đến Trường Sa, trân trọng đến thăm nhà Giả Nghị, chim phượng hoàng bay lượn trên cao nghìn tầm, nơi nào chẳng đỗ được. Sông núi có phụ ông đâu, chỉ sợ chuốc lấy nỗi thổn thức vào mình. Giong ruổi là phận bầy tôi, ở Xích Bích cũng như ở Thạch Cừ (Bài Tiền Xích Bích của Tô Đông Pha). Trên sông có gió mát, tạo hóa vốn để dành. Huyền Hạc đạo nhân đến,(Bài Hậu Xích Bích của Tô Đông Pha) vái chào rất thong dong. Chẳng cần mối sầu Thiếu Du, cỡi ngựa hèn bịn rịn nơi làng xóm. Thiếu Du em họ Mã Viện. Khi Viện đã già còn xin đi đánh giặc, Thiếu Du bảo : “Kẻ sĩ sinh ra ở đời, chỉ cần đủ ăn đủ mặc, ngồi xe gỗ dùng ngựa hèn kéo làm kẻ thư lại ở quận, giữ phần mộ, làng xóm khen là tốt thế là đủ, còn như ước muốn cao xa, chỉ làm tự khổ mình mà thôi.” Việc trong vũ trụ là phận sự của nhà Nho chúng ta. Có khó nhọc mới để lại sự nghiệp. Tâm quý ở chổ không yên, không động. Ý ấy có ông thuyền chài Vũ Lăng đến Đào Nguyên hiểu. (Truyện Đào Nguyên Ký của Đào Tiềm đời Tấn)
THẢ THUYỀN TRÊN SÔNG TIÊU TƯƠNG
Mắt nhìn lên bầu trời,
Chèo lan thả nước trôi.
Tiêu Tương dần dần rộng,
Kỷ Hành chầm chậm xuôi.
Phía sau là núi Việt,
Trước mặt là Sở đồi.
Cảnh vật thật tươi sáng,
Làng xóm vắng tanh thôi.
Cửa lầu canh, tổ én,
Nhà sàn cá ẩn mình.
Lác đác trâu cày ruộng,
Trên đảo nhà xa xăm.
Hứng cạn rót thêm rượu,
Gió lạnh ấp bầu chăn.
Vẳng tai nghe oanh hót,
Kêu hoài xuân sắp tàn.
Khắp nơi trồng tùng bách,
Tùng lớn cao đầu hè.
Ta từ phương Nam tới,
Ải đò hỏi giấy tờ.
Ngày nào đến Trường Sa,
Hỏi thăm Giả Nghị nhà.
Phượng hoàng nghìn tầm lượn,
Nơi nào chẳng đổ sa.
Giang sơn phụ ông đâu,
Sợ chuốc phận tủi sầu.
Phận bầy tôi rong ruổi,
Xích Bích hay Thạch Cừ.
Trên sông có gió mát,
Tạo hóa vốn để dành.
Huyền Hạc đạo nhân đến,
Vái chào rất thong dong.
Chẳng mối sầu Thiếu Du,
Ngựa hèn ở làng xóm
Vũ trụ phận nhà Nho,
Khó nhọc nên sự nghiệp.
Tâm quý ở chỗ yên,
Ngư ông Đào Nguyên hiểu.
TIÊU, TƯƠNG TÌNH PHIẾM
(ngũ ngôn cổ, nhị thập vận)
Tùng mục quan thái hư,
Tiêu Tương thủy tiệm khoát,
Kỳ, Hành lưu chuyền từ.
Hậu đầu giai Việt sơn,
Tiền diện thị Sở khư.
Cảnh vật tối minh mị,
Ấp lý khước tiêu sơ.
Thú điệp muôn lâu yến,
Thương khỏa sàn ẩn ngư.
Đoạn tục kiến ngưu canh,
Vi mang nhận đảo cư.
Thường khứ hoàn thiêm tửu,
Lương sinh phục ủng lô.
Quát nhĩ văn lưu oanh
Khổ khiếu xuân tương trừ,
Mãn nhãn khai tài tùng,
Kế trưởng hạ thiên sơ.
Ngã tòng Nam phương lại,
Quan tân vấn giản thư.
Hà nhật đáo Trường Sa,
Trụng phỏng Giả Nghị lư ?
Thiên nhận tường phượng hoàng,
Hà địa bất phương chư ?
Giang sơn khởi phụ công ?
Ưu ụy đồ hi hư !
Tri khu thần tử phận,
Xích Bích do Thạch Cừ.
Giang thượng hữu thanh phong,
Tạo hoá nguyên trừ tư.
Huyền hạc đạo nhân lai,
Củng ấp thù an thư.
Bất dụng Thiếu Du sầu,
Khoản đoạn hoài cố lư.
Ngô Nho vũ trụ sự,
Cần lao lưu hữu dư.
Thiên quân quý thái nhiên,
Để ý Đào Nguyên ngư.
Theo sông Tiêu Tương đi đến Mịch Giang ông viết bài thơ viếng Khuất Nguyên. Chẳng phải là Hoài Sa mà oán Sở Vương. Hoài Sa: nhớ Trường Sa là một thiên trong Cửu Chương của Khuất Nguyên. Trời kia khó hỏi nên hỏi sông Tiêu Tương. Nghĩ đem miệng lưỡi giúp nước tổ. Tiếc gì lông da mà ở lại trong miếu đường. Thơ “Tích Vãng Nhật” bao lần bi ai cùng dòng nước chảy (Tiếc ngày qua, một thiên trong thơ Cửu chương). Thiên Ly Tao muôn đời viếng những buổi chiều tà.( Thiên Ly Tao, Sở Từ) . Núi Cửu Nghi nếu có gặp vua Nghiêu Thuấn, thì lại có thêm một bề tôi hiền nữa.
ĐIẾU QUAN TAM LƯ ĐẠI PHU NƯỚC SỞ
Chẳng phải Hoài Sa oán Sở Vương,
Trời kia khó hỏi, hỏi Tiêu Tương.
Nghĩ đem miệng lưỡi phò tông quốc,
Đâu tiếc lông da chốn miếu đường.
Tích vãng bao lần thương nước chảy,
Ly tao muôn thuở viếng tà dương.
Cửu Nghi nếu có phò Nghiêu Thuấn,
Thêm một bề tôi bậc thánh hiền.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
ĐIẾU TAM LƯ ĐẠI PHU
Bất thị Hoài Sa oán Sở Vương,
Bỉ thiên nan vấn, vấn Tiêu, Tương.
Nghĩ thương khẩu thiệt phù tông quốc,
Khẳng aí bi mao xử hú đường,
Vqng nhật kỳ hồi bi thệ thủy,
Ly tao chung cổ điếu tà dương.
Cữu Nghi hữu lộ phùng Nghiêu Thuấn,
Tể lễ ưng thiêm nhật khởi lương.
. Ngô Thì Nhậm đi qua huyện Cát Thủy tỉnh Giang Tây, quê hương Văn Thiên Tường, nhìn núi Văn Sơn ông cảm xúc. Văn Thiên Tường được vua Tống đi sứ sang Nguyên (Mông Cổ) để cầu hòa, bị thừa tướng nhà Nguyên giữ lại, Toa Đô dụ dỗ, nhưng Văn Thiên Tường không chịu khuất phục Thiên Tường đóng quân ở núi Ngũ Pha, Trương Hoàng Phạm đến đánh lén bắt được đem về giam ở Yên Kinh. Văn Thiên Tường có làm bài Chính Khí Ca nói lên chính khí của trời đất cùng với người tiết nghĩa đời xưa.(Xem bài cùng tác giả: Nguyễn Du qua sông Hoài nhớ Văn Thiên Trường, có dịch bài Chính Khí ca và các bài thơ khác của ông). Ngô Thì Nhậm viết : Đất sinh vị danh hiền lừng danh tên Cát Thủy. Trời đem chính khí chung đúc vào ngọn núi Văn Sơn. Đỗ Trạng nguyên làm Tể tướng, một thân nặng đạo cương thường. Hoằng Phạm bắt giam, Toa Đô dụ dỗ, sự thế rất khó khăn. Thật đáng lưu danh nghĩa liệt trên sang sử xanh. Văn Thiên Tường có câu thơ: Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh. Người đời tự cổ ai không chết, lưu lại lòng son với sử xanh. Hãn thanh, người xưa khi chưa biết làm giấy dùng thanh trúc xanh hong lửa cho ra mồ hôi rồi viết, chép sử gọi là hãn thanh. Đâu chịu đội mũ hoàng quan để về quê hương trong cảnh an nhàn. Tấm lòng cô trung từ lâu vẫn rọi soi với đất trời. Bọn người đua theo làn sóng thời thế phải biết thẹn mặt.
QUA HUYệN CÁT THỦY VIẾNG VĂN THỪA TƯỚNG
Cát Thủy lừng danh đất kẻ hiền,
Trời đem chính khí đúc Văn Sơn,
Trạng nguyên, Tể tướng lòng xem trọng,
Hoằng Phạm, Toa Đô thế sự nan.
Thanh sử đáng lưu danh liệt sĩ.
Hoàng quan chẳng chịu bước an nhàn.
Cô trung lòng chiếu soi trời đất,
Hổ thẹn xu thời ai thế gian.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
KINH CÁT THỦY HUYệN VÃN VĂN THỪA TƯỚNG
Địa xuất danh hiền xưng Cát Thủy,
Thiên tương chính khí dục Văn Sơn.
Trạng nguyên, Tể tướng cương thường trọng,
Hoằng Phạm, Toa Đô sự thế nan.
Thanh hãn bất phương lưu nghĩa liệt,
Hoàng quan phi cẩu nguyện an nhàn.
Cô trung chiêu yết kiền khôn cửu,
Ba lãng trung nhân nhất nản nhan.
Đình Tỳ Bà ở ngoài thành Cửu Giang, tỉnh Giang Tả, ngay bên bờ sông Trường Giang (Dương Tử Giang) nơi Bạch Cư Dị, còn gọi là Bạch Lạc Thiên, thi hào đời Đường, tiễn khách lúc đêm trăng, gặp người ca kỷ già, nghe tiếng đàn xúc động làm bài Tỳ Bà Hành. Cảnh tơ liễu xanh trên ngôi đoản đình, soi bóng xuống dòng sông buổi trời tạnh. Cảnh sắc nơi này riêng được truyền danh muôn thuở. Vầng trăng bạc còn chứa đựng giọt lệ quan Tư Mã Bạch Lạc Thiên. Ông bị triều đình biếm trích ra làm quan Tư Mã Hàng Châu. Tiếng nước sông vẫn nghẹn ngào với khúc đàn người ca kỷ già. Chiếc thuyền chài đượm làn khói lúc hoàng hôn. Lận đận góc trời xa, xưa nay cùng chung một nỗi niềm cảm khái. Mỗi khi đọc bài hành Tỳ Bà, tâm hồn lại bùi ngùi vô hạn.
ĐỀ ĐÌNH TỲ BÀ
Đoãn đình soi bóng liễu tơ xanh,
Cảnh sắc lưu bao thuở tiếng danh.
Trăng bạc vương sầu Tư Mã lệ,
Sông xanh nức nỡ Lão Cơ đàn.
Mái lầu xanh phủ hoàng hôn đỏ,
Ngư phủ thuyền về sương khói xanh.
Luân lạc chân trời cùng cảm khái,
Tỳ Bà Hành đọc ngẩn ngơ lòng.
ĐỀ TỲ BÀ ĐÌNH
Đoãn đình nộn lục hám tình xuyên,
Độc thiện phong quan vạn cổ truyền.
Nguyệt sắc thượng hàm Tư mã lệ,
Giang thanh trường yết lão cơ huyền.
Thú lâu đê phú tà dương ảnh,
Ngư khả nùng phân bạc mộ yên.
Luân lạc thiên nhai kim tích phát,
Ca hành thời tụng tứ du nhiên.
Vùng giáp giới Vĩnh Châu và Toàn Châu ở rẻo núi hai bên đường, mọc nhiều cây thông, cây bách có biển đề “Vạn tùng sơn giáp đạo”. Núi vạn cây thông bên đường. Núi non vùng Sở, Việt sinh nhiều giống cây thông. Sừng sững đứng hai bên đường, tỏa bóng xanh um. Cây già cao ngất trời, nẩy nở tươi tốt. Cành cứng vươn rợp đất, càng rậm rạp xum xuê. Kết tụ từng khối nhỏ dưới gốc cây nhiều hổ phách quý báu. Thật ra đó chỉ là nhựa thông, rừng thông bị chôn vùi hàng trăm ngàn năm, nhựa thông mới thành ra đá quý hổ phách. Khinh cả sương tuyết da cây cũng thành những điểm vẩy rồng san sát. Ta quý giống cây này có cốt cách ngang tàng độc lập. Không sợ cái uy lực giá rét của mùa đông cuối năm.
NÚI VẠN TÙNG
Sở Việt núi non rợp bóng tùng,
Bên đường sừng sững bóng xanh râm,
Cội già cao ngất trời tươi tốt,
Rợp đất cành vương cứng cáp thân.
Kết tụ gốc cây nhiều hổ phách.
Coi thường sương tuyết vẩy da rồng.
Yêu cây cốt cách ngang tàng đứng,
Chẳng sợ chi trời giá rét đông.
VẠN TÙNG SƠN
Sở, Việt cương loan thịnh sản tùng,
Đinh đinh giáp đạo lục âm nùng.
Tham thiên lão cán phương điều đạt,
Phấn địa trình kha cánh uất thông.
Tụ bảo đoàn đoàn căn hữu hổ,
Lăng sương điểm điểm giáp thành long.
Ái cừ đặc lập ngang chiên cốt,
Bất phạ hàn uy thế hữu đông.
Miếu thờ Chư Cát Lượng tự Khổng Minh, giỏi mưu lược giúp Lưu Bị thời Tam Quốc gây dựng cơ nghiệp nhà Thục Hán, làm Thừa Tướng tước Vũ Hương Hầu, gọi tắt là Vũ Hầu. Miếu thờ ở núi Hồi Nhạn thuộc dãy núi Hành Sơn, trên hữu ngạn sông Tương, thuộc huyện Hành Dương, phủ Hành Châu, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Chim nhạn bay tới đây đậu bãi cát “Bình sa lạc nhạn” rồi quay về lại. Bài thơ viết : Rồng người thác đi lại hiện rồng thần. Khổng Minh khi chưa ra giúp Lưu Bị, ẩn ở Ngọa Long Cương, đất Nam Dương. Bàng Đức Công và Tư Mã Huy giới thiệu Lưu Bị bảo: “Ngoạ Long là con rồng nằm”. Cơ mưu Bắc phạt thâm trầm đường như muốn xua cả bầy trận chim nhạn. Chỉ việc Khổng Minh nhiều lần tiến quân lên phía Bắc đánh nước Ngụy Tào, 6 lần ra quân khỏi núi Kỳ Sơn , mong khôi phục trung nguyên nhà Hán. Chim hồng nhạn, ngỗng trời bay từng hàng có đường lối chỉnh tề. Hình chữ V, con ở giữa thay đổi nhau để chịu sức gió, mùa thu bay từ phương Bắc tới phương Nam, đến núi Hồi Nhạn thì ở lại đó, đợi sang xuân thì bay trở lại phương Bắc. Tác giả trông thấy đàn chim nhạn bay, tưởng đến cơ mưu Khổng Minh muốn xua cả bầy nhạn ra trận. Nổi giận đông chinh còn sót lại cũng toan bắt cơn gió heo may bên sông phải nổi lên. Chỉ việc Khổng Minh làm phép cho gió nổi lên đốt thuyền trận Xích Bích. Đồn phong là trận gió con lợn. Đồn tức giang đồn, loài thú ở sông giống hình con lợn, mỗi khi nó phun nước lên mặt sông, thì sẽ có gió to, nên người lái thuyền thấy nó phun nước thì chuẩn bị tránh gió. Hứa Hồn đời Đường có câu thơ : Giang đồn xuy lãng dạ hoàn phong. Con lợn sông phun nước sóng, đêm lại nổi gió. Trung Quốc ngày xưa có con hyppopotame chăng ? con này ngày nay chỉ thấy ở trên sông Phi Châu. Cái thế chân vạc xưa kia, đã khôn tranh sức với trời xanh. Khổng Minh tạo ra thế chia ba Thục, Ngụy, Ngô thời Tam Quốc nhưng cuối cùng việc thống nhất về tay cha con Tư Mã Ý lập nên nhà Tấn. Ngôi miếu ngất cao tầng mây này còn lòng nào nghĩ đến. Trông bóng cây tùng bách, phản phất ngày vua Thục, Lưu Bị ba lần đến thâm. Làn nước thu đất Hành Dương soi sáng tấm lòng cô trung. Khuynh cái là nghiêng mui xe, dừng xe. “Khuynh cái nhi ngữ” chỉ việc Khổng Tử dừng xe nói chuyện với Trình Tử giữa đường, đây chỉ việc Lưu Bị gặp Khổng Minh.
MIẾU THỜ CHƯ CÁT VŨ HẦU
Nhân long đã khuất hiện Thần long.
Núi đá bờ sông ngóng Hán Trung.
Bắc phạt muốn xua bầy nhạn trận,
Đông chinh nổi giận dậy đồn phong.
Khôn chia chân vạc trời tranh sức,
Miếu ngất tầng mây lòng tưởng lòng.
Tùng bách vẫn thời vua Thục đến,
Hành Dương thu nước, sáng tôi trung.
CHƯ CÁT VŨ HẦU MIẾU
Nhân long hoá khứ hiện thần long,
Tiểu thạch lâm lưu miện Hán Trung.
Bắc hướng trầm cơ khu nhạn trận,
Đông thôn di nộ dịch dồn phong.
Đỉnh phân vô lực tranh thương hiệu,
Miếu tự hà tâm ỷ bích không.
Tùng bách y hy khuynh cái nhật,
Hành Dương thu thủy chiếu cô trung.
Trường Sa thuộc tỉnh Hà Nam, sông Tương chảy qua. Đời Hán đặt tên nước Trường Sa. Giả Nghi thường gọi là Giả Sinh đời Hán tinh thông thi thư giỏi văn từ, năm hai mươi tuổi đỗ Tiến sĩ, làm Thái Trung đại phu. Sau vua cử lên chức Công khanh, bọn đại thần Chu Bột và Quán Anh dèm pha nói Giả Sinh là người ít tuổi, muốn chuyên quyền làm rối loạn chính sự, nên Sinh phải đổi ra làm Thái phó cho vua Trường Sa. Ngô Thì Nhậm viết : Không phải đổi ra đất Trường Sa làm già đời Giả Nghị. Một vua thiên tử chưa lúc rảnh việc, thường ghét sự đổi thay quá vội vàng. (vị hoàng là chưa lúc rảnh việc, ý nói còn nhiều việc khác). Triều Hậu nguyên tuy còn thiếu sót về lễ văn. Việc đổi năm nguyên niên bắt đầu từ đời Hán Văn Đế nên gọi vua Văn Đế là vua Hậu nguyên. Nhà Tuyên thất nơi dành cho các quan Đông các, dâng sách vua đọc, cố vấn nhà vua, trước cung Vị ương của vua. Sau khi Giả Nghị ra Trường Sa. Vua tưởng nhớ cho triệu vào nhà Tuyên thất để hỏi việc. Giả Nghi dâng sớ nói : “Thế sự ngày nay có một việc đáng thương, hai việc đáng chảy nước mắt, sáu việc đáng thở dài”. Nhưng nhà Tuyên thất lại không phải là nơi thương khóc. Chỉ vì tuổi trẻ tính quá hăng hái. Luống để thương tâm đến một chức vụ của mình. Muốn tìm ngôi nhà cũ xưa thăm viếng. Chòm cây bên sông vẫn còn lẫn quất nỗi bất bình. Các sứ thần Việt Nam qua đây đều làm thơ viếng Giả Nghị.
QUA ĐẤT TRƯỜNG SA NHỚ ĐẾN GIẢ NGHỊ
Chẳng chốn Trường Sa, Giả Nghị già,
Đổi thay vua chẳng muốn bày ra.
Hậu nguyên văn tế còn sơ sót,
Tuyên thất ai người nhỏ lệ sa.
Tuổi trẻ hăng say mang chí cả,
Thương tâm chức mọn buộc tình ta.
Muốn tìm nhà cũ xưa thăm viếng,
Cây cỏ bên sông vẫn hận xưa.
QUÁ TRƯỜNG SA ỨC GIẢ NGHỊ
Bất thị Trường Sa lão Giả Sinh,
Vị hoàng thiên tử ố phân canh.
Hậu nguyên tuy khuyết lễ văn sự,
Tuyên thất hoàng phi thống khốc đình.
Tất cánh thiếu niên đa hiệp khí,
Toại giao nhất chức khổ quan tình.
Dục tầm cố trạch lai bằng điếu,
Giang thụ y y thượng bất bình.
Tô Thức tức Tô Đông Pha văn hào đời Tống. Khi bị biếm trích ra Hoàng Châu làm nhà ở đất Đông Pha, nên lấy hiệu là Đông Pha cư sĩ. Mùa thu năm Nhâm Tuất, cùng hai người bạn, Đông Pha thả thuyền chơi đêm trăng bên núi Xích Bích có làm hai bài phú Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích. Ở huyện Hoàng Cương thuộc Hoàng Châu có đình Pha Tiên, nơi kỷ niệm Tô Đông Pha có bình phong khắc hai bài phú này. Ngô Thì Nhậm viết : Trước thường ca ngợi người khách chơi thuyền đêm Nhâm Tuất. Nay được viếng thăm ngôi đình cổ tích ở ngoại thành Hoàng Cương. Trăng trong gió mát dành kho tạo hóa. Thuyền con, rượu đấu (vò) tưởng nhớ dấu thơm. Dung mạo người đạo đức nghìn thu còn in trên vách núi lạnh. Di tác hai bài phú cũng được ghi trên tấm bình phong trong gác vẽ. Nhìn lại lại nơi phẩm đề năm ấy. Chỉ thấy một làn khói sóng lẫn với màu trời xanh.
BUỔI CHIỀU CHƠI ĐÌNH PHA TIÊN
Nhâm Tuất chơi thuyền khách ngợi ca,
Hoàng Cương dấu cũ nay thăm qua.
Trăng trong, gió mát kho tạo hóa,
Đấu rượu, thuyền con nhớ thuở xưa.
Dung mạo nghìn thu non vách lạnh,
Di tác hai bài ghi gác hoa.
Tìm lại nâm xưa ngày phác bút,
Chỉ làn mây khói vẫn vơ qua.
VÃN DU PHA TIÊN ĐÌNH
Diễm đàm nhâm tuất dạ du khách,
Hỷ đổ Hoàng Cương cổ tích đình.
Minh nguyệt thanh phong tàng tạo hóa,
Biên chu đẩu tửu ức phương hinh.
Thiên thu đạo mạo hàn sơn bích,
Nhị phú di văn họa các bình.
Điểm kiểm đương niên đề phẩm xứ,
Yên ba nhất sắc hỗn thanh minh.
Đêm ấy lại qua đò cửa sông Xích Bích.. Bãi cát dài mam mác, lau lách lưa thưa. Bài hát chèo đò lúc trăng lên. Cảm thấy tình tứ mênh mang. Chiến địa Tào Tháo, Tôn Quyền xưa mơ màng trong khói lạnh. Ải sông đất Kinh, Sở đang dâng nước lụt đầu mùa, Sóng bạt cao ngất trời, cánh buồm gió cứng cõi. Đèn đỏ sáng đầy bờ, ngôi thủy đình trông trống không. Sau cuộc chơi của Pha Tiên ai người kế tục. Kìa chiếc thuyền chài cô đơn kia, đang quăng lưới đêm ở đầu ghềnh.
ĐÊM ẤY LẠI QUA ĐÒ CỬA SÔNG XÍCH BÍCH
Bãi dài man mác bóng lau thưa,
Dưới nguyệt mênh mang khúc hát ca.
Chiến địa Tôn Tào chìm khói biếc,
Bên sông Kinh Sở khúc ngâm nga.
Sóng bạc ngút cao buồm gió lộng,
Đèn hồng rực sáng bóng đình hoa.
Pha Tiên sau đó ai người tiếp,
Thấp thoáng ghềnh khuya thuyền lướt qua.
DẠ PHỤC ĐỘ XÍCH BÍCH GIANG KHẨU
Sa chử miên diên địch vĩ sơ,
Trạo ca thừa nguyệt tứ mang như.
Tào, Tôn chiến địa hàn ôn lý,
Kinh Sở giang quan thịnh lạo sơ.
Bạch lãng phù không phong phạm kính,
Hồng đăng mãn ngạn thủy đình hư.
Pha Tiên du hậu tương thùy tục,
Cô đỉnh tiền than kiến dạ ngư.
Nhìn con ngựa trên sườn núi trở về. Ngô Thì Nhậm nghĩ đến thân phận mình vì có chút thiên tư trời ban, như ngựa kỳ, ngựa ký mà phải luôn luôn bận rộn công việc, đi sứ ngàn dậm, không được như các con ngựa ngu si được phúc an khang, suốt ngày vô sự, ăn no lại về chuồng. Ông viết : Ăn no cỏ ngoài đồng nội rồi, chiều tối dẫn thân về chuồng. Khen con ngựa kia, suốt ngày vô sự, coi bộ vui thú lắm. Cũng trời đất sinh ra mà được hậu đãi như thế. Con tạo đâu có một chút thiên tư. Vốn là giống ngựa hèn nên nhiều ngày rỗi. Nếu thực là loài kỳ ký, ít có lúc nhàn. Người đời đừng oán vì thông minh mà lầm lỡ cả cuộc đời. Tô Đông Pha có câu thơ : “Nhân giai dưỡng tử vọng thông minh, ngã vị thông minh ngộ nhất sinh”. Nuôi con ai cũng muốn con thông minh, ta trót thông minh lỡ phận mình. “ Thường thường những kẻ bụng dạ thô tục lại được nhiều sự may mắn an nhàn.
CON NGỰA BÊN SƯỜN NÚI TRỞ VỀ
Cỏ đồng no bụng tối về chuồng,
Vô sự suốt ngày thật rãnh rang.
Hậu đãi đất trời sinh kếp ngựa,
Thiên tư đâu có chút trời ban.
Dòng tầm thường ngựa nhiều khi rỗi,
Giống ký kỳ kia ít lúc nhàn.
Chớ oán thông minh đời lỡ việc,
Ngu si lại được phúc an khang.
SƠN PHA QUI MÃ
Bão thực giao nguyên, bạc mộ qui,
Tiễn cừ vô sự độc hy hy.
Giáng tài nãi hữu giá ban hậu,
Tạo vật hà tằng nhất điểm ty.(tư)
Tự thị nô thai đa hạ nhật,
Nhược giao kỳ ký thiểu nhàn thì.
Thế nhân mạc oán thông minh ngộ,
Đại để thô trường chiếm tiện nghi.
Đường đi sứ ngang qua huyện Thang Âm, tỉnh Hà Nam, quê hương Nhạc Phi. Ông viết : Màu sắc mùa thu đang lấn tới con đường cổ xưa. Khách lại lên yên ngựa, vội vã ruổi rong. Bóng tà dương nhạt nhạc mờ bên sườn núi. Làn gió vàng lạnh lẽo thổi buổi hoàng hôn. Đồng cỏ một dãi màu xanh, trông mờ nơi cuối trời. Rặng liễu ở bờ đê rụng lá. Tàn rữa trong bên nước. Trông con cò bay lượn một mình trên tầng mây. Lòng nhớ quê hương khó mà khuây được. Gió mùa thu, mùa thu thuộc hành kim nên còn gọi là kim phong.
DỌC ĐƯỜNG THANG ÂM BUỔI CHIỀU MÙA THU, NGẮM CẢNH ĐỒNG NỘI
Lối xưa thu nắng dội,
Khách lại lên yên cương,
Bóng tà nghiêng dáng núi,
Gió lạnh buổi hoàng hôn.
Cỏ đồng xanh ngút mắt,
Liễu rũ bến đê tàn,
Nhìn cò mây bay mãi,
Lòng chợt nhớ quê hương.
THANG ÂM ĐẠO TRUNG, THU VÃN DÃ VỌNG
Thu quang xâm cổ đạo,
Hành khách xúc chinh an.
Tịch chiếu hàm sơn đạm,
Kim phong bạc mộ hàn,
Dã vu thiên mạt tận,
Đê liễu thủy trung tàn.
Cô lộ vân du khứ,
Hương tâm dục khiển nan.
Qua huyện Yển Thành tỉnh Hà Nam, nơi Nhạc Phi, danh tướng từng thắng quân Kim 126 trận, phá được quân Kim ở Yển Thành và Chu Tiên trấn, có cơ khôi phục được toàn cõi Trung Nguyên, mừng nói với tướng sĩ : “Trực để Hoàng Long phủ, dữ chư quân thống ẩm.” Nghĩa là tiến thẳng tới phủ Hoàng Long cùng các người uống rượu thật say để ăn mừng. Tấm lòng khảng khái hùng tráng muốn uống rượu mừng ở Hoàng Long, kinh đô nhà Kim. Áo giáp, dáo dài gầm thét vang trời.(Đâu mâu là giáo dài, người chiến binh ngày xưa có hai vũ khí chính là mâu để đâm và thuẩn để đỡ, nên có chữ mâu thuẩn. Các bản chú thích đâu mâu là mũ đội đầu không đúng). Các phụ lão hai miền Hà Nam, Hà Bắc đầu đội lò hương và đưa trâu bò, lương thực ra đón quân Nhạc Phi. Tên gian thần Tần Cối chủ trương hòa, bèn giả mạo chỉ nhà vua, trong một ngày phát tới 12 đạo kim bài ra mặt trận, triệu Nhạc Phi về, rồi hạ ngục giết chết tại Phong Ba Đình. Kim bài là bài gỗ sơn vàng viết chữ đỏ, truyền lệnh nhà vua. Bài vàng vâng chiếu chỉ, người anh hùng phải than khóc. Một chữ “ hoà “ lảm u mê vua Cao Tông nhà Nam Tống, trời đã xui nên. Ai cũng tiếc cái chiến công có thể khôi phục được cõi trung nguyên. Bao nỗi phẩn uất còn để lại nơi vẫy vùng cung kiếm xưa. Mấy khóm tùng bách trước sân đang gào gió buổi chiều tà.
ĐỀ MIẾU NHẠC VƯƠNG Ở YỂN THÀNH
Lòng mừng hùng tráng, rượu Hoàng Long,
Giáp trụ dáo dài miệng thét lừng.
Hương đội đón chào mừng phụ lão,
Kim bài đọc chiếu khóc anh hùng.
Trời xui Nam Tống ngu hòa giặc.
Người xót Trung Nguyên tiếc chiến công.
Phẩn uất còn đây nơi chiến địa,
Một sân tùng bách gió chiều phong.
ĐỀ YỂN THÀNH NHẠC VƯƠNG MIẾU
Tráng hoài khảng khái ẩm Hoàng Long,
Thiết giáp, đâu mâu, khiếu xá không.
Hương đính nghinh sư, hân phụ lão.
Kim bài phụng chiếu, khấp anh hùng.
Thiên giao Nam Tống ngu hòa tự,
Nhân vị trung nguyên tích chiến công.
Liệt phẩn do di cung kiếm địa,
Nhất đình tùng bách ván hào phong.
Tại một trạm mai lạnh lẽo, tạm dừng cuộc khách trình. Trạm mai là một trạm trên đường đi sứ, đi sứ còn gọi là hoàng hoa, trạm dừng chân gọi là mai dịch.. Trên cành ngô biếc, nghe tiếng lá xào xạc báo tin thu về. Bích ngô : cây ngô đồng biếc cứ đến mùa thu rụng lá, báo tin mùa thu tới. Sách Hoài Nam Tử viết : Nhất diệp lạc nhi, thiên hạ tri thu. Một lá cây rụng xuống mà thiên hạ biết là tiết thu đã tới. Cây ngô đồng trồng rất nhiều hai bên đường ở Trung Quốc, Tây phương, Canada, mùa thu lá xanh đổi màu vàng đến đỏ. Thu thanh, tiếng thu. Âu Dương Tu đời Tống có bài Thu thanh phú. (Xem bài Nguyễn Du qua mộ Âu Dương Tu, cùng tác giả có dịch nguyên bài phú này. Site tapchivanhoanghean, chimvietcanhnam..) Làn gió sông thoáng đưa, bóng trăng trên sông như dải lụa phẳng chập chờn trước cửa sổ. Vầng trăng biển mới mọc, ánh sáng lạnh như sờ soạn bên gối nằm. Nổi lòng tưởng nhớ, một ngọn đèn chong trên án. Tiếng sáo canh ba từ đâu vọng đến trước lầu. Ai người hát khúc ly câu ngoài xa xa. Ly câu là ngựa đen, một khúc hát khi khách biệt chủ : Ly câu tại môn, bộc phu cụ tồn, ly câu tại lộ, bộc phu chỉnh giá. Ngựa đen ở cổng ngoài, tôi tớ chờ đó rồi, ngựa đen lên đường lộ, tôi tớ cầm cương đợi. Trông ra một làn khói sóng vắng lặng, không sao yên giấc được.
ĐÊM THU Ở QUÁN TRỌ
Trạm mai hiu hắt khách dừng chân,
Xào xạc cành ngô, thu tiếng vang.
Sóng dãi dòng trăng sông ánh lụa,
Bóng soi biển lạnh nguyệt sờ chăn.
Ngọn đèn bên án lòng nhung nhớ,
Tiếng sáo canh ba vọng trước mành
Ai hát ly câu lời vọng lại,
Khói sóng trông xa mộng chẳng thành.
THU DẠ LỮ ĐÌNH
Mai dịch thê lương đậu khách trình,
Bích ngô chi thượng báo thu thanh.
Song hàm tĩnh luyện giang phong bạch,
Chẩm lộng hàn quang hải nguyệt minh.
Án thượng hữu hoài đăng nhất điểm,
Lâu tiền hà xứ dịch tam canh.
Thùy nhân viễn xướng ly câu khúc,
Lao lạc yên ba mộng bất thành.
Đề Miếu Nhạc Phi. Cái sự thế vua Cao Tông chạy qua sông, dời đô đến đất Hàng Châu làm cho tướng quân hổ thẹn. Muốn uống rượu say tại phủ Hoàng Long, có cái khí mạnh xung lên tận sao Ngưu, Đẩu. Đang cơ hội trương cờ báo đền ơn nước. Dân quân và hào kiệt hai miền Hà hưởng ứng hàng trăm ngàn quân, trương cờ có chữ Nhạc, hẹn ngày khởi sự cùng khôi phục đất Trung Nguyên. Nhưng khốn nỗi nhà vua đã can tâm mặc áo gấm mà bỏ quên mối thù rồi. Vua Cao Tông sợ nếu Nhạc Phi thắng, cha và ông là vua Khâm Tông và vua Hy Tông bị giam cầm tại Hoàng Long trở về mình sẽ mất ngôi nên theo Tần Cối, hoà với nhà Kim. Sau khi nhân dân hai miền Hà khóc lóc, thì đến tù trưởng nước Kim reo mừng. Cái tin vui được mùa lại để nỗi sầu cho hai vua Tống. Suốt nghìn năm qua ai đi qua dưới đình Phong Ba. Nhìn bóng hồ Tây Hồ và sắc núi Thê Hà, vẫn cảm thấy mối hận còn dài dằng dặc.
ĐỀ MIẾU NHẠC VŨ MỤC VƯƠNG
Tủi nhục khi vua chạy đất Hàng,
Hoàng Long rượu uống khí ngang tàng.
Trương cờ toan báo đền ơn nước,
Áo gấm mối thù vua đã quên.
Khóc lóc lưỡng Hà, Kim nở mặt,
Được mùa một thuở, Tống tang thương.
Phong Ba nghìn thuở ai qua đó,
Sắc núi bóng hồ hận chẳng quên.
ĐỀ NHẠC VŨ MỤC VƯƠNG MIẾU
Độ Hàng sự thế tướng quân tu,
Thống ẩm Hoàng Long khí quán Ngưu.
Chính hữu yết kỳ kham báo quốc,
Kỳ như ý cẩm dĩ vong cừu.
Lưỡng Hà khóc bãi chư tù hạ.
Nhất nẫm hoan lai, nhị đế sầu.
Chung cổ Phong ba đình hạ quá.
Hồ quang sơn sắc hận du du.
Mộ Tỷ Can ở ngoài thành Vệ Huy năm dậm bên đường có tậm bia đá lớn khắc bảy chữ “Ân thái sư Tỷ Can chi mộ “ Tỷ Can là hàng chú bác vua Trụ, làm quan thái sư. Trụ dâm loạn vô đạo. Tỷ Can can gián luôn ba ngày, Trụ cả giận nói : Tỷ Can tự cho là thánh nhân, ta nghe nói tim thánh nhân có bảy lổ, không biết có thật không ? Rồi giết Tỷ Can mổ xem trái tim. Bài thơ viết : Không nỡ ngồi nhìn sự đảo điên, suy đồi của nhà Thương. Tấm lòng trung tiết như ánh sáng mặt trời, mặt trăng rạng rỡ mà chuyển vòng. Các quan người giả dại, người trốn đi còn ai lo việc tổ quốc. Cơ Tử hàng chú bác vua Trụ can gián không nghe bèn xỏa tóc giả điên dại làm người nô dịch, Vi Tử anh vua Trụ thì mang đồ tế tự chạy đến nhà Chu, để giữ lấy tông thống nhà Thương. Khổng Tử nói : “Ân hữu tam nhân,” nhà Thương có ba người nhân là : Cơ Tử, Vi Tử và Tỷ Can. Can gián thẳng lời, đâu dám phụ nhà vua đương thời. Nếu lổ trái tim bậc thánh nhân không bị mổ xem, Thì áo nhung phương bá nhà Chu cũng đến xếp xó (vì không có cớ chống vua Trụ tàn bạo). Phương bá là trưởng chư hầu một vùng đất phong, đây chỉ Vũ Vương nhà Chu. Trụ phong Văn Vương cha Vũ Vương làm hầu bá phương Tây, còn gọi là Tây bá chuyên việc chinh phạt. Văn Vương chết, Vũ Vương kế vị chức Tây bá. Sau đánh Trụ lập nên cơ nghiệp nhà Chu. Nhung y tức quân phục Kinh thư có câu : “Nhất nhung y, thiên hạ đại định” một tấm nhung y mà thiên hạ đại định. chỉ việc Vũ Vương đánh Trụ.. Di tích sáu bảy đời vua hiền thánh nhà Thương nay đều mai một. Chỉ tấm bia rêu mọc nơi xóm vắng đầu gò, còn để danh tiếng thơm. Mạnh Tử có câu : Do thang chi ư Vũ Đinh, hiền thách chi quân lục thất tác, Nhà Ân từ Thang đến Vũ Đinh, các vua hiền thánh sáu bảy đời dấy lên.
NGÔI MỘ TỶ CAN NHÀ ÂN
Chẳng nỡ nhìn triều Ân đảo điên,
Tấm lòng trung tiết sáng trời trăng.
Điên cuồng, trốn tránh ai lo nước ?
Can gián thẳng lời chẳng phụ vương.
Nếu tim bậc thánh không bị mổ,
Nhà Chu nhung giáp cớ chi hòng,
Tám đời hiền thánh đều mai một,
Bia rêu đầu xóm tiếng còn thơm.
ÂN THÁI SƯ TỶ CAN CHI MỘ
Bất kham điên đảo thị suy Thương,
Trung tiết chiêu hồi nhật nguyệt quang.
Cuồn, độn cánh thùy ưu cố quốc.
Qui châm hà cảm phụ thời vương.
Nhân nhân tâm khiếu phi thường ngược,
Phương bá nhung y thả hối tàn.
Lục thất thánh hiền di tích diểu,
Lũng đầu cô ổ tiểu bi hương.
Hạo thành là một toà thành cổ thuộc tỉnh Hà Bắc. Nguyên chú : Cửa thành có chữ đề : Quang Vũ thụ xích phù cố xứ, nơi Quang Vũ vua trung hưng nhà Đông Hán nhận xích phù khi xưa, lại có tấm bia mờ hết chữ, chỉ nhận được hai chữ “Đông quang” thôi. Xích phục hay xích phù là loại sách sấm ký nhà Hán thuộc “ hỏa” đức, “ Xích” là sắc đỏ của “hỏa”, còn “phục” là ẩn phục, tân sách có hàm ý về nhà Hán. Vương Mãn cướp ngôi nhà Hán, Quang Vũ khởi binh diệt Mãn, khi đến đất Hạo nơi Hạo Thành có người dâng trình lời sấm “Xích phù”, đại ý nói Quang Vũ được mệnh trời mà nổi lên, dựng cơ nghiệp trung hưng nhà Hán. Sau đó Quang Vũ lên ngôi hoàng đế tại Hạo Thành.
Lời sấm “Xích phục” dâng trình, sự việc ấy đã mờ mịt rồi. Một toà thành cổ vắng lậng, cỏ mọc um tùm. Đồn thú tan hoang gạch ngói, nay kể nghìn năm. Lâu đài vang khúc nhạc ca, từng một thời kia. Con đường bụi lầm nơi đất Bắc đã thành lối tắt cổ xưa. Hai chữ triện “Đông quang” còn để rêu mờ trên tấm bia tàn. Đại để cuộc đời thịnh hay suy, đều là sự thế đương nhiên. Chỉ khen cho sợi dây câu trăm thước ở sông Đồng giang còn mãi danh cao. Đồng giang tên sông phía nam huyện Đồng Lư, tỉnh Chiết Giang, nơi Nghiêm Quang câu cá. Nghiêm Quang tự Tử Lăng, người đời Hán bạn cũ Quang Vũ, khi Hán Quang Vũ lên làm vua, Nghiêm Quang đổi họ tên đi ở ẩn, ba lần nhà vua cho sứ đến mời ra, phong quan chức, Quang từ chối lại về câu cá sông Đồng giang và cày ruộng ở núi Phú Xuân bên sông. Lưu Định Chi có câu: “Đồng giang nhất ty, phù Hán cửu đỉnh.” Một sơi dây câu cá ở sông Đồng giang phù trì được chín vạc. Chín vạc đồng tượng trưng cho chín châu, cõi đất Trung Quốc của nhà Hán. Ý nói khí tiết cao thượng của Nghiêm Quang, có thể khích lệ chi sĩ phong, bồi đắp giáo hóa, nhờ đó mà cơ nghiệp nhà Hán được bền vững lâu dài.
THÀNH HẠO
“Xích phục” dâng trình chuyện đã xa,
Một toà thành cổ, cỏ bao la.
Lầu cao gạch ngói nghìn năm đổ,
Khúc hát cung xưa một thuở ca.
Đất Bắc bụi mờ đường lối cũ
Cửa Đông đài cũ bia phôi pha.
Thịnh suy thế sự đời như thế,
Sợi cước Đồng Giang tiếng chẳng nhòa.
HẠO THÀNH
“Xích phục” trình phù sự dĩ phi,
Cổ thành lao lạc thảo uy nhi,
Thú lâu ngỏa lịch kim thiên tải,
Giáp đệ ca chung bỉ nhất thì.
Bắc thượng trần đồ thành cổ kính,
“Đông quang” đài triện ủy tàn bi.
Đại đô thịnh vãn đương nhiên sự,
Khước tiễn Đồng giang bách xích ty.
YÊN SƠN là một núi ở tỉnh Hà Bắc, nơi đây Triệu Khuông Dẫn tức Tống Thái Tổ, một đêm trời mưa tuyết, Thái Tổ vi hành đến chơi nhà Tể tướng Triệu Phổ, đem địa đồ ra bàn tính việc khôi phục lại hai vùng đất U, Yên. Bài thơ viết : Xưa kia Nghệ Tổ trù mưu trong một đêm mưa tuyết. Muốn khôi phục lại hơn mười châu phía trước và phía sau núi Yên Sơn: 16 châu vùng đất U, Yên trước là đất Trung Quốc, sau Thạch Kính Đường (nhà Thạch Tấn thời Ngũ Đại) cắt cho nước Khuất Đan, một nước nhỏ ở phía Bắc Trung Quốc sau gọi là Liêu. Bên giường nằm không cấm được người khác ngủ ngáy. Do chuyện khi Tống Thái Tổ sai Tào Bân đánh Nam Đường, vua Nam Đường sai Từ Huyền đến xin hòa, Thái Tổ nói : “Ngọa tháp chi trắc, khởi dung tha nhân hãn thụy.” Nghĩa là bên giường nằm của mình, không thể để người khác ngủ ngáy, ý nói thiên hạ phải thống nhất làm một. Ở đây tác giả nói Tống Thái Tổ muốn khôi phục lại vùng đất U, Yên thống nhất thiên hạ, không cho người khác ngủ ngáy bên cạnh giường của mình. Cõi đất cũ khó đem của cải thu tính hàng năm mà chuộc lại, Tống Thái Tổ đặt kho Phong Xoang, tích chứa của cải, dự định dùng của này đưa cho Khuất Đan để chuộc lại 16 châu vùng U, Yên nhưng không thực hiện được. Phong cảnh nay cũng như xưa không kể gì thịnh suy. Cuộc đời Nam với Bắc, thường vẫn thay đổi được thua. Ngẫm xem chỉ có đám mây bay kia là tốt hơn cả, lững lơ che phủ cả nghìn ngọn núi, lúc nào cũng tự do.
YÊN SƠN
Nghệ Tổ bàn mưu đêm tuyết mưa,
Yên sơn khôi phục mười châu xưa.
Giường bên khôn cấm người nằm ngáy,
Đất cũ trông mong chuộc lại vừa.
Suy thịnh xưa nay nào kể đến,
Bắc Nam thay đổi được hay thua.
Ngẫm nhìn mây trắng bay vui sướng.
Che phủ núi non trôi lững lơ.
YÊN SƠN
Nghệ Tổ đương sơ tuyết dạ trù,
Yên Sơn tiền hậu thập dư châu.
Bàng biên bất cấm tha nhân thụy,
Cố nhưỡng nan tương tuế tệ thu.
Kim cổ phong quang vô thịnh vãn,
Sóc nam sự cục diệc doanh thâu.
Nhàn khan duy hữu hành vân hão,
Phi tráo thiên phong chỉ tự do.
Trên đường đi sứ nhân ngày sinh nhật cha, Ngô Thì Nhậm cảm tác bài thơ : Xe hạc đã chơi xa làng mây cách biệt. Hạc ngự người tiên cỡi hạc bay lên, người đã khuất, quy tiên. Vân hương là làng tiên Trang Tử có câu : Thùa bỉ bạch vân, chí ư đế hương, Cưỡi mây trắng kia bay tới làng trời.. Không còn các khách văn thân đến dâng chén rượu mừng thọ như trước nữa. Nàng dâu cả ở quê, đang thành kính dâng lễ rau tảo suối nam tại nhà thờ. Giản tảo là rau tảo ở khe suối nam. Kinh Thi, thơ Thái tần : Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân, vu dĩ thái tảo, vu bỉ hàng lạo. Đi hái rau tần ở khe suối nam, đi hái rau tảo ở dòng nước bên đường(hái rau này về cúng tổ tiên). Trai; lòng thành kính. Tông dũ: Tông là nhà thờ dòng họ, dũ là góc tây nam, nơi để thần chủ tôn quí. Thơ Thái tần Kinh Thi: Vũ dĩ điện chi, tông thất dũ hạ, thùy kỳ thi chi, hữu trai quí nữ. Nghĩa là Đặt bày rau tế ở góc tây nam nhà thờ đại tông, ai chủ trì việc này, có người con gái trẻ một lòng thành kính. Câu này tác giả nói ở nhà có cô dâu cả làm lễ tế sinh nhật cho cha. Người con đi sứ chưa có tin cành mai gửi về đất Lũng Đầu. Lấy ý thơ Lục Khải đời Tấn: “Chiếc mai phùng dịch sứ, ký dữ Lũng Đầu nhân.”Bẻ cành hoa mai, gặp người sứ nhà trạm gửi cho người ở Lũng Đầu. (Miền núi hiểm trở miền Thiểm Tây, Cam Túc). Tác giả nói mình chưa có tin tức về nhà, như chưa gửi cành mai đến Lũng Đầu. Tấc lòng hiếu đạo, đối với công đức cù lao như trời đất to lớn. Cuộc sứ trình học hỏi, trải bao đường thủy, đường bộ vội vàng. Non quê muôn dậm luôn luôn hiện về trong giấc mộng. Tại nơi quán trạm, một buổi sớm sợ thấy hơi thu lạnh lẽo.
. GẶP NGÀY SINH NHẬT CHA CẢM TÁC
Xe hạc chơi xa biệt cách mây,
Lấy ai rượu thọ chén dâng đầy.
Rau thơm dâu cả bày mâm cổ,
Cõi ngoài khách sứ vắng tin mai.
Hiếu đạo nhờ công trời biển vọng.
Sứ trình đi khắp núi sông nay,
Quê nhà vạn dậm tìm trong mộng,
Quán khách ban mai thu lạnh bay.
TIÊN KHẢO SINH THẦN CẢM TÁC
Liêu liêu hạc ngự cách vân hương,
Phi phục văn thân hiến thọ trường.
Giản tảo hữu trai, tông dũ phụ,
Lũng mai vô tín sứ tình lang.
Hiếu tư đối việt kiền khôn đại,
Công sự tư chu thủy lục mang.
Vạn lý gia sơn tần nhập mộng,
Dịch đình thiên hiểu kiếp thu lương.
Đến tỉnh Bắc Trực Lệ, nay là tỉnh Hà Bắc. Ngô Thì Nhiệm nhân chuyện học hỏi về nghề nuôi la được béo tốt, giúp đỡ nhiều cho việc chuyên chỡ đồng áng mà muốn viết một bản điều trần dâng vua về việc khoan sức cho dân.
Chú lái kia nuôi la được việc hơn mười người nô bộc. Người nô bộc thường đòi hỏi, rét thường kêu ca. Chú lái dùng la làm bất cứ việc gì. Tải củi, chở nước, chạy hoài trên đường trường. Có khi quqy bqnh xe đá để xay bột lúa mì. Có khi kéo cày bừa cho người nông phu. Mùa hè kéo xe auq đường chân núi nhiều đá cỏi, mồ hôi nhễ nhãi, da lông bụi bám đầy. Thân phục dịch rất là lao khổ. Nhưng chưa bao giờ thấy nó kêu ca vì sự thiếu cỏ rơm. Hãy xem bầy la đều béo tốt. Có phải la sinh ra đã có da thịt béo tốt đâu ? Đó là nhờ chủ nhân nuôi dưỡng có điều độ. Thường chỉ cho la làm việc đến buổi chiều thôi, sau đó tháo dây cương cho la nghỉ ngơi, rồi cho ân đậu lúa trộn với dầu mỡ. Lại cho nầm nghỉ ngơi trong chuồng suốt mấy trống canh. Rồi mới lần lượt theo giờ giấc sắp xếp, rồi mới cho la rong ruổi. Thời trước, tiên vương dùng sức nhân dân cũng phương pháp này. Sao dân khó nhọc mà không oán, có phải bỗng không mà được như thế đâu ? Phàm việc đời hễ có sinh là phải có dưỡng. Người xưa chả từng nói : cỏ, nước, các thức uống phải đầy đủ ư ? Cơm ăn, áo mặc là hai điều căn bản để nuôi dân, dân không đói rét thì đều vui tươi. Người quân tử lo việc nhân ái với dân trước việc quí trọng loài vật. Cao Dao một hiền thần nhà Nghiêu từng dốc lòng bày tỏ cái mưu đồ chính sự với vua Vũ : “Tại tri nhân, tại an dân”. Cốt ở biết người và an dân.(Kinh Thư, thiên Cao Dao mô). Cuộc sứ trình học hỏi này có điều gì sở đắc. Nguyện dâng bảng điều trần nuôi la của người Bắc Trực.
BÀI HÀNH NUÔI LA Ở BẮC TRỰC
Nuôi la được việc hơn mười tớ,
Tớ thường đòi hỏi, rét kêu la.
Sức la dùng mọi việc nhà,
Chở cũi, xe nước chạy xa đường trường.
Quay xe đá để xay bột lúa,
Khi kéo bừa cho kẻ nông phu,
Hè xe qua núi hoang vu,
Mồ hôi nhễ nhãi mịt mù bụi bay.
Thân la phục dịch nhiều lao khổ,
Chẳng kêu ca vì thiếu cỏ rơm,
Bầy la béo tốt cả đàn,
Sinh ra nào có mở màng tốt tươi.
Chủ nhân vốn giỏi chăn nuôi,
Thường thì làm việc ngừng chơi buổi chiều.
Tháo dây cương chgo la ngơi nghỉ,
Rồi cho ăn đậu lúa mở dầu,
Trong chuồng thơi thả canh thâu,
Mới cho lần lượt bắt đầu ruổi rong.
Tiên vương như thế dùng dân.
Dân dù khó nhọc cũng không oán hờn.
Phàm việc đời có sinh có dưỡng,
Có thức ăn nước uống đủ đầy,
Cơm ăn áo mặc hằng ngày,
Dân không đói rét cuộc đời vui tươi.
Nhân ái dân, trước yêu loài vật.
Cao Dao xưa bàn việc yên dân.
Những điều sở đắc sứ trình,
Nuôi la Bắc Trực xin dâng điều trần.
BẮC TRỰC DƯỠNG LA HÀNH
Cừ dưỡng nhất loa thắng thập nô,
Nô cơ tri khiếu, hàn tri hô.
Cừ dụng loa lực vô trạch sự,
Vận sài, cấp thủy, bôn đạo đồ.
Diệc hữu ma miến chuyển luân thạch,
Thả chí hạ sừ bạn canh phu.
Hạ nhật vãn xa thiệp xa lộc,
Hãn lai mao bì triêm trần .
Loa thân phục dịch thậm lao khổ,
Thảo liệu bất văn minh hữu vô.
Tế khan loa quần tổng phì trạch,
Khởi loa sinh lai hảo cơ phu.
Chủ nhân dưỡng loa hữu tiết độ,
Tầm thường hành tẩu đáo nhật bô.
Vị giải cơ mi phóng an dật,
Đậu, mạch đoạn tạp cao du bô.
Phục lịch thư nhàn nhất nhị cổ,
Thứ đệ tựu sách phương trì khu.
Tiên vương dụng dân diệc thử thuật,
”Lao nhi bất oán “ phù khởi đồ,
Đại phàm hữu sinh tu hữu dưỡng,
“Dụ thủy phong thảo” bất vân hồ.
Y thực dưỡng dân đại bản lĩnh.
Dân bất cơ hàn tất hoan ngu.
Quân tử nhân dân tiên ái vật,
Cao Dao cần thỉ “an dân” mô.
Tư tu thử hồi hà sở đắc,
Nguyện thượng Bắc Trực dưỡng loa đồ.
Ban chiều ngồi buồn rót rượu uống, chống cửa sổ lên mà ngắm cảnh. Một vầng trăng tròn với hình ảnh cây quế, đang rọi bóng xuống nghìn dòng sông. Người xưa Trung Quốc nhìn những vết xám trên mật trăng tưởng tượng có cây quế của người tiên nên gọi là quế phách, nước ta là cây đa chú cuội và chị Hằng .Lòng khách bồi hồi muốn dạo chơi trên cầu Lư Câu, bỗng đâu nghe tiếng sáo từ ngôi lầu thanh vắng vọng tới. Lư Câu là tên sông và cũng là tên cầu ở tỉnh Hà Bắc TQ, còn gọi là sông Tang Can hay Vĩnh Định, có cây cầu đá dài xây dựng từ đời Kim. “Lư Câu hiểu nguyệt”, vầng trăng buổi sớm ở Lư Câu là một trong tám cảnh đẹp Yên Kinh.
TRĂNG THU
Nâng chén song chiều rượu giải sầu,
Vầng trăng bóng quế rọi sông sâu.
Bồi hồi khách muốn Lư cầu dạo,
Vọng sáo nhà ai tự mái lầu.
THU NGUYệT
Sầu bả hồ tôn thác vãn song,
Nhất luân quế phách ảnh thiên giang.
Khách hoài dự phóng lư câu bộ,
Hà xứ nhàn lâu địch sổ xoang.
Thu Thủy, Nước mùa thu. Đầm lạnh qua trận lụt, làn nước ánh bạc trong trong suốt. Câu này lấy ý ờ câu thơ Vương Bột, bài Đằng Vương Các : “Lạo thủy tận nhi hàn đàm thanh.” Nước lụt hết mà đầm lạnh trong veo. Lại cả bầu trời lộn bóng dưới đáy, cảnh sắc này vẻ sao cho giống được. Râu tóc bị mối u sầu tới đã đổi màu nhiều. Chẳng mấy khi buồn đi dạo bước buổi chiều ngoài bến hoa thơm.
NƯỚC THU
Đầm lạnh sau cơn lũ nước trong,
Bầu trời lộn bóng vẽ sao thành.
Râu tóc ưu sầu lên sắc bạc.
Buồn khi tản bộ bến hoa thơm.
THU THỦY
Hàn đàm lạo tĩnh thủy như ngân,
Đảo ảnh trường không họa bất chân.
Tu mấn xâm sầu đa cải hoán,
Kỷ kham tản bộ hưởng phương tân.
Bài Cúc Thu. Một giống hoa tiết tháo thanh cao, phá tung trời rét nở ra đầy núi. Điểm riêng cảnh sắc mùa thu, vượt hẳn các loài cây cỏ khác. Sực nhớ vào năm ngoái, ngồi dưới châu hoa bên đông nơi vườn cũ. Đào Tiềm có câu: Thái cúc đông ly hạ hái cúc dưới dậu bên đông. Nhắp chén rượu nhai bông cúc nonm suốt ngày ngàn rỗi.
CÚC THU
Tiết cao xông rét núi hoa đầy,
Điểm sắc mùa thu vượt các loài.
Sực nhớ vườn đông năm ngoái ấy,
Thưởng hoa nhắm rượu suốt ngày dài.
THU CÚC
Cao tiết xung hàn phóng mãn sơn,
Độc siêu quần hủy điểm thu nhan.
Hốt tư cựu tuế đông ly hạ,
Đối tửu xan anh tận nhật nhàn.
Bài Đêm Thu. Khí trời heo hắt, đêm đến lại càng thêm lạnh lẽo. Móc trắng rơi đầy vườn rừng, trăng soi đầy sân. Tiếng ốc thổi não ruột, làm lạnh cả tấm lòng năm canh. Người nằm quán khách không thể nào nghe được khi mối sầu đang nặng bên mình.
ĐÊM THU
Hiu hắt trời khuya hơi lạnh căm,
Trăng soi sân rộng, móc vườn rừng.
Năm canh tiếng ốc lòng thêm buốt,
Người nằm quán khách thấy sầu dâng.
THU DẠ
Nghiêm thiên nhập dạ bội thanh lãnh,
Lộ mãn viên lâm, nguyệt mãn đình.
Hàn ngũ canh tân la giác vận,
Bất kham lữ quán đới sầu thinh.
Tiếng đập vải mùa thu. Tiếng đập vải đêm trăng từ ba nghìn hộ đưa tới. Vang động cả mười hai phố Trường An. Lý Bạch bài Tử dạ ngô ca có câu: Trường An nhất phiến nguyệt, vạn hộ đảo y thanh, Một tấm trăng thanh kinh đô Trường An, vang tiếng đập vải của vạn nhà. Tiếng này chưa chắc đã đến tai người lính thú phương xa. Chỉ nện vào tâm tình nhớ thu của người đi sứ hoàng hoa nằm quán trạm. Hoa dịch, hay mai dịch là trạm dừng chân, lữ quán người đi sứ.
TIẾNG ĐẬP VẢI MÙA THU
Đêm trăng đập vải ba nghìn hộ,
Vang động Trường An chục phố thành.
Có đến được tai người lính thú,
Lòng thu tan nát sứ dừng chân.
THU CHÂM
Thanh tòng nguyệt dạ tam thiên hộ,
Hưởng động Trường An thập nhị nhai,
Viễn thú vị ư năng đáo nhĩ,
Thiên ư hoa dịch đảo thu hoài.
Phòng khuê mùa thu. Mối tình nhớ thương vì ai mà dâng lên nhiều. Gượng tô nét phấn đã tàn, cảm thấy lạnh lẽo như không chịu được. Nhất là người chinh phụ năm lại năm mong nhớ. Biết bao lần lẳng lặng ngồi bói cái hoa đèn kia. Người xưa thắp đèn dầu lạc, đôi khi ánh đèn bùng lên là điềm báo tin mừng. Hoa đăng ngọn đèn kết hoa là điềm báo tin mừng, Thơ Đỗ Phủ: Đăng hoa hà thái hỉ. Hoa đèn sao mừng lắm như thế.
PHÒNG KHUÊ MÙA THU
Vì ai vương vấn mãi tơ tình,
Gượng điểm dung nhan xót lạnh lùng.
Nhất người chinh phụ bao năm nhớ,
Bao lần lẳng lặng bói hàn đăng.
THU KHUÊ
Hương hoài đa thiểu vị thùy tăng,
Cưỡng lý tàng trang lãnh bất thăng.
Tối thị liên niên chinh phụ tứ,
Kỷ hồi mặc tọa bốc hoa đăng.
BÀI NGÂM CÂU DÀI CÂU NGẮN. Anh có thấy chăng. Đám mây ngoải Ngũ Lĩnh, xưa là ranh giới Trung Hoa và Bách Việt, sớm bay chiều lại bay. Tung hoành trên trời cao, không lúc nào nghỉ ngơi. Lại chẳng thấy sông Minh Ninh Giang ở Quảng Tây chảy xuôi xuôi mãi. Băng trên các ghềnh đá xuôi chảy về biển đông. Mây và nước không có lòng gì mà có sức mạnh. Luân lưu vận hành không lúc nào ngơi nghỉ. Lòng vợi sức không phải không có mối tương quan. Cái lẽ ấy tự nhiên dễ ai biết được. Không phải mây muốn cao mà bay trên tầng không. Không phải nước muốn sâu mà xô về biển xanh. Mây và nước không cầu gì, tầng cao và làn sâu, chỉ tùy theo sự đưa tới mà thôi. Không ai làm ra mà như thế, ấy là quyền lực của hoá công. Cái đạo làm tôi phải đi sứ rong ruổi cõi xa cũng cùng chung theo lẽ ấy. Đông, tây, nam, bắc đểu là phận sự thường. Bôn ba việc nước chẳng qua là làm theo lẽ tự nhiên. Không sự yên vui nào có thể cầu được, mà cũng không có sự khó khăn nào có thể tránh được. Suy ra nếu được yên vui thì còn khó khăn gì ? Những người yên vui thường suốt ngày nhàn rỗi. Mỗi khi dạo chơi xem phong cảnh, lại thưởng thức một chén rượu, rồi lại ngâm nga, ngủ ngáy, rồi lại ăn cơm! Từ đây đi Yên Kinh còn bao dặm đường. Tính đốt ngón tay mới là bước hành trình khởi đầu. Mây xanh muôn dặm sự đắc ý còn nhiều. Mưa móc chín tầng ơn mới đang được thấm nhuần. Tấm lòng trong sáng như làn nước trong chậu kia, hãy giữ gìn cho thật tốt. Làm theo chức vị hiện tại của mình, lòng ta tự thấy khoan khoái. Anh chẳng thấy : Quách Phần Dương giữ lòng trung tín, yên đạo nghĩa mệnh. Dẫu tấm thân đơn độc chạy khắp tám cõi xa, cũng chẳng ai làm gì được. Quách Phần Dương tức Quách Tử Nghi danh tướng đời nhà Đường có công dẹp loạn An Lộc Sơn, Sử Tư Minh được phong tước Phần Dương Vương. Khi Tử Nghi giữ đất Hà Trung, dân tộc Hồi Hột, Mông Cổ đem mấy chục vạn quân đến vây, Tử Nghi thân chinh sang trại địch dụ hàng, quân Hồi Hột rút lui.
BÀI NGÂM TRƯỜNG ĐOÃN CÚ
Anh có thẩy :
Đám mây ngoài Ngũ Lĩnh, sớm chiều trôi, tối lại bay đi.
Tung hoành trên giữa trời xanh không có một lúc nào ngơi nghỉ.
Lại chẳng thấy :
Sông Minh Giang xuôi dòng trôi mãi, qua đá ghềnh cuồn cuộn về đông.
Mây nước vô tâm, sức mạnh vô cùng,
Vận chuyển mãi không ngừng dừng lại.
Lòng với sức tương quan nhau ấy,
Lẽ tự nhiên ai dễ biết thay.
Mây chẳng ham cao mà vẫn lượn bay,
Nước chẳng muốn sâu vẫn xô về biển cả.
Mây nước không cầu gì tầng cao, dòng sâu, chỉ tùy sự mà đưa tới.
Không phải ai làm mà ra như thế ! ấy chỉ là quyền lực của hoá công,
Cái đạo làm tôi xa thẳm ruổi rong, nghĩ lại cũng cùng chung lẽ ấy.
Đông, Tây, Nam, Bắc đều là phận sự,
Bôn ba việc nước làm theo lẽ tự nhiên.
Không yên vui nào cầu được, làm sao tránh khó khăn.
Suy ra chẳng yên vui, chẳng gì khốn khó.
Người yên vui suốt ngày nhàn rỗi,
Khi dạo chơi phong cảnh, thưởng rượu ngon.
Rồi ngâm nga, ngủ ngáy, ăn cơm.
Từ đây tới Yên Kinh đường còn bao nhiêu dậm.
Tính đốt ngón tay hành trình chỉ mới khởi hành,
Muôn dậm mây xanh đắc ý còn nhiều,
Mưa móc chín tầng, ơn mới được nhuần sâu,
Lòng trong sáng như nước chậu, hãy giữ gìn thật tốt.
Làm theo chức vị hiện tại, tự thấy lòng khoan khoái.
Anh chẳng thấy :
Quách Phần Dương giữ lòng trung tín, nghĩa mệnh đạo yên.
Dẩu tấm thân đơn độc chạy khắp nơi,
Tám cõi xa chẳng ai làm gì được.
TRƯỜNG ĐOÃN CÚ NGÂM
Quân bất kiến :
Lĩnh ngoại hành vân triêu tịch phi,
Tung hoành tiêu hán vô dĩ thì.
Hựu bất kiến :
Minh giang thệ thủy trường lưu ti,
Triều đông bôn sử thượng hạ ky(cơ).
Vân thủy vô tâm nãi hữu lực.
Chu lưu vận hành bất thiểu tức.
Khởi kỳ tâm lực phi tương quan,
Thử lý hồn nhiên thùy thức đắc,
Phỉ vân cầu cao đằng thái không,
Phỉ thủy vọng thâm xu minh mông.
Cao thâm phi ý, tùy sở để,
Mạc vi nhi vi thụy hóa công.
Thần đạo trì khu đồng thử lý,
Nam bắc ông tây thường sự nhĩ,
Xu phó vô quá thính tự nhiên,
Hà đắc sở cầu nan khả tỵ ?
Toán lai vô đắc khước vô nan,
Đắc vi thường thâu tận nhật nhàn.
Duyệt thực phong quang nhất tôn tửu,
Hựu ngâm hựu thụy hựu gia xan.
Thử khứ đế kinh hứa đa lộ,
Khuất chỉ tiền trình sơ phát bộ,
Vạn lý thanh vân đắc ý đa,
Cửu thiên mạch mộc tôn cam lộ.
Tâm thủy bàn trung hảo phũng lai,
Hành ngô tố vị sảng ngô hoài.
Quân bất kiến :
Quách Phần Dương trượng trung tínm an nghĩa mệnh,
Tuy cô thân tẩu biến bát cực thùy hà tai !
Trên đường đi Ngô Thì Nhậm còn làm bài thơ thứ hai nhớ Văn Thiên Tường. Qua Cát Thủy, huyện thuộc tỉnh Giang Tây quê của Văn Thiên Tường, ông lấy Văn Sơn tên ngọn núi trước nhà làm bút hiệu. Người đời Tống đỗ trạng nguyên làm tể tướng khi quân Nguyên Mông Cổ sang xâm lược, Thiên Tường hết sức chống đánh mong khôi phục lại nhà Tống, sau thua trận bị bắt, không chịu khuất phục người Nguyên giết đi, trong ngục ông làm bài Chính Khí Ca danh tiếng để lại đời.
Trời nghĩ ơn đức nhà Tống để sót lại một vị thửa tướng. Bài văn thi Đình đã tỏ can trường sắt đá từ trước. Văn Thiên Trường đi thi Đình, vua Tống lấy đỗ trạng nguyên, chủ khảo là Vương Ứng Lân rất thán phục văn của ông, nói : “Thị quyển trung can như thiết thạch; quyển văn này có cái tâm can trung nghĩa như sắt đá. Một cái chết ung dung, quyết gánh lấy đạo cương thường. Khi bị người Nguyên xử tử ông ung dung bảo kẻ lại tốt rằng: “Ngô sự tất hỷ”. Công việc ta thế là xong rồi. Chiến thiuyền xưa đã chìm bóng sao, lòng còn hướng mãi. Sau khi thua quân Nguyên, vua Tống chạy ra vùng Nhai Sơn, biển Nam lập đội chiến thuyền lớn để chống giữ. Tướng Nguyên là Trương Hoàng Phạm tới đánh phá Thừa tướng Lục Tú Phu cõng vua Tống cùng gieo mình xuống biển chết. Bài vị mới bị gió cuốn đi, mối hận chưa nguôi. Nguyên chú : Sau khi Văn Thiên Tường tử tiết, người Nguyên kính trọng, sai làm lễ tế viết bài vị là : “Đại Nguyên thừa tướng”, bỗng có trận gió cuồng nổi lên cuốn bay bài vị đi đâu mất, người Nguyên thấy thế sợ, viết đổi lại : “Cố Tống thừa tướng, lễ tế mới thành. (Sách Lịch đại thông giám tập lãm cũng chép việc này). Đăm đăm nhìn ngọn núi Văn, lại càng thêm cảm. Nhác thấy thấy con quạ trời lạnh, liệng xuống thăm viếng buổi chiều tà.
QUA BẾN CÁT THỦY
TRÔNG NÚI VÂN SƠN NHỚ VĂN THỪA TƯỚNG
Trời ban ơn Tống sinh Thừa tướng,
Đã tỏ can trường bài luận Đình.
Điên đảo nửa đời tranh tạo hóa.
Ung dung cái chết gánh cương thường.
Sao chìm thuyền Chúa lòng còn hướng,
Gió cuốn bài thờ hận chữa tan.
Nhìn núi Văn Sơn lòng lòng ngưỡng vọng,
Quạ bay trong lạnh buổi tà dương.
QUÁ CÁT THỦY TÂN THỨ, VỌNG VĂN SƠN, ĐIẾU VĂN THỪA TƯỚNG
Thiên liên Tống trạch di thừa tướng,
Đình đối tiên tư thiết thạch trường.
Điên bái bán sinh tranh tạo hóa,
Thung dung nhất tử nhậm cương thường.
Tinh trầm cố hạm tâm trường hướng,
Phong quyển tân bài hận vị thường.
Tối thị Văn sơn ngưng đế xứ,
Hàn nha sổ điểm điếu tà dương.
NGÔN HOÀI Nói lên nỗi lòng. Đi hộ tống sứ bộ quan lính nhà Thanh cũng lo sợ về việc giản thư. Chỉ vua gấp rút triệu tới đâu dám trể tràng. Giản thư là thư cấp báo của các nước chư hầu ngày xưa. Kinh Thi có câu: “Khởi bất hoài qui, úy thử giản thư.” Há chẳng mong về, sợ bức giản thư ấy.. Thiên luân là chỉ trời, chiếu dụ vua nhà Thanh. Được tin cấp báo sứ bộ Việt Nam sang báo tin vua Quang Trung mất, vua Càn Long nóng lòng viết chỉ dụ ra lệnh quan quân đưa gấp sứ bộ về Yên Kinh, điều này chứng tỏ tấm lòng vua Càn Long đã trân trọng vua Quang Trung, từ một địch thủ đánh bại đội quân Tôn Sĩ Nghị biến thành một người thân thiết, làm lễ ôm gối nhận tình cha con, đến việc nhận lễ cầu hôn sẵn sàng gã công chúa và giao cho hai tỉnh Quảng Đông Quảng Tây. Việc thân thiết này đáng mừng hay lo cho quyền lực mềm của Nhà Thanh, không khéo Việt Nam trở thành quận huyện Trung Quốc. Đang buồn vì đường chạy trạm mưa dầm không ngớt. Lại cười cho ngựa câu không bằng dòng suối chảy mau. Suy lại tình người sỡ dĩ họ luôn thuận chiều hộ vệ chu đáo. Cũng do thấy ta bôn tẩu vì việc nước mà có cái nghĩa tương thân. Ngô Thì Nhậm nghĩ vì mình lo việc nước mà quan quân nhà Thanh phải chu đáo như thế có biết đâu vua Càn Long đang suy tính một kế hoạch quyền lực mềm khác ? Khi vua Cảnh Thịnh bị Gia Long đánh bại chạy ra đất bắc cũng đã cho người cầu với nhà Thanh. Khi Gia Long toàn thắng lại gấp rút sai sứ bộ Tề Bồ Sâm sang phong vương vua Gia Long. Thời nào Trung Quốc cũng thuận chiều mà giữ cái thế thiên tử kẻ cả ở trên đối với nước nhỏ, chỉ mạnh như Nhật Bản mới áp đặt vua Phổ Nghi nhà Thanh mất nước làm vua Mãn Châu Quốc. Từ xưa cần lao vốn là tể thuốc trường sinh. Sao cứ ngồi trong xó ngôi nhà cao mà ôm lấy lò ấm.
NGÔN HOÀI
Hộ sứ quan còn sợ giản thư.
Chiếu vua gấp rút dám sai đâu.
Đang buồn đường trạm mưa tầm tả,
Cười ngựa không bằng nước chảy mau.
Suy đoán tình người chu đáo việc.
Vì ta bôn tẩu nghĩa tình nhau.
Cần lao tự cổ là môn thuốc,
Chẳng phải luyện đan trong lò cao.
NGÔN HOÀI
Bạn tống viên biền úy giản thư,
Thiên luân thôi triệu cảm hoàng cư.
Chính sầu phi dịch vũ vô chỉ,
Khước tiếu bôn tuyền câu bất như.
Suy bỉ thuận lưu tình sở dĩ,
Kiấn dư xu sự nghĩa tương ư.
Cần lao tự cổ trường sinh tễ,
Hà tất cao đường tọa ủng lư (lô).
ĐI DƯỚI TRỜI MƯA. Ngày đêm đi gấp con đường 500 dặm ( khoảng gần 250 km). Người và ngựa rong ruổi không dám ngủ. Vì vị quan tổng đốc hỏa tốc truyền tờ chiếu thư. Người phiên sứ vâng thánh chỉ rong ruổi mau như sao. Mưa rơi từ chín tầng trời làm trơn ướt bánh xe. Phần thì mây kéo mịt mờ, phần thì mưa tuôn dào dạt. Thác nước reo như sấm, nước chảy tựa tên bay. Người lái đò hô to : “Ông sang sông ngay.” Vừa sang khỏi sông lại trèo lên đường núi. Đá núi nhọn hoắt trời vừa sẩm tối. Núi non hiu quạnh chẳng thấy khói lửa gì. Tiếng người văng vẳng nghe như ở ngoài tầng mây. Nơi bản kiều thôn xóm xa xa, ngọn đèn khi mờ khi tỏ. Bọn lính canh hô nhau đến tiếp đón. Sương khói mịt mùng không trông rõ hình sắc. Bổng chốc phía núi đông vầng hồng hiện lên. Non sông chiếu vào mắt như những bức tranh thủy mặc. Đèn đuốc sáng choang cả một bầu trời không có ban đêm. Trong thành Vĩnh Phúc, nhân vật đầy vẻ hào hoa. Bao đình quán dựng ở ven sông liền như vẩy cá. Nhà đón khách kết hoa lộng lẫy. Sứ thần đang có quốc tang, ngần ngại từ chối không dám vào. Các quan lại trong dinh sở, đều chắp tay lên trán làm lễ. Ai ai cũng không quên đấng tiên vương của ta.(Sứ bộ năm 1790 với vua Quang Trung đã qua đây ) Người xưa thường nói đường núi Tĩnh Hình là hiểm trở. Tên núi ở Hà Bắc, thuộc phân chi núi Thái Hằng, núi này hình thế hiểm trở, bốn mặt cao giữa trủng vực sâu như cái giếng nên gọi là Tỉnh Hình. Dù hiểm trở nhưng biết cẩn thận là điều tốt hơn hết. Đi Đường xa lên núi cao, phải tự mình gìn giữ. Thiên vương, vua Càn Long hứa hẹn cho sứ giả về sớm.
ĐI DƯỚI TRỜI MƯA
Ngày đêm đi gấp năm trăm dậm,
Người ngựa ruổi rong chẳng nghỉ nào.
Chiếu thư hỏa tốc truyền quan tỉnh,
Phiên sứ vội vàng như ánh sao.
Mưa đổ chín tầng trơn bánh xe,
Mây đen mờ mịt, mưa dầm dề.
Thác reo như sấm, mưa như trút.
Người lái đò hô : “Sang sông nghe.”
Vừa sang sông lại trèo đường núi,
Đá núi nhọn cao trời tăm tối.
Ngọn núi quạnh hiu chẳng lửa soi,
Tiếng người văng vẳng ngoài mây tới.
Nơi Bản Kiều xa đèn tỏ mờ,
Bọn lính canh tranh đón tiếp hô,
Sương khói mịt mùng không rõ sắc,
Bổng chốc núi Đông vầng hồng nhô.
Non sông trong mắt như tranh họa,
Đèn đuốc sáng choang trời không đêm,
Vào thành Vĩnh Phúc, dân nho nhã,
Đình quán bên sông nối tiếp liền.
Nhà khách đón hoa kết lộng lẫy,
Sứ thần tang chế không dám đương.
Các quan dinh sở chắp thi lễ,
Ai cũng không quên đấng Tiên Vương,
Người xưa cho đường Tỉnh Hỉnh hiểm,
Đường hiểm không bằng mình giữ gìn.
Thiên vương hứa sứ cho về sớm.
VŨ HÀNH
(Thơ thất ngôn cổ phong)
Nhật dạ kiêm trình ngũ bách lý,
Nhân mã trì khu bất cảm thụy.
Khổn thần hoả tốc đằng chiếu thư,
Phiên sứ tinh trì phụng thiên chỉ.
Cửu thiên cao vũ nhuận tùy xa,
Nhất diện ổng ế nhất bàng đà.
Bộc bố như lôi, thủy như tiển,
Chu tử huyên hô: “Công độ hà.”
Tài độ liễu hà phục đăng lĩnh,
Lĩnh thgạch như tiêm, thiên sắc minh.
Không sơn tịch mịch vô tài yên,
Nhân ngữ đãn tòng vân ngoại thính.
Bản kiều dao dao chúc diệc minh.
Thú tốt truyền hô lại tiếp nghinh.
Yên vụ mông mông sắc bất biện,
Tu du đông sơn, nhất luân minh.
Giang sơn nhập nhãn kham đồ họa,
Đâng chúc tinh huỳnh thiên bất dạ.
Vĩnh Phúc thành trung nhân vật hoa,
Lâm lưu lân tập xưởng đình tạ.
Ngũ hoa thái kết quán tân đường,
Sứ thần hàm tuất từ bất đương,
Sanh tào tòng sự cát gia ngạch,
Cá cá bất vong ngã tiền vương.
Tích nhân tằng ngôn Tỉnh Hình đạo,
Khuynh hiểm vô như gia ý hảo,
Hành viễn đăng cao yếu tự trì,
Thiên vương dĩ hứa qui hồi tảo.
ĐI ĐÊM. Từ Cửu trùng ngai vàng vua Càn Long truyền chỉ đưa sứ thần nhanh chóng về triều. Ngựa ruổi xe rong chỉ nẻo theo hướng chuôi sao Bắc Đẩu. Sao Bắc đẩu có 7 sao, bốn sao hình vuông gọi là “khôi”, ba sao dài là “tiêu” (chuôi), đi theo sao Bắc đẩu là đi về hướng bắc, triều đình Bắc Kinh. Bầu trời thấy sáng bừng, tinh tú bội phần chói lọi. Mặt đường như bằng phẳng, núi non mất cả gập ghềnh. Ngọn đuốc sáng rực, truyền qua các trạm mai. Cờ tinh phơi phới, chạm vả cành dương liễu. Năm canh tiếng chim hót thường lẫn vào giấc mộng. Tưởng như ngồi bên khúc nhạc quân thiều nơi cửa khuyết triều đình phía nam.. Quân thiều tức “quân thiên” và “cửa thiều” nhạc vua Thuấn, khúc nhạc diễn tả cảnh tượng thái bình khúc nhạc của thiên tử.
ĐI ĐÊM
Chín tầng truyền chỉ sứ về triều,
Bắc Đẩu theo sao, ngựa ruổi mau.
Trời sáng bừng muôn sao chói lọi,
Mặt đường bằng chẳng núi chen nhau.
Đuốc truyền rực sáng trạm mai dịch,
Phất phới cờ tinh bóng liễu cao.
Chim hót năm canh vào giấc mộng,
Tưởng nhạc quân thiều Nam cung nao.
DẠ HÀNH
Cửu trùng tuyên chỉ thôi triều sứ,
Mã sậu xa trì chỉ đẩu tiêu.
Thiên thự tinh thần khai xán lạn,
Địa di nham lĩnh thất khê nghiêu.
Hoàng hoàng minh chúc truyền mai dịch,
Bái bái hành tinh phật liễu điều,
Ngũ dạ điểu thanh tần nhập mộng,
Y hy nam khuyết bạng quân thiều.
Cuộc đi khẩn cấp buồn ngủ nhưng khó ngủ lắm. Ngày đêm rong ruổi không dám nghỉ ngơi. Mười cổ xe vang tiếng ngựa hí, bon bon dưới ánh trăng nghìn dậm. Trăm nóc nhà vẳng nghe tiếng gà gáy trong làn sương canh năm. Chưa phải lúc gối đầu cánh tay, yên phận ăn cơm hẩm, uống nước lã. Do câu Khổng Tử: “Phạn sơ tự, ẩm thủy, khúc quảng nhi chẩm chi, lạc diệc tại kỳ trung hỷ.” Ăn cơm hẩm, uống nước lã, nằm co cánh tay mà gối đầu, vẫn có cái thú vui ở trong. Ý nói cảnh an bần lạc đạo. Vẫn nên tinh sáng con mắt mà xem nồi kê vàng thổi chín. Tích Lư Sinh đời Đường, vào nghỉ quán trọ đất Hàm Đan, gặp ông già họ Lã. Sinh than phiền cảnh khốn cùng, ông già liền cho mượn cái gối tiên chẩm mà nằm ngủ. Sinh mơ thấy mình đỗ tiến sĩ làm tể tướng mười năm rất vinh hoa phú quý. Sinh tỉnh dậy thì nồi kê vàng của chủ quán nấu vẫn chưa chín (Chẩm trung ký), người sau dùng chữ hoàng lương để chỉ gấc mộng phú quý. Danh lợi vốn là con đường lo sợ nhiều huyên náo. Tâm hồn ta luôn luôn thức tỉnh trong sáng cũng không ngại gì.
ĐI GẤP KHÓ NGỦ
Buồn ngủ gấp đi, chẳng ngủ tròn,
Ngày đêm rong ruổi chẳng dừng chân.
Mười xe ngựa hí trăng ngàn dậm.
Trăm nóc gà vang sương canh năm.
Cơm lạnh nước tu tay chẳng gối,
Nồi kê chưa chín, mắt mơ màng.
Đường đời danh lợi đầy huyên náo,
Thức tỉnh lòng ta thấy nhẹ nhàng.
KHẨN HÀNH THỤY NAN
Khẩn hành dục thụy thụy thù nan,
Nhật dạ bôn trì mỹ cảm hoàng.
Thập thặng mã tê thiên lý nguyệt,
Bách gia kê khiếu ngũ canh sương.
Khúc quâng vị hợp an sơ thủy,
Tuệ nhãn hoàn ưng khán thục lương.
Danh lợi úy đồ đa nhiệt náo,
Thanh minh tỉnh giác tự vô phương.
Dọc đường Hà Nam, tỉnh phía nam sông Hoàng Hà, ông viết : Ráng mây buổi sớm treo trên cánh đồng bằng. Bốn con ngựa to lớn kéo xe chạy rầm rầm. Ruộng lúa mạch chín giữa tiết hè, phơi đầy bông vàng. Đường rặng liễu lộng gió, cuốn tung làn cát trắng. Trên Bộc trong dâu dâm phong đã đổi khác xưa. Tang gian Bộc thượng, Hà Nam xưa là cõi đất nước Vệ, có sông Bộc trên sông có đất Tang gian, trồng dâu, trai gái thường tụ hội tình tự bất chính, người sau gọi phong tục dâm bôn là “Tang gian Bộc thượng”. Hào hoa văn vật còn kém đất Việt, đất Kinh. Việt tức Việt Đông nay là Quảng Đông, Quảng Tây, Kinh là cõi đất hai tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc. Phong cảnh trung châu đã quen trong sứ trình học hỏi. Giữa buổi ngày dài, tựa xe ngồi ngắm bốn phương xa.
DỌC ĐƯỜNG HÀ NAM
Bài I
Mây hồng lơ lững giữa đồng bằng,
Bốn ngựa to vang tiếng chạy ầm.
Lúa mạch vàng hè bông trĩu chín,
Liễu cao lộng gió, vát bay tung.
Trong dâu trên Bộc dâm phong đổi,
Văn vật hào hoa kém Việt Kinh.
Phong cảnh Trung Châu quen học hỏi,
Ngày dài xe gối ngắm mênh mông.
HÀ NAM ĐẠO TRUNG
Kỳ I
Thản đãng giao nguyên quải thự hà,
Lân thanh phụ tứ cấp khu xa.
Mạch điền hạ thục phô hoàng tuệ,
Liễu lộ phong cao quyển bạch sa.
Cổ tục dĩ di Tang, Bộc mỹ,
Nhân văn bất tỷ Việt, Kinh hoa.
Tuân tư sảo quán trung châu cảnh,
Trú vĩnh, bằng hiên thiếu tứ hà.
Bài II Cảnh vật Dự Châu đất Hà Nam nổi tiếng nhất vùng trung nguyên. Thăm viếng dấu xưa ngồi tựa xe mà chạnh lòng. Năm trăm năm một lần nước trong, sông Hoàng Hà luống ví với miệng cười. Ba lần chúc lời “vạn tuế” núi Tung Sơn bổng nhiên biết nói. Nước sông Hoàng Hà luôn luôn vàng đục, tương truyền cứ năm trăm năm có một lần trong. Bao Chửng đời Tống làm quan đất Khai Phong thủ phủ Hà Namm tính cương nghị, ít khi cười, người ta ví nụ cười ông như sông Hoàng Hà năm trăm năm mới có một lần. Tung Sơn là núi lớn tỉnh Hà Nam vua Hán Vũ Đế lên tế thần núi bổng nghe tiếng hô vạn tuế ba lần, người sau dùng từ “tung hô” hay “sơn hô” làm lời chúc thọ nhà vua. Đô ấp của lịch triều (thời Xuân Thu) đã biến thành bao đám ruộng cao thấp. Thành trại của các nước (thời Chiến Quốc), giờ đây là những xóm dân cư gần xa. Những mong ngày trử về sông Nam quê hương, mái chèo lại được yên ổn. Chuyến du lịch này đã xem cảnh đẹp khắp trời đất.
Bài II
Dự Châu cảnh vật nhất Trung nguyên,
Thăm viếng dấu xưa, tựa gối yên.
Mĩm miệng năm trăm sông hết đục,
Ba lần vạn tuế núi hô vang.
Lịch triều đô hội, gò cao thấp,
Liệt quốc dinh cơ, nay xóm làng,
Mong buổi sông Nam thuyền trở lại,
Đã xem phong cảnh khắp càn khôn.
Kỳ II
Dự Châu phong vật giáp trung nguyên,
Phóng cổ hưng hoài nhất ỷ viên.
Hà ngũ bách niên không tỷ tiếu,
Sơn tam vạn tuế hốt năng ngôn.
Lịch triều đô ấp cao đê lũng,
Liệt quốc giao khư viễn cận thôn.
Cảnh nghỉ giang nam qui trạo ổn,
Tư du thắng lãm biến kiền khôn.
THƯ ViệN DĨNH XUYÊN . Nguyên chú viết : “Thư viện ở huyện Lâm Dĩnh. Hoàng Bá làm quan Thái Thú Dĩnh Xuyên có phượng hoàng thần tước đến nơi đây”. Hoàng Bá người đời Hán Vũ Đế làm Thái Thú Dĩnh Xuyên sau làm Thừa Tướng. Thời xưa nơi các sĩ tử học gọi là Thư viện. Đến đời Quang Tự nhà Thanh mới đổi thành học đường.
Lầu các trùng trùng ôm sườn núi biếc. Nơi mở trường học buông màn đỏ. Đàn gảy, khánh rung sách nức hương thơm. Cành mai chạm nghiên, mực bay hạt móc. Nơi danh giáo là niềm vui cho hạng mày ngài. Chốn thuần lương chuyện phượng hoàng bay đến không phải là điều giả. Muốn tìm việc cũ xem cảnh mới. Mười cổ xe của sứ bộ lại ruổi rong đi.
THƯ ViệN DĨNH XUYÊN
Lầu gác trùng trùng lưng núi xanh,
Học đường đây trướng đỏ buông màn,
Đàn vang khánh gõ thơm hương sách,
Nghiên chạm cành mai giọt mực sương,
Danh giáo niềm vui trai học hỏi.
Thuần lương bay đến phượng ung dung.
Muốn tìm việc cũ xem phong cảnh,
Đoàn sứ mười xe lại ruổi rong.
DĨNH XUYÊN THƯ ViệN
Lầu các tầng tầng ủng thúy vi,
Môn trường khai sứ giáng sa thùy.
Cầm kiêu linh thạch thư hương động.
Nghiễn phất mai điều mặc lộ phi.
Danh giáo tự nhiêu nga tử lạc,
Thuần lương hà giá phượng hoàng nghi.
Dục tầm cựu sự quan tân cảnh,
Thập thặng hoa nhân hựu tái trì.
Trên đường đi gần đến Bắc Kinh, ông bị bệnh nhưng vẫn gắng gượng chống chọi cơn bệnh mà làm việc, ông viết : Gió sương há dễ ghen ghét với tấm thân chức vụ này. Phạm Thành Đại đời nhà Tống có câu thơ : “Mấn sương thời tiết thượng quan thân.” Thời kỳ tóc đã điểm sương, còn mang cái thân quan chức. Ở đây Ngô Thì Nhậm muốn nói : Mình vốn là thân nhận chức vụ triều đình, gió sương không thể ghen ghét mà gây ra bệnh tật được. Một tấm thân của con người trải khắp đông tây nam bắc. Câu này nhắc lại câu Khổng Tử: “Khâu dã đông tây nam bắc chi nhân”, (Khâu là tên Khổng Tử) Khâu này vốn là người đông tây nam bắc, nay đây mai đó không có nơi nhất định. Tạo hóa sinh ra lấy vũ trụ làm nhà ở. Quân vương mệnh cho ta, riêng giữ chức ty luân. Ty là sợi tơ đơn, luân là sợi chấp. Kinh Lễ thiên Truy Y: “Vương ngôn như ty, kỳ xuất như luân;” Lời nói nhà vua trước như sợi ty, sau ban ra thì thành sợi luân. Ý nói chiếu chỉ nhà vua ban ra càng xuống càng rộng lớn. Người làm việc Viện Hàn Lâm thảo ra chiếu sắc nhà vua còn gọi là chức ty luân. Núi sông xa lạ chỗ nào cũng được hộ trì tốt lành. Mưa móc thấm nhuần nay lại được nhiều ơn mới. Trung tín một niềm, mừng có liều thuốc chữa khỏi cái bệnh “vô vọng”. Kinh Dịch quẻ vô vọng : “vô vọng chi tật, vật dược hữu hỷ.” Bệnh tật không do sự càn dỡ mà mắc phải, không cần phải thuốc thang nó sẽ qua khỏi. Tự ta phải phấn chấn tinh thần của ta lên.
GẮNG SỨC GƯỢNG CHỐNG BệNH MÀ LÀM VIệC
Phong sương há dễ ghét thân này,
Nam Bắc Đông Tây trải đó đây.
Tạo hóa sinh nhà là vũ trụ,
Quân vương trao mệnh chức luân ty.
Giang sơn khắp chốn phù trì tốt,
Mưa móc sớm hôm ơn thấm dày.
Trung tín một niềm tan bệnh tật,
Một lòng phấn đấu tự mình đây.
LỰC TẬT THƯ HOÀI
Phong sương khởi đắc đồ quan thân,
Thân thị đông tây nam bắc nhân.
Tạo hóa sinh ngô lư vũ trụ,
Quân vương mệnh ngã chức ty luân.
Giang sơn tại xứ hộ trì hảo,
Vũ lộ như kim ưu ốc tân,
Trung tín tự đa vô vọng hỷm
Bất phương đẩu tẩu sách tinh thần.
Đêm thu ngồi kiểm điểm lại riêng nỗi bồi hồi. Nào việc đời, nào thói người, trăm mối cả; nghĩ dồn đến. Nơi từng đắc ý ai khiến tìm tới lần nữa. Cái thời thanh xuân chưa bao giờ thấy nó trở lại. Đi hay ở không việc nào là không do số mệnh. Phàm những vật sinh ra, vẫn chẳng muốn có tài năng làm gì ? Nếu đạo thừa trừ là công bằng, theo đúng mẫu mực. Thì ta sẽ sớm được khỏe mạnh trở về nơi vườn ruộng xưa.
ĐÊM THU VIẾT NỖI CẢM HOÀI
Đêm thu ngẫm lại luống bồi hồi.
Trăm mối cảm hoài, đời, thói người.
Đắc ý ai người quay lại đó,
Thanh xuân đi chẳng trở về thôi.
Ở đi số mệnh tùy duyên phận,
Phàm vật sinh ra chẳng muốn tài,
Nếu đạo thừa trừ theo đúng mực,
Mạnh khoẻ điền viên hưởng thú vui.
THU DẠ THƯ HOÀI
Thu tiêu điểm kiểm độc bồi hồi,
Thế cố nhân tình cảm bách thôi.
Đắc ý sứ thùy giao tái vãng,
Thanh xuân thời kỷ kiấn trùng lai.
Kỳ hành hà giả phi do mệnh,
Phàm vật do thiên bất dục tài,
Công đạo thừa trừ như hữu chuẩn,
Điền viên nghi tảo hoạch khang hoài.
Nhân ngày Trung Thu ông viết : Trung thu năm trước và trung thu năm nay, đều ở đất Trung Quốc. Năm trước đi sứ được về nhà vào dịp trung thu, trung thu năm nay, chắc ở nhà cũng tưởng được về, nhưng còn phải ở lại đợi chiếu chỉ. Ngày 20 tháng tám, buổi sáng được vào hầu ăn yến, lại được đặc chỉ cho đến chổ hoàng đế ngự (vua Càn Long), hoàng đế hai lần ban lời ủy lạo rằng : “Ở phương xa đến, rất là trung thành, gian lao” , rồi hoàng đế thân rót chén rượu ngọt ban cho.
Trung thu năm nay cũng giống như năm trước. Nhưng người đi muôn dậm xa ở tận sông Nhiệt Hà và vườn Viên Minh. Nhiệt Thủy tức Nhiệt Hà (Chende) có dòng suối ấm chảy vào nơi đây có cung điện mùa hè và vườn ngự uyển. Minh viên là tên vườn hoa do vua Khang Hy dựng nên, chu vi 30 dặm phía nam có cung điện, là một trong bốn kiến trúc vườn lớn của thế giới. Mặt ngọc chị Hằng vẫn nguyên như cũ. Mái tóc hoa râm của người đi sứ lại điểm trắng thêm. Thời tiết qua mau, già nửa theo với đêm nay. Tình cảnh đất khách làm cho thân này chóng già. Tưởng chừng trong tiệc vui ở quê nhà. Đang nâng chén mong cho xe sứ sớm quay ngựa trở về. Nhân là loài ngựa lông màu trắng tro. Kinh Thi thơ Hoàng hoàng giả hoa : “ Ngã mã duy nhân”, ngựa ta là ngựa nhân, chỉ con ngựa cỡi đi sứ.
TRUNG THU
Năm nay, năm trước trung thu đến,
Nhiệt Thủy, Minh Viên vạn dậm xa.
Mặt ngọc chị Hằng trăng vẫn thế,
Mái đầu khách sứ bạc thêm ra.
Qua mau thời tiết đêm dần hết,
Đất khách tha phương lại chóng già.
Tưởng tượng quê nhà nâng chén rượu,
Mong cho xe sứ sớm về nhà.
TRUNG THU
Thị niên khứ tuế trung thu nguyệt,
Nhiệt Thủy, Minh Viên vạn lý nhân.
Nga tỉ ngọc nhan toàn tự cựu,
Sứ Hoa ban mấn hựu thiêm tân.
Thời quang cường bán tùy kim dạ,
Khách huống thiên đa lão thử thân.
Tưởng đắc gia hương hoan tịch thượng,
Cử tôn dao vị chúc hồi nhân.
Tết Trung thu nơi quán khách. Tấm gương nga treo trên tầng không, lạnh lẽo chiếu xuống thềm sân. Cái bóng trong sáng kia từ nơi biển quế xa khơi hiện lên. Một nửa sắc thu, đã trôi qua trong khi bận rộn việc nước. Nỗi nhớ quê hương thường tìm về trong giấc mộng năm canh. Sương pha mái tóc sầu, ngồi tựa bức lan cô quạnh. Một đêm vui đã cạn giọt rồng, chén rượu say lảo đảo. Liền năm bôn tẩu não lòng cho người du tử. Qua hết thành Phú Xuân, đi Lạng Sơn, lại tới Yên Kinh.
QUÁN KHÁCH TRUNG THU
Gương nga trời lạnh chiếu thềm săn,
Biển quế xa khơi, bóng hiện lên.
Nửa sắc thu qua công việc nước,
Lòng quê tìm giữa giấc mơ màng.
Sương pha sầu tóc ngồi cô quạnh,
Giọt rượu say vui cạn giọt rồng.
Liền năm bôn tẩu thân du tử,
Thành Xuân, Ải Lạng đến Yên Thành.
KHÁCH QUÁN TRUNG THU
Hàn không nga kính chiếu đình giai,
Thanh ảnh dao tòng quế hải lai.
Thu sắc bán phân mang lý quá,
Hương tâm ngũ dạ mộng trung hồi.
Sương xâm sầu mấn bằng cô hạm,
Lậu yết phương tiêu đảo túy bôi,
Bồng ngạnh liên miên du tử hận,
Xuân thành, Lượng khổn hựu Yên Đài.
Cương ngựa dóng đường trường, tình khách cô đơn. Thư nhạn ba lần gửi có biết đến nhà không ? Văn chương thù ứng cùng người muốn trổ hết tài nghệ. Năm tháng phôi pha lần lần già với đường đời. Khi vui thích nước, khi vui thiách non, thật cũng hứng thú. Là trâu là ngựa mặc sự xưng hô.Đừng bảo nơi chân trời góc biển ít người tri kỷ. Ta từng tiếp xúc nhiều vị đại phu ở Trung Triều.
TIÊU KHIỂN NỖI BUỒN
Cô đơn lòng khách ngựa đường trường,
Thư nhạn ba lần biết tới chăng ?
Thù ứng văn chương, tài nghệ trổ,
Phôi pha năm tháng cái già nhanh.
Vui non vui nước lòng thi hứng,
Là ngựa là trâu mặc tiếng xưng.
Đừng bảo biển trời tri kỷ vắng,
Trung triều tiếp xúc bậc tài danh.
KHIỂN MUỘN
Chinh bí thiều thiều khách tứ cô,
Nhạn thư tam độ đáo gia vô ?
Văn chương thù ứng đàn nhân kỹ,
Tuế nguyệt tiêu ma, lão thế đồ.
Nhạo thủy, nhạo sơn chân hứng thú,
Vị ngưu vị mã nhậm xưng hô,
Mạc ngôn nhi giác thiểu tri kỷ.
Tiếp thức Trung triều sĩ đại phu.
Cửa trời nâng chén rượu chúc thọ. Bến sao yên ổn chiếc bè bơi, tích Trương Tịch dùng bè đi ngược sông Hoàng Hà. đi sứ Tây Vực sang đến tận vùng A Phú Hãn ngày nay.. Bóng trăng lồng trước sân ánh trắng sáng vằng vặc. Đàn ca cách bên tường nghe vọng véo con. Cảnh sắc mùa thu chỗ nào cũng tươi đẹp. Bước đường đời thường làm già tuổi người ta. Ngồi bên ngọn đèn lạnh cảm nỗi quạnh hiu. Lòng nhớ quê hương không sao nén nỗi.
ĐÊM TỐT NÀY TÍNH SAO ĐÂY
Cửa trời nâng chúc thọ,
Bến sao bè bơi xa.
Đầy sân trăng vằng vặc,
Cách tường vọng tiếng ca.
Cảnh thu đâu cũng đẹp,
Đường đời tuổi chóng già.
Bên đèn ngồi tịch mịch,
Lòng quê chẳng phôi pha.
NHƯ THỬ LƯƠNG DẠ HÀ
Thiên hôn xưng thọ giả,
Tinh chử ổn du xa.
Kiểu phách không đình nguyệt,
Phồn thanh cách bích ca.
Thu quang tùy xứ hảo,
Thế lộ lão nhân đa.
Tịch mịch hàn đăng bạn,
Hương tâm bất cấm hà.
VƯỜN MINH VIÊN là vườn cũ cung điện Kiết Đan, nằm ngoài cửa Tây Trực, Bắc Kinh Vua Thế Tông Khang Hy nhà Thanh khi lên ngôi cho xây dựng vườn này và được tiếp nối qua nhiều đời thành một quần thể kiến trúc danh tiếng, mỹ lệ: “Vườn của muôn vườn’, gồm 140 toà kiến trúc, 19 cổng, 5 đập nước, 100 cây cầu gổ trên một diện tích 160 km vuông. Vườn có hai cung điện lớn là cung Quang Minh và Cần Chánh. Đời vua Ung Chính về sau cứ buổi đầu xuân về làm việc nơi đây. Tử Cấm Thành Bắc Kinh chỉ sử dụng trong các lễ chính thức.
Tiếc thay năm 1860 vườn bị liên quân Anh Pháp phá hủy hoàn toàn cháy ba ngày ba đêm hơn 300 cung nữ và thái giám bị chết cháy.. Năm 1900 bị liên quân 8 nước đốt rụi một lần nữa. Những năm 1970 toàn bộ diện tích bị lấn chiếm xây dựng, ngày nay khu vườn xinh đẹp chỉ còn một bãi đất hoang di tích sụp đổ. Những bức ảnh chụp của một nhiếp ảnh gia Tây Phương, công trình trước và sau khi bị phá hủy cho ta thấy sự xinh đẹp tráng lệ của công trình kiến trúc này. Ngô Thì Nhậm là sứ thần hiếm hoi được gặp vua Càn Long trong cung điện vườn Viên Minh, ông viết :
Cung điện Kiết Đan nơi đâu nhỉ ? Vườn rừng Trường Bạch hiện ra ở chốn này. Núi trước, núi sau bình phong uốn khúc. Khe Nam, khe Bắc sông lượn vòng tròn. Liền với mây xanh cỏ hoa lớp lớp. Soi trên vũng biếc lầu các tầng tầng. Thật giản dị nơi ở nhà vua. Màn giấy, lọ sành, lan can bằng gỗ.
Cung điện Kiết Đan ở chốn nào ?
Vườn rừng Trường Bạch chốn này sao ?
Trước sau núi uốn bình phong dựng,
Nam Bắc khe sông lượn sóng trào.
Liền với cây xanh hoa cỏ rợp,
Soi trên vũng biếc gác lầu cao,
Nơi vua cư ngụ sao đơn giản,
Màn giấy, lọ sành, lan can đào.
VIÊN MINH VIÊN
Kiết Đan cung điện tri hà xứ,
Trường Bạch viên lâm kiến thử gian,
Sơn hậu, sơn tiền phô khúc bính,
Giản Nam, giản Bắc tẩu hồi lan.
Thảo hoa thốc thốc liên thanh chướng,
Lầu các tằng tằng phủ bích loan.
Đại đế hưng cư hồn giản chất,
Ngã hồ chi trướng mộc lan can.
Kính nhận chiếu vua ban ra khỏi thành Phượng. Trên đường đi về phong cảnh rỡ ràng. Ngoái đầu nhìn đất Bắc non sông tươi đẹp. Đưa mắt ngắm trời Nam, nhật nguyệt sáng ngời. “Tre tên” đã thoả được chí nam nhi.”Tăng cung” thật nhờ uy linh tên đế. “Chục bằng” mười điều lành, trên giúp điềm đã báo trước. Soi rọi xe ta trên đường về có phúc tinh.
TRÊN ĐƯỜNG VỀ MỬNG LÀM THƠ
Nhận chiếu vua ban vội khởi hành,
Đường đi phong cảnh sáng tươi trông.
Ngoái nhìn đất Bắc non sông đẹp,
Nhìn ngắm trời Nam nhật nguyệt thanh.
Cung nõ tung hoành trai chí khí,
Thực nhờ tiên đế tỏ uy linh.
Thập bằng trên giúp điềm lành báo,
Soi rọi xe ta có phúc tinh.
HỒI TRÌNH HỶ PHÚ
Chi phụng thiên chương xuất phụng thành.
Phong quang lịch lịch hướng lai trình.
Hồi đầu Bắc địa sơn xuyên tú,
Thức mục Nam thiên nhật nguyệt minh.
Huyền thi hoạch thú nam tử chí,
Huống cung ngưỡng trượng đại quân linh.
Thập nằng thượbng lựu phù tiêm triiện,
Chiếu ngã quy biền hữu phúc tinh.
Phủ Thái Bình tự cổ là đất ky mi, trước thời nhà Nguyên các thổ mục tự cai trị lấy . Từ năm Hồng Vũ nhà Minh bắt đầu cử Gia Cát Thiên Thạch người Hán đến làm tri phủ. Ngàn dậm núi non cây cỏ xanh mướt. Trăm năm thành quách lâu đài xưa. Đá xếp hình con thú nước, nổi đám rong biếc. Tháp nhô hình ốc mọc đầy rêu xanh. Cảnh khá thanh nhàn, các quan như vừa làm quan vừa ở ẩn. Người xưa mở ra thưởng thức phong quan.
VỊNH PHỦ THÁI BÌNH
Thái Bình tự cổ đất ky mi,
Gia Cát ấn cờ trấn nhậm đây.
Ngàn dậm núi non cây mượt tốt,
Trăm năm thành quách lâu đài xây.
Đá xếp thú cầm rong cỏ biếc.
Tháp phô hình ốc mọc rêu đầy.
Cảnh quá thanh nhàn quan ở ẩn,
Người xưa từng mở cõi thanh bai.
THÁI BÌNH NHÀN VỊNH
Thái Bình tự cổ ky mi vực,
Gia cát danh khanh ủng tiết lai.
Thiên lý sơn nham đồng thảo thụ,
Bách niên thành quách cổ lâu đài .
Cảnh khả nhàn thê kiêm hoạn ẩn.
Phong quang vi thưởng tích nhân khai.
Xe chỉ nam giong đường về, dặm đường dài đằng đẵng. Cớ sao ở trong xe suốt cả ngày đêm. Áo chăn lông cừu khoác vào mình coi thường sương lạnh. Nhạc ngựa vang tai xen lẫn với tiếng điêu canh trường. Điêu đẩu là nồi nấu cơm bằng đồng, ban ngày nấu cơm, ban đêm thì gõ canh gác để báo giờ. Lòng gấp về quê luôn luôn mơ mộng, nhưng khó bay vượt tới được. Muốn đọc mà không có sách, sao cho khuây nỗi tịch liêu. Hồi chuông chùa xa xa vừa vang tiếng lúc trăng lên. Viên quan tùy tùng lại dục sứ lên đường.
ĐÊM THU NGỒI TRONG XE TỨC SỰ
Chỉ nam xe chạy dặm đường dài,
Sao ở trong xe tối đến mai.
Chăn ấm áo cừu khinh giá lạnh,
Vang tai nhạc ngựa kẻng luôn hồi.
Những mong về gấp bay sao được,
Không sách qua ngày đọc để nguôi.
Chuông vẳng chùa xa trăng tỏ bóng,
Viên quan hộ sứ dục đi hoài.
THU DẠ XA TRUNG TỨC SỰ
Chỉ nam xa khứ lộ thiều thiều,
Hà sự xa trung tiệt tức tiêu.
Cừu nhục thụ thân khi ấp lộ,
Mã linh giang nhĩ giáng hàn điêu.
Cấp qui hữu mộng nan phi việt,
Dục khán vô thư độ tịch liêu.
Viễn tự chung tài khao nguyệt thượng,
Bạn viên hựu hoán trục hoành thiều.
Khi về đến Lâm Tương, (tỉnh Hồ Nam) mắc bệnh hàn lỵ, nhưng vẫn đi suốt ngày đêm, không được nghỉ ngơi, ông Vân Trường, viên tướng chỉ huy cuộc hành trình cho mời vị lương y Trương Tăng Yết đến chăm sóc điều trị và bản thân cũng tiết chế ăn uống, nên đến Nam Ninh thì bệnh bình phục.
Ông viết: Một kẻ tài hèn, mấy năm nay đã hiến tấm thân cho nước. Ngày đêm rong ruổi há quản khó nhọc. Trải qua bao việc gian nan mà lòng trinh chính, đâu thiếu tễ thuốc cay ngọt. Gian trinh do câu Kinh Dịch : “Lợi gian trinh “ lợi ở sự gian nan mà giữ được đạo trinh chính. Tân can là tễ thuốc cay mà ngọt, nói ví gặp sự gian nan mà hạnh thông. Mọi sự tốt lành đều nhờ ở khuôn tạo phú cho.”Quân” là cái khuôn đồ gốm , ngày xưa ví tạo hóa đúc nặn ra muôn vật, như cái khuôn nặn ra đồ gốm nên còn gọi tạo hóa là “đại quân” hay “hồng quân” (khuôn lớn). Thơ Thiệu Ung đời Tống: “Hồng quân phú dữ bất vi bần”. Khuôn tạo phú cho không phải nghèo. Văn học Việt Nam còn gọi: khuôn thiêng, khuôn xanh, khuông tạo. Nay “súc “gặp “lý “cần phải nuôi dưỡng chính đạo. Tiểu súc và lý là hai quẽ trong Kinh Dịch. Súc là súc tích, lý là thích nghi còn hàm nghĩa “lý nguy”dẫm chân lên sự nguy hiểm. Kinh Dịch quẽ lý: “ Lý hổ vĩ “, dẫm chân lên đuôi hổ.. Ở đây súc ví với sức khỏe dồi dào, lý ví với gặp sự đau ốm. Khi “tổn” được “ích” ắt một ngày được hồi xuân .Tổn và Ích là hai quẽ Kinh Dịch, tổn là tổn thất, ích là lợi ích. Câu trên từ mạnh khỏe đến đau ốm, câu dưới từ đau ốm đến mạnh khỏe. Xưa nay hoạn nạn thường nảy sinh trí tuệ. Mạnh Tử viết : “Nhân chi hữu đức tuệ thuệt trí giả, hằng tồn hồ chẩn tật” . Người ta mà có được trí tuệ của đạo đức và học thuật thường là do hoàn cảnh hoạn nạn tạo nên. Tiết chế, thanh tu ấy là điều bảo toàn chân khí của mình.
TRONG LÚC BỆNH TỰ THUẬT
Tôi hèn mấy độ nước dâng thân,
Rong ruổi ngày đêm quản nhọc nhằn.
Trung chính gian nan thuốc ngọt đắng,
Tốt lành muôn sự tự trời ban.
“Súc” rồi “lý” đến nuôn chính đạo,
“Tổn” được ích” theo hẳn tốt xuân,
Hoạn nạn xưa nay sinh trí tuệ,
Tiết chế, thanh tu thuốc bảo chân.
BệNH THUẬT
Nô độn niên lai hứa quốc thân,
Trì khu dạ dạ khởi hiềm tần.
Gian trinh phi phạp tân cam tễ,
Cát lợi toàn bằng phú dữ quân.
“Súc” hữu “lý” thời tu dưỡng chính,
“Tổn” phùng “ích” xứ tiện hồi xuân.
Do lao chẩn tật hằng sinh tuệ,
Tổn tiết, thanh tu thỉ bảo chân.
Người xưa nói có bốn giống thú thiêng: Long, Lân, Qui, Phụng, không phải là nói nhảm. Hổ báo mà hiền lành thì không cần xua đuổi. Khi vào cửa Nam Quan đang độ tháng Hai. Lúc về Tây Lĩnh thì đã tháng Chín. Rừng sâu núi thẳm mà như đất bằng. Suốt đêm người đi như nghỉ trên đường phẳng. Lại mong triều thịnh được thêm một việc tốt nữa. Không để nhà buôn nhiều hơn người làm ruộng. Bài thơ này làm trên đường vể tác giả ghi những cảm nghĩ tản mạn. Long, Lân, Qui, Phụng là bốn giống thú quí hiếm được vẽ trên các điện thờ, chỉ có Qui loài rùa lớn lâu lâu lại nổi lên trên hồ Hoàn Kiếm còn lại ba con kia thì chẳng ai thấy, rồng thì có hiện tượng rồng hút nước là một cơn lốc xoáy nhìn từ xa, con kỳ lân mình ngựa đầu rồng vẫy cá, có sừng giữa trán, chỉ xuất hiện khi có thánh nhân sinh ra, thời Minh Thành Tổ có nước đi cống kỳ lân cho Trung Quốc, nhưng dọc đường kỳ lân chết đi vì không muốn thấy mặt Vĩnh Lạc đại đế tàn bạo, giết trung thần cả mười họ, Nguyễn Du có viết bài thơ Mộ Kỳ lân. Phụng hay phượng, tại Nghệ An ngày xưa có giống chim phượng hoàng đất còn gọi là Cái Cắng. Có người thân mang ra làng Nghi Tàm tặng, Hồ Xuân Hương có làm bài thơ Cái Cắng đánh nhau. Tốn Phong tả Cổ Nguyệt đường có câu: “Biếc rụng cành ngô sân phượng múa. Vờn bay lối trúc ngõ chuyền oanh”.. Hổ báo không phải là giống thú thiêng vì đến đâu cũng bị người xua đuổi. Cuộc đi sứ báo tang của Ngô Thì Nhậm mất hơn 6 tháng đi về, đường đi dọc sông Tương và đến Bắc Kinh bằng phẳng, ông chợt có ý nghĩ không nên để người đi buôn nhiều hơn người cày ruộng, vì ngày xưa phương tiện thô sơ, thóc lúa làm ra ít mà qua nhiều tay trung gian buôn bán sẽ làm vật giá lên cao.
CHỢT NGÂM
Thú quý : Tứ Linh chẳng đặt bày,
Hiền lành hổ báo chẳng xua đi.
Tháng Hai vào cửa Nam Quan đó,
Tháng Chín lúc về Tây Lĩnh đây.
Núi thẳm rừng sâu như đất phẳng,
Suốt đêm đo nghỉ thẳng đường đi.
Lại mong triều thịnh thêm điều tốt,
Chẳng để nhà buôn hơn kẻ cày.
NGẨU NGÂM
Tứ linh vi quý quả phi vu,
Hổ báo từ tường bất dụng khu.
Tòng nhập Nam Quang phương nhị nguyệt.
Việt toàn Tây Lĩnh hữu tam thu.
Thâm sơn tuyệt nghiễn như bình địa.
Triệt hạ hành nhân ngọa thản cù.
Hoàn dục trị triều đa nhất sự.
Bất tương cổ hộ thắng canh phu.
TÀI LIệU THAM KHẢO:
Ngô Thì Nhậm Toàn tập. Nxb Khoa Học Xã Hội. Hà Nội 2003 Tập 3 Hoàng Hoa Đồ Phả.
Thơ Ngô Thì Nhậm, Văn Học Hà Nội 1986
Tinh Tuyển Văn Học Việt Nam Tập quyển 1 Nxb Khoa Học Xã Hội Hà Nội 2004 Ngô Thì Nhậm tr 821-884.
Paris tháng 4-2019
PHẠM TRỌNG CHÁNH
* Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne.