Năm Giáp Ngọ, biết chúc Biển Đông những gì?

09 Tháng Giêng 201412:00 SA(Xem: 15667)

Năm Giáp Ngọ, biết chúc Biển Đông những gì?

(trích từ http://www.nhatbaovanhoa.com)

LÝ KIẾN TRÚC

 image021

Xuất Chiêu Chiến Hạm Nộ Kình Ngư

Thủy Chiến Phong Ba Mãn Đình Hồng

 I. Trước và sau cuộc chiến Việt Nam

 

Nhắc đến thời chiến tranh Việt Nam, dư luận thường chú ý đến cuộc chiến trên bộ nhiều hơn trên sông ngòi, biển cả. Hải quân tuy đóng vai trò yểm trợ hỏa lực cho của quân bộ chiến, pháo hạm Biển Đông vẫn không phải là lực lượng xung kích chính bởi chưa có trận tiếp cận nào từ biển đánh vào đất liền.

 

Có lẽ vì như vậy, hầu như chính quyền hai miền nam bắc Việt Nam trước đây không đầu tư lớn vào lực lượng hải quân cai quản Biển Đông về lâu về dài. Miền nam Việt Nam có hay chăng chỉ tuần tra duyên hải, ngoài khơi ỷ vào Hạm đội Bẩy. Miền bắc tập trung toàn bộ sức lực vào các binh đoàn nam tiến qua đường mòn Hồ Chí Minh. 

 

Nhắc tới Biển Đông tất phải nhắc tới các sự kiện ở Vịnh Bắc Bộ và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Suốt thời gian diễn ra chiến cuộc Việt Nam, Biển Đông chỉ xẩy ra vụ Maddox ở Vịnh Bắc Bộ năm 1964, vụ xâm nhập Vũng Rô Phú Yên (Trung Việt) năm 1965 và trận thủy chiến Hoàng Sa năm 1974 (cận kề dưới vĩ tuyến 17).

 

Vụ Maddox là cái cớ mở màn chiến dịch không tập miền Bắc; vụ Vũng Rô thúc đẩy hải quân Mỹ dính líu sâu hơn vào chiến cuộc; vụ Hoàng Sa, Hạm Đội Bẩy với sức mạnh vô địch khoanh tay nhìn Hoàng Sa như một “ngoại cảnh”! Sau năm 1975, vụ Gạc Ma năm 1988 (Johnson South Reef) chính là mở màn cho mặt trận Trường Sa giữa Hà Nội và Bắc Kinh sau này.

 

1. Hoàng Sa: lãnh thổ bất khả phân ly.

Năm 1909, Chính quyền Quảng Đông cho Paracels là đất vô chủ, bắt đầu tranh chấp chủ quyền.

Ngày 29 tháng 2 năm 1933, năm Bảo Đại thứ 13 (30Mars 1933), Vua Bảo Đại ra Dụ số 10 quyết định nhập các Cù lao Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên; về phương diện hành chánh các Cù lao này thuộc dưới quyền quan tỉnh.

 

image023-content

 

Bản chụp trang bìa Bạch thư về Hoàng Sa – Trường Sa của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa - Sàigon năm 1975 và Dụ số 13 Nam Triều Quốc Ngữ Công Báo (trang 44) chiếu chỉ về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa trực thuộc tỉnh Thừa Thiên do Vua Bảo Đại ấn ký ngày 29/2/1933. Tư liệu của Văn Hóa Magazine

 

Ngày 11 tháng 3 năm 1945, Vua Bảo Đại tuyên bố Quốc gia Việt Nam độc lập có chủ quyền toàn bộ lãnh thổ từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau trong đó bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Bảo Đại là Quốc Trưởng. Lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là Quốc kỳ.

Tháng 12 năm 1946, quân Tưởng Giới Thạch đến giải giáp quân đội Nhật ở Hoàng Sa, Trường Sa, chính quyền Pháp cũng cho quân đóng xen kẽ. 

Đầu năm 1947, Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) đặt tên lại toàn bộ các đảo tại Hoàng Sa & Trường Sa, trong đó tên đảo lớn nhất Trường Sa là Thái Bình, tên một chiến hạm đến đảo cuối năm 1946.

Năm 1949, quân Tưởng bị Mao Trạch Đông hất ra Đài Loan.

Năm 1950, quân Tưởng bỏ Hoàng Sa kéo quân về trấn thủ Đài Loan (Formosa); thừa cơ Mao chiếm Hoàng Sa đông trong đó có đảo Phú Lâm là đảo lớn nhất. 

Năm 1951, Hội nghị 51 nước diễn ra ở San Francisco, Thủ tướng Trần Văn Hữu cầm đầu phái bộ Quốc gia chính phủ Bảo Đại dõng dạc xác nhận trước quốc tế chủ quyền về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam, toàn thể hội nghị không có nước nào phản đối, có vài nước phe CHCN đòi để cho Trung Quốc nhưng hội nghị không đồng ý.

Năm 1954, sau Hiệp định Genève Pháp chuẩn bị rút toàn bộ khỏi Đông Dương, chính thức trao trả quần đảo Hoàng Sa dưới vĩ tuyến 17 cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.

Sau tháng 4 năm 1956, quân Pháp cuối cùng rút ra khỏi Đông Dương, thừa cơ Đài Loan chiếm đảo lớn nhất của Trường Sa là đảo Itu Aba mà họ gọi là Thái Bình. Sử gia Nguyễn Nhã gọi là đảo Ba Bình.

Ngày 27 tháng Giêng, 1973, Hiệp định đình chiến Paris ký kết kết thúc cuộc chiến Việt Nam trên bộ. Tháng 9/1973, VNCH ra tuyên bố sáp nhật đảo Nam Yết và Thái Bình ở Trường Sa cùng 10 đảo khác thuộc vào lãnh thổ trên đất liền (tỉnh Phước Tuy- BBC) nhằm giữ quyền khai thác nguồn lợi thiên nhiên như dầu.

Ngày 11/1/1974, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra công bố “xác nhận chủ quyền của nước này Nam Sa, Tây Sa, Trung Sa và Đông Sa và toàn bộ các nguồn lợi tự nhiên xung quanh là thuộc về CHND Trung Hoa”. (BBC 23/1/2013)

Ngày 19/1/1974, Quân Mao chiếm hẳn nhóm đảo Hoàng Sa đông. Trong một bài viết trước đây khá lâu, tác giả tạm phân chia quần đảo Hoàng Sa tính từ 112o Bắc kéo xuống nam, bên trái là cụm đảo Hoàng Sa tây, bên phải là cụm đảo Hoàng Sa đông. Hướng tây nhìn về cù lao Ré, hướng đông nhìn về đảo Luzon đất Phi.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hải quân CSVN đưa quân ra tiếp thu các đảo ở Trường Sa do quân đội VNCH trấn giữ.

 

2. Nhắc lại, một năm sau ngày ký hiệp định Paris, ngày 19/1/1974, Trung Quốc điều động hạm đội của họ từ đảo Phú Lâm, đổ bộ cắm cờ lên một số đảo Hoàng Sa tây, cho tầu cá võ trang khiêu khích kích động sát sườn chiến hạm hải quân VNCH.

 

Các chiến hạm VNCH tiến vào vũng biển Nguyệt Thiềm (Hoàng Sa tây) đưa người nhái đổ bộ lên đảo Quang Hòa, súng nổ. Tuân theo bút tích chỉ thị của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, chiến hạm VNCH khai hỏa dẫn tới trận hải chiến lịch sử. Trong trận này, chiến hạm VNCh bắn chìm soái hạm Trung Quốc mang theo tướng tư lệnh Ngụy Minh Sâm. Bên VNCH hy sinh hạm trưởng Thiếu tá Ngụy Văn Thà.

Ý đồ nuốt trọn Hoàng Sa tây từ lâu ấp ủ trong tham vọng khống chế Biển Đông của Bắc Kinh. Lợi dụng hiệp định Paris chưa ráo mực, Quân ủy Trung ương Trung Quốc gồm Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình, Tô Chấn Hoa đề nghị chiếm nốt Hoàng Sa tây do Việt Nam Cộng Hòa đang trấn giữ; Mao Trạch Đông đồng ý chiếm trọn.

Vào thời điểm này, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gác ngoài tai khoản “Sài gòn và Chính phủ Lâm thời miền Nam Việt Nam được kêu gọi hòa giải dân tộc, tổ chức bầu cử, chấm dứt xung đột võ trang”, ông mải mê “giành dân chiếm đất cắm cờ” với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, bỏ luôn kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa do Đại tướng Cao Văn Viên đề xuất. (*) Gần đây, tác giả có viết một bài trên tờ tạp chí Văn Hóa Magazine ”Thủy chiến bất phân thắng bại, tại sao rút?

 

image024

Nhóm đảo Hoàng Sa tây bên trái 112o Bắc, nơi diễn ra trận hải chiến lịch sử ngày 19/1/1974. Tài liệu phóng đồ của Trần Đỗ Cẩm. Chú thích của Văn Hóa Magazine.

 

Ngày 14 tháng 3 năm 1988, hải quân Trung Quốc xua chiến hạm xuống nam Biển Đông bao vây, bắn phá bộ đội CSVN đồn trú trên đảo Gạc Ma (Johnson South Reef), bãi Collins (Johnson North Reef) và đụn cát Len Đao (Lansdowne Reef nằm trong cụm đảo Sinh Tồn Trường Sa), tàn sát 64 sĩ quan thủy thủ, bắn chìm 3 vận tải hạm của hải quân Bắc Việt. Hà Nộit rất đau đớn trận này.

Hai trận Hoàng Sa tây và Gạc Ma đi vào lịch sử Biển Đông của Việt Nam.

 

Năm 1994-1995, Trung Quốc chiếm bãi đá Vành Khăn (Mischief Reef). Năm 2012, Trung Quốc thừa thắng chiếm luôn bãi đá Scarborough Reef cách Palawan-Philippines khoảng 100km. Cả hai bãi đá này đều nằm trong vùng tranh chấp giữa Trung Quốc, Việt Nam và Philippines.

 

II. Liệt cường muốn gì?

1. Nhìn thấy tính chất nguy hiểm về các hoạt động lấn chiếm du côn của Trung Quốc đội lốt dưới dạng tranh chấp chủ quyền, nhất là ở khu vực quần đảo biển Trường Sa, 10 nước trong khối ASEAN hoảng hốt ngồi lại với nhau tính kế.

 

Năm nước nhẩy vào tranh chấp trực tiếp là Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Taiwan; trong năm nước đó, Việt Nam chịu nhiều áp lực nhất của Trung Quốc, sau mới đến Philippines. Riêng Taiwan bình chân như vại ở đảo lớn Ba Bình. Cho đến nay, Philippines may mắn hơn Việt Nam, chưa phải trả giá bằng máu và khói súng. Có phải Trung Quốc nương tay với Phi chăng? Không, vì bên cạnh Phi là Hiệp ước quốc phòng hỗ tương (Liên minh phòng thủ) Mỹ-Phi 1951 còn sờ sờ.

 

Phản ứng của Mỹ đối với hành xử của Trung Quốc ra sao? Cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton nói: “Mỹ không tham dự vào tranh chấp ở Biển Đông, cũng không đứng về phía nào, chỉ bảm đảm an ninh con đường hàng hải quốc tế”. Tuyên bố cho thấy Mỹ thừa hiểu cách hành xử của Trung Quốc không chừa một hành động hung bạo nào chỉ là chiến thuật áp chế giành thế chủ động ở Biển Đông, nó được coi như cách gởi “thông điệp cứng” tới các nước nhỏ nhằm cảnh cáo xu hướng nghiêng dần về Mỹ.

 

Tất nhiên Mỹ cũng không vừa, một mặt vận động dư luận ASEAN cho thấy việc Trung Quốc tự vẽ đường lưỡi bò 9 đoạn đòi chủ quyền 85% diện tích Biển Đông rõ ràng là kiểu mới của chủ nghĩa đế quốc thực dân, thay vì mang lính đi xâm lược đất đai, mang hải quân đi “tuyên bố chủ quyền”. Chủ nghĩa đại dương này va chạm trực tiếp nền an ninh và quyền lợi chung của các quốc gia ven biển Đông Nam Á; một mặt Mỹ đóng vai “trung lập” không đối đầu quân sự, cũng không đứng về phe nào.

 

Bên cạnh các diễn đàn đa phương, Đối thoại Shangri-La kết thúc, Hội nghị ARF 2010 bế mạc, với chiến thuật “ngoại giao pháo hạm”, cung hiến kỹ thuật tối tân thăm dò nguồn mỏ, từng bước Mỹ nhẩy sâu hơn nữa vào Biển Đông kéo theo đồng minh trợ lực, đưa chiến hạm vào thăm Sàigon, Cam Ranh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Manila, Singapore… Chiến thuật này tỏ ra khá hữu hiệu bẻ gẫy chiến thuật “dụ khị” song phương của Trung Quốc.

 

Thế nhưng, song phương bí mật vẫn diễn ra giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trung Quốc kéo Việt Nam cùng phản ứng: “không quốc tế hóa vấn đề biển Nam Hải”. Phùng Quang Thanh, Nguyễn Tấn Dũng, Lê Khả Phiêu liên tục khẳng định: “Không thay đổi nguyên trạng Biển Đông, nước nào giữ được chỗ nào thì giữ lấy, chỗ nào còn trong vùng tranh chấp thì “đối thoại” với nhau”. Nguyễn Tấn Dũng Thủ tướng CSVN còn cả quyết quyền chủ quyền: “Việt Nam là nước trấn giữ được nhiều đảo nhất trong quần đảo Trường Sa”.

 

2. Chiến thuật

Chiến thuật “vừa đánh vừa đàm” của Trung cộng là một trong nhiều biện pháp vũ lực khống chế Biển Đông. Chiến thuật “đánh” này điển hình như cho toán tầu cá võ trang 10-15 thước, liều mạng bao vây tàu thăm dò USNS Impeccable chỉ cách mũi tầu vài mét hôm 8/3/2009, ngăn cản tầu này đang thăm dò đại dương ở hướng tây nam, cách Hải Nam 75 dặm (120km), buộc Impeccable phải quay lui.

image027-content


image029-content

Lần thứ hai 5/12/2013, Trung cộng cho chiến hạm tùy tùng mẫu hạm Liêu Ninh nghênh mũi cản ngang đầu tuần dương hạm USS Cowpens chỉ cách mũi tầu khoảng 100 yards (khoảng 91mét) ở hướng đông nam-đông. 

Không tin tức nào nói rõ USS Cowpens cách đảo Hải Nam bao nhiêu dặm, hoặc là xâm lấn vào khu vực đặc quyền bao nhiêu dặm, nhưng hai phía đều đưa ra lập luận bảo vệ hoạt động của mình. Trung cộng nói rằng rằng tầu Mỹ “bám theo đuôi Liêu Ninh quấy rối”. Mỹ nói rằng hành động của chiến hạm Trung cộng là “vô trách nhiệm mang tính kích động”. Và cũng không biết hai chiến hạm “đối thoại” với nhau những gì trong lúc “ngang đối đầu”, sau cùng USS Cowpens quay lui!.

 

image031-content

Vị trí hai chiến hạm Mỹ- Hoa “ngang đối đầu” ở hướng đông-đông nam không rõ cách đảo Hải Nam bao xa và Liêu Ninh đang ở đâu?

 

Sự kiện hai cuộc đụng độ giữa Impeccable với tầu cá “đặc công biển” vũ trang, Cowpens với chiến hạm Trung cộng không phải là cuộc “tao ngộ chiến” hay “thách thức chiến” mà là khúc dạo đầu “Prelude Navy Sea” thử lửa có tính toán. Mỹ đưa tầu thăm dò, Trung cộng đưa “đặc công biển”, Mỹ đưa tuần dương hạm “bám theo đuôi Liêu Ninh”, Trung cộng đưa chiến hạm “ngang đối đầu”.

 

Vấn đề là hai con hổ biển có ý định thực sự “đối đầu” với nhau không, hay trong cuộc thử lửa bên này buộc bên kia thành một “đối đầu” trước. Vấn đề là không bên nào dại dột nổ súng trước. Hai con hổ biển nuốt nước miếng phục thế “rập rình”.

 

Các luật gia quốc tế về biển hiện vẫn chưa chỉ rõ biên độ hải phận quốc tế và 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế tính từ bờ có khoảng cách “an toàn” là bao nhiêu dặm, bao nhiêu mét, không như vùng phi quân sự có kẽm gai cột mốt qui định rõ trên đất liền. Ranh giới khoảng cách biển an toàn còn mơ hồ, do đó các bên sẽ còn phải ngồi với nhau để bàn về vấn đề này. 

 

Tuy nhiên, xét về thái độ ứng xử của Mỹ qua hai trận “đụng”, Mỹ biểu tỏ sự khôn khéo khi “nhường một bước” trước sự hung hăng “mang tính kích động” (lời Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel) của một anh phú gia có vũ khí trong tay. 

 

3. Chiến lược

Tôi tạm chia Biển Đông thành bốn vùng biển khác biệt. Vịnh Bắc Bộ, biển và đảo Hoàng Sa, biển và đảo Trường Sa, biển và đảo nam-tây nam Trường Sa (tính từ mũi Cà Mau kéo tới Hà Tiên, Phú Quốc giáp ranh Vịnh Thái Lan).

 

Vịnh Bắc Bộ là vùng biển có độ sâu cạn khoảng 60mét, rộng khoảng 130,000 km2 kể như vùng đặc quyền an ninh giữa Việt Nam và Trung cộng thông qua Hiệp định năm 2000. Toàn cảnh Vịnh Bắc Bộ không có cứ điểm đảo quan trọng ngoài đảo Bạch Long Vĩ; từ Hải Phòng, Thanh Hóa, Vinh nhìn thẳng ra hướng đông là đảo Hải Nam.

 

Trong cuộc phỏng vấn của nhà báo lý Kiến Trúc với Đại sứ Lê Công Phụng Thứ trưởng Ngoại giao, cựu Trưởng ban biên giới, vào tháng 9, 2008, nhà báo có đề cập đến việc Việt Nam phải ký vội Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ năm 2000 chịu mất cả chục ngàn km2 biển do sức ép của Trung cộng nhằm bảo vệ hướng tây căn cứ tầu ngầm nguyên tử xây dựng ở Hải Nam.


image033-content

Vịnh Bắc Bộ phân chia theo Thỏa ước giữa Pháp và nhà Thanh năm 1887. Source Google.

 

image035-content

Vịnh Bắc Bộ phân chia theo Hiệp định Phân định vùng đánh cá chung Hà Nội và Bắc Kinh năm 2000. Theo hiệp định này, VN mất hơn 10,000 km2 biển. Source Google.

 

Phía nam-đông nam Hải Nam là quần đảo Hoàng Sa (cách khoảng 230 hải lý). Hoàng Sa ví như phòng tuyến Maginot vừa bảo vệ quân cảng Hải Nam vừa khống chế con đường ngang chiến lược lao thẳng ra eo biển Luzon Philippines - Heng Chun Formosa. Hoàng Sa là vị trí quân sự tiền tiêu tiến về phương nam. Không chiếm lĩnh Hoàng Sa không thể thực hiện chính sách Hán hóa Biển Đông. Hoàng Sa cách cù lao Ré 123 dặm.

 

image037-content

Biển và quần đảo Hoàng Sa tây và đông rộng khoảng 15,000 km2. Source Wikipedia.

 

So với vùng biển Hoàng Sa, vùng biển Trường Sa rộng lớn hơn (khoảng 180,000km2), phức tạp hơn. Tổng diện tích đảo, đá, đụn, cồn, bãi nổi bãi chìm chỉ có khoảng 11km2, cho nên, việc di chuyển qua lại các quần thể đảo liên đới kể như rất ngắn đối với tốc độ duyên tốc đỉnh. (2) Từ Cam Ranh đi tới Trường Sa khoảng hơn 500km.

 

Dụng thế liên hoàn một số đảo liên đới, chỉ cách nhau độ 10 km, thiết lập một vành đai hỏa lực trung tâm, biến nó thành pháo lũy liên hợp uy hiếp biển đảo chung quanh, trận liệt nằm trong tầm ngắm của pháo. Nếu Gạc Ma, Cô lin, Len Đao quan sát trực diện đường đi từ Singapore tới Luzon, thì Scarborough quan sát trực diện Manila, cách vịnh Subic và bờ biển Manila không đầy 100km.

image039-content

 

Biển và quần đảo Trường Sa rộng khoảng 180,000 km2. Source Wikipedia.

 

Không có gì ngạc nhiên vì sao Trung cộng cắn răng trước con mắt dè chừng của quốc tế khi ra tay tàn sát 64 sĩ quan thủy thủ vận tải của hải quân Bắc Việt để chiếm cho bằng được đảo Gạcma, Cô Lin, Len Đao ở mạn bắc Trường Sa (Mất Gạc Ma, VN cố thủ được Cô Lin và Len Đao), và vì sao Trung cộng quyết tâm “cắm dùi” ở Scarborough Reef mạn đông bắc Trường Sa.

 

image041-content

Chấm đỏ trái: Scarborough; chấm đỏ phải: Manila. Chú thích của Văn Hóa Magazine.

 

Với địa quân sự bao la ở Biển Đông, Trung cộng phải mua ngay cái hàng không mẫu hạm thế hệ cũ của Nga về tân trang. Tuy nhiên Liêu Ninh chưa phải là mẫu hạm tiêu biểu của Trung cộng, nhưng thích hợp với biển Hoàng Sa với diện tích khoảng 15,000km2. Liêu Ninh là căn cứ nổi di động tôi tạm gọi là Liêu Ninh I khá lợi hại trong việc phòng thủ căn cứ tầu ngầm nguyên tử Hải Nam, ngăn chận ra vào eo biển Luzon-Cao Hùng. Tháng 1 vừa qua soái hạm Liêu Ninh I đã hoàn tất nhiệm vụ chỉ huy, điều hợp hạm đội hợp đồng tác chiến ở biển Hoàng Sa. 

 

Với vị trí xung yếu của biển Trường Sa lại qui tụ quần thể đảo phức hợp, mặt trận Trường Sa khác hẳn Hoàng Sa. Trường Sa cần một hàng không mẫu hạm khác, tối tân hơn, tôi tạm gọi là Liêu Ninh II, nó sẽ bám ven bờ Subic-Manila, dựa vào Scarborough làm pháo đài trợ chiến, tung chiến hạm, chiến đấu cơ tiến vào con đường biển ngoằn nghèo xuyên qua vịnh Leyte ra Thái bình dương. (3)

 

image043-content

Vị trí xung yếu của quần đảo Trường Sa gần đảo Palawan, Manila. Source Google.

 

Trong Thế chiến Thứ hai (10/1944), lực lượng phía Nam của tướng Shoji Nishimura và tướng Kiyohide Shima xứ sở Phù Tang ẩn trú ở các căn cứ bí mật quần đảo Trường Sa (Ba Bình), tầu ngầm dấu dưới hang động ngầm, từ nơi này hải quân Nhật xuất kích tấn công hải quân Mỹ ở vịnh Leyte ven bờ Tây thái bình dương, nhưng thất bại. (4)

 

Một vị trí trung tâm Trường Sa là đảo Thái Bình (Itu Aba Island), Sử gia Nguyễn Nhã gọi là Ba Bình, đảo lớn nhất quần đảo Trường Sa. Năm 2012, Đài Loan đã cho xây thêm pháo đài súng cối tầm xa, đại bác tầm gần, dàn rada, phi trường quân sự C130 trên đảo này và lập doanh trại đồn trú cho Thủy quân Lục chiến.

 

Dù Ba Bình vẫn còn nằm trong vòng tranh chấp của 4 nước, nhưng Việt Nam và Trung cộng hầu như không phản ứng mạnh về việc Đài Loan tăng cường quân sự ở đây. Chưa biết rõ ý đồ của Đài Loan muốn cái gì, nhưng việc xây pháo đài ở Ba Bình không thể tách rời với việc bảo vệ tài sản dầu mỏ đang có triển vọng khai thác. 

 

Các cuộc gặp gỡ giữa Việt Nam và những nhân vật “nắm giữ chìa khóa Đông Á” đều hướng vào con đường hàng hải mà Trường Sa là khâu yết hầu lưu thông tàu bè qua lại với mật độ đông nhất thế giới. (Mỗi ngày có ít nhất 270 lượt tàu đi qua quần đảo Trường Sa- theo Wikipedia).

 

image045

TT Putin và CT Trương Tấn Sang 12/11/2013

 

image047

TT Lý Khắc Cường và TT Nguyễn Tấn Dũng 14/10/2013

 

image049

TT Nguyễn Tấn Dũng và TT Shinzo Abe 14/12/2013

 image051

NT John Kerry và TT Nguyễn Tấn Dũng 16/12/2013.

 

III. Bảo vệ lãnh thổ chủ quyền, bảo vệ tài sản dầu khí

 

1. Vũ đài Biển Đông: từ tranh chấp biển đảo đến tranh chấp dầu khí

Dù các bên kêu gọi các bất đồng trên biển phải được giải quyết trong “niềm tin chiến lược”, nó vẫn không che đậy được cơn sóng ngầm tranh chấp chủ quyền lịch sử biển đảo, quyền chủ quyền nguyên trạng, tái nguyên trạng. Viễn ảnh tươi sáng của nguồn năng lượng dầu mỏ, nguồn hải sản và các loại tài nguyên khác là một trong những nguyên nhân chính khởi phát vũ đài Biển Đông.

 

Nếu nhìn lại hoạt động “bên lề” của Trung Quốc ở Hội nghị 1951 San Francisco, trận cưỡng chiếm Hoàng Sa 1974, trận tàn sát Gạc Ma 1988, khởi điểm xuyên suốt kế hoặch vươn xa hơn nữa biển xanh phương Nam của Bắc Kinh.

 

Việt Nam cố thủ giữ được một số đảo quan trọng như Bạch Long Vĩ ở Vịnh Bắc Bộ và gần 30 đảo ở Trường Sa. Tuy nhiên cũng mất một số đảo bãi như đảo đá Hoa Lau 1983, mất bãi Kiêu Ngựa 1986, mất đá Kỳ Vân, mất đá Suối Cát 1987, mất bãi Thám Hiểm và đá Én Ca 1999 về tay Malaysia).

 

Căng thẳng nhất vẫn là Philippines mất Vành Khăn (Mischief Reef) 1994-1995, mất Scarborough Reef năm 2012. Đối với Philippines hai đảo này vừa có vị trí xung yếu vừa tiềm tàng mỏ dầu. Đó có thể cũng là việc vì sao Trung cộng quyết chiếm Scarborough mà không chiếm đảo Trường Sa lớn của Việt Nam?

image053-content

 

Lược đồ vị trí một số đảo thuộc Biển Đông mà Malaysia chiếm đóng và tranh chấp chủ quyền.. (Theo Wikipedia) 

Vị trí Trường Sa lớn không phải là vị trí chiến lược như Scarborough. Cho đến nay gần như Scarborough, Vành Khăn trở thành “lãnh thổ chủ quyền tái nguyên trạng” của Trung Quốc.

 

Phản ứng về tầm mức quan trọng vụ Scarborough, ngày 5/6/2013, Đô Đốc Samuel Locklear, Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ tuyên bố: "Chúng tôi sẽ phản đối việc bất kỳ ai dùng vũ lực để thay đổi trạng thái nguyên trạng (status quo)”…Ông nói thêm: "Chúng ta cần duy trì những gì ở đâu thuộc ai thì vẫn như thế cho tới khi chúng ta có được bộ qui tắc ứng xử hoặc một giải pháp mà các quốc gia liên quan chấp nhận một cách hòa bình."

 

Phản ứng của Mỹ chỉ là phản ứng sau việc “cái cầy đặt trước con trâu”!

 

Những cuộc lấn chiếm bật ra tranh luận về bản chất chiến lược của Trung cộng. Trong các cuộc hội thảo quốc nội lẫn quốc tế có cả Trung cộng, Mỹ tham dự, Việt Nam đã nhiều lần bẻ gẫy lập luận chứng cứ lịch sử của học giả Trung Quốc đưa ra đối với Biển Đông là vô giá trị.

 

Cuộc tranh chấp biển đảo thực tế đã bước sang giai đoạn tranh chấp mỏ dầu khí. Đây là giai đoạn Việt Nam phải đối đầu với nhiều thách thức, điển hình như vụ tranh chấp các lô khai thác dầu mỏ vùng Tư Chính-Vũng Mây, bồn trũng Nam Côn Sơn dù nó nằm trên thềm lục địa Việt Nam.

 

Giai đoạn mới của các quốc gia trực tiếp tranh chấp ở Biển Đông là giai đoạn vừa điều quân lính ra chiếm cứ, phòng thủ, xây dựng pháo đài, vừa tranh chấp vùng khai thác tài nguyên, vừa đàm phán song phương thỏa thuận lợi nhuận.

 

Trước cận ảnh dầu nổi lềnh bềnh trên thềm lục địa Việt Nam và Biển Đông, Việt Nam và Trung cộng tỏ ra rất nhạy bén trong các cuộc đàm phán song phương. Các cuộc họp thượng đỉnh giữa Nguyễn Minh Triết (2011) với Hồ Cẩm Đào, và mới đây ngày 19/6/2013, Trương Tấn Sang - Tập Cận Bình ký kết các văn kiện hợp tác về Biển Đông và Vịnh Bắc Bộ theo khuôn khổ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, hai bên cùng có lợi trên các lĩnh vực, nhất là về hợp tác kinh tế - thương mại; nhắc lại, trước đó, tháng 4, 2010, trong cuộc họp song phương giữa Nguyễn Tấn Dũng với Tổng Thống Philippines Gloria Macapagal-Arroyo, Dũng đẩy đưa mồi chài: win-win solution.

 

Tranh chấp quyền lợi khai thác dầu khí đã vượt qua mức tranh chấp biển đảo. Tháng 9 năm 1989, Trung cộng áp lực hai tập đoàn dầu khí Anh British Petroleum (BP) và Exxon Mobil không được cộng tác với Việt Nam trong một dự án thăm dò dầu khí ở bồn trũng Nam Côn Sơn nằm trên thềm lục địa Việt Nam.

 

Trong cuộc phỏng vấn của Nhà báo Lý Kiến Trúc với Đại sứ Michael Michalak tại Quận Cam hôm 10 tháng 10, 2008, ông Đại sứ nói rõ: “Chúng tôi phản đối việc Trung Hoa can thiệp vào việc các công ty của Hoa Kỳ tiến hành công việc kinh doanh của họ. Khu vực tư nhân, chuyện làm ăn, cần phải được phép tiếp tục hợp đồng với bất kỳ ai họ muốn. Giải quyết vấn đề là rất quan trọng và được quốc tế thừa nhận về tự do giao thương.”

 

Thế nhưng, cơ hội bằng vàng đã đến với Mỹ. Chẳng khác gì vụ Maddox “gài độ” năm 1965, BP và ExxonMobil “cáp độ” Việt Nam năm 1989. Trung Quốc nổi giận trước việc các đại công ty Mỹ làm ăn với Việt Nam. Phát biểu tại hội nghị Đối thoại Shangri-La 2010 hôm 05/06/2010, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Robert Gates nói: "Chúng tôi phản đối bất cứ hành động nào nhằm sách nhiễu các công ty của Mỹ cũng như của các quốc gia khác đang thực hiện hoạt động kinh tế hợp pháp (tại Biển Đông)."

 

Ngày 17 tháng 7, 2010, tại Hội nghị Asean Regional Forum (ARF) diễn ra tại Hà Nội, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton tuyên bố thẳng tuồn tuột quan điểm và chính sách của Hoa Kỳ đối với Biển Đông: “Tôi muốn nói ngắn gọn quan điểm của chúng tôi về vấn đề này. Hoa Kỳ, như mọi quốc gia, có lợi ích quốc gia trong việc tự do đi lại, tự do đi, ra vào vùng biển chung của châu Á, và tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Chúng tôi chia sẻ những lợi ích không chỉ với các thành viên ASEAN hoặc những người tham dự Diễn đàn Khu vực ASEAN, mà còn với các quốc gia gần biển khác và cộng đồng quốc tế rộng hơn.”

 

Tháng 5/2013, một động tác quân sự được coi là qui mô nhất của hải quân Trung Quốc khi điều động 3 hạm đội Bắc Hải, Đông Hải, và Nam Hải thao diễn thị uy ở Biển Đông, trong lúc phái đoàn của họ đi phó hội Đối thoại Shangri-La đang diễn ra tại Singapore. 

 

Ba chiến hạm Trung Quốc đã được điều đến chỉ trong vòng 5 hải lý cách Bãi Ayungin (bãi Cỏ Mây), nơi có khoảng một chục lính thủy quân lục chiến Philippines đang đóng quân trên một con tàu cũ mà Manila bị mắc cạn vào năm 1999 (BBC 27/31/5/2013).

 

Ngày 3 tháng 6, 2013, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam ông David Shear nhân chuyến viếng thăm Quận Cam, trong buổi nói chuyện tại Câu Lạc Bộ Văn Hóa Báo Chí ông thông báo công ty Chevron vừa tìm thấy mỏ dầu lớn tại vịnh Thái Lan gần đảo Phú Quốc thuộc thềm lục địa Việt Nam. (1) Thông báo tin này củng cố khả năng đầu tư của Mỹ vào Việt Nam ngày càng lớn. Lời tuyên bố của Đại sứ Shear cùng thời điểm ba chiến hạm thuộc lớp tối tân nhất của Hoa Kỳ tập trận ở Singapore.

 

image055

 

Ngày 3/6/2013, Đại sứ David Shear khi đến thăm Câu Lạc Bộ Văn Hóa Báo Chí Quận Cam ông thông báo công ty Chevron tìm thấy mỏ dầu ở gần Vịnh Thái Lan trên thềm lục địa Việt Nam gần đảo Phú Quốc. Photo: Source Google.

 

Ông Hank Tomlinson, Tổng giám đốc Chevron Việt Nam cho biết: “Chevron đang đàm phán với Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam về dự án khí ở ngoài khơi biển Đông trị giá 4 tỷ USD, trong đó Chevron sẽ góp 2,5 tỷ USD. Tính đến nay Chevron đã đầu tư 300 triệu USD làm công tác thăm dò.

Dự án nhằm cung cấp khí cho khu vực Mekong để chạy các nhà máy điện, đáp ứng nhu cầu điện năng. Nếu dự án sớm được Chính phủ phê duyệt, Chevron sẽ trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam từ trước đến nay” (theo EMSVN).

 

Nếu hai vụ BP và ExxonMobil Trung Quốc làm dữ thì đến vụ Chevron Trung Quốc im hơi lặng tiếng. Phải chăng Mỹ và Trung Quốc đã dọn được con đường đối tác với Việt Nam hay ngược lại Hà Nội đã “tranh thủ” làm ăn với hai siêu cường?

 

Nếu Mỹ dựa vào khả năng kỹ thuật và lợi nhuận trên nguyên tắc win-win solution thì Trung Quốc ỷ vào sức mạnh nước lớn áp chế nước nhỏ. Đó cũng là câu trả lời của làn sóng chống đối Trung Quốc rầm rộ ở trong nước Việt và hải ngoại. Lại càng “tội nghiệp” cho đảng CSVN tối tăm giữa hai lằn đạn; đối với “lửa gần nước xa”, phải cho phú gia Trung Quốc thuê rừng, bán mỏ Bauxite, cho trúng thầu hàng loạt hợp đồng béo bở để vừa hưởng lợi “nhóm lợi ích” vừa tránh cú đấm sau lưng.

 

image057-content

Ảnh bản đồ các lô khai thác dầu mỏ vùng Tư Chính-Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn nằm trên thềm lục địa Việt Nam.

 

Bơm sức cho ASEAN có sức mạnh trong đàm phán với Trung Quốc tiến tới thỏa thuận Bộ qui tắc cụ thể ứng xử Biển Đông (COC – tất nhiên trong đó phải có điều luật chung về khai thác mỏ dầu khí). Họp báo tại Hà Nội chiều 16/12/2013, Ngoại trưởng John Kerry thông báo Mỹ “hỗ trợ” 32,5 triệu đô la cho việc thực thi luật pháp hàng hải ở các nước Đông Nam Á; riêng với Việt Nam, ông nói rõ: “Chỗ nào có lợi thì hai bên (Mỹ-Việt) cùng làm”. Sau John Kerry, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe cũng vừa bơm 20 tỉ đô la cho ASEAN.

 

2. Giải pháp và viễn ảnh

Dù ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có nói bóng gió “cường quốc” nào đi nữa người ta vẫn hiểu vị trí an ninh và quyền lợi của Việt Nam-Biển Đông hiện phải đối mặt với tham vọng bá chủ Biển Đông của Trung cộng, chiến lược “xoay trục” lực lượng hải quân Mỹ về Châu á Thái bình dương và cường quốc Thái Bình Dương Nhật Bản đang khuếch trương sức mạnh vào Đông Nam Á.

 

 

Đi trước một bước, Trung Quốc đã là nước đưa ra giải pháp cùng hợp tác - cùng khai thác Biển Đông - hai bên cùng có lợi. Nước nào đầu tiên tham gia vào giải pháp này: Việt Nam và Trung cộng. Đây là chiến thuật “đầu vào kinh tế, đầu ra chính trị”.

 

Tháng 10/2013, đích thân Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng khai trương nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn ở tỉnh Thanh Hóa với mức đầu tư hơn 9 tỉ đô la, liên doanh giữa PetroVN, Kuwait và Nhật Bản. Nghi Sơn được xem là nhà máy lớn nhất Đông Nam Á. Tỉnh Thanh Hóa chỉ cách quân cảng Hải Nam chính đông khoảng hơn 300km.

 

Lý do rất hấp dẫn đối với các quốc gia ven biển, nếu tận dụng khai thác được các bồn trũng chứa mỏ dầu khí ở vịnh Bắc Bộ và Biển Đông, lợi nhuận trước mắt về chi phí vận chuyển sẽ tương tác với giá thành sản phẩm.

 

Các nhà máy Thanh Hóa, Dung Quất, Vũng Tàu, với công suất tổng thể hóa dầu và các phó sản lên đến hàng chục triệu tấn/năm, không kể đến việc bảo đảm an toàn năng lượng quốc gia, không kể đến việc cung cấp cho hai anh khổng lồ tiêu thụ là Trung cộng và Nhật bản, chỉ riêng ASEAN thôi, dầu thô cũng có thể ảnh hưởng đến thị trường APEC. Việt Nam trở thành nước xuất cảng dầu đầu tiên ở Đông Nam Á.

 

Một góc cạnh của giải pháp cho một Biển Đông hòa bình không thể không tính tới việc hiện đại hóa lực lượng quân sự, nặng nhất là hải-không quân.

 

Động tác quốc phòng mới đây của Việt Nam tiếp nhận hai nguồn “viện trợ” vũ khí “không sát thương” của Mỹ và Nhật, mua vũ khí “sát thương” của Nga, thực hiện tuyên bố song phương hôm 14/11/2013 giữa Trương Tấn Sang và Putin ký hợp đồng thăm dò-khai thác dầu khí ở thềm lục địa, thực hiện hợp đồng song phương giữa Hà Nội và Bắc Kinh cùng khai thác dầu mỏ vịnh Bắc Bộ (nhấn mạnh: ở khu vực còn đang tranh chấp), cho thấy chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam đã minh chứng chủ thuyết “quốc tế hóa uyển chuyển Biển Đông” trong hòa bình và win - win solution.

 

Khai thác nhu cầu hiện đại hóa quân lực nhằm đáp ứng tình thế mới của nhiều quốc gia trong khối ASEAN; cường quốc xuất khẩu vũ khí kín tiếng nhất không ai khác hơn: “chú Gấu Nga”. Chú Gấu thực hành tốt câu “Ngao cò tranh nhau ngư ông đắc lợi”, vả lại Việt Nam tỏ ra rất ưa thích món vũ khí của chú Gấu nên thẳng tay chi ra hàng chục tỷ đô la sắm tầu ngầm, chiến hạm, chiến đấu cơ, ra đa, tên lửa,v.v…

 

Thời gian tiến tới ký kết COC cũng là thời gian cốt tủy để Trung Quốc và các bên (Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines) gia tăng lực lượng hải quân trên biển hầu có trọng lượng trên bàn hội nghị. Nó cho thấy vì sao Việt Nam thi đua phá kỷ lục qua việc mua “nhiều” mua “gấp” vũ khí Nga. (Tầu ngầm lớp Kilo 636, khu trục hạm lớp Gepard, chiến đấu cơ SU-MK2V, tên lửa Yakhont/SS-N-26, v,v… cùng chủng loại một số vũ khí Trung cộng sắm của Nga).

 

Gần đây khi sự kiện Trung cộng “nhận dạng phòng không” vùng biển Hoa Đông khiến quốc tế quốc nội om sòm, Việt Nam tảng lờ không ý kiến, phải chăng Bộ chính trị “phấn khởi” trước việc mặt trận Biển Đông đã được và đang “di dời” do sức hút của Hoa Đông, hay ở nơi nào khác, nhường chỗ cho một Biển Đông giầu có dầu khí và nỗ lực mưu tìm hòa bình trong mối tương tác đa phương. (5)

 

An ninh Biển Đông hay tài sản Biển Đông nếu bị một nước hay một liên minh quốc gia nào đó khống chế độc quyền chỉ tạo ra tình trạng mất cân đối cho toàn khu vực. Thế nhưng, không ai có thể lường được hết thời khắc lịch sử trước biến cố bất ngờ,

mọi giải pháp sẽ tan theo mây khói một khi khói súng đầu tiên của phe nào đó lỡ lẩy cò.

 

Năm Giáp Ngọ, xin chúc sóng Biển Đông đừng vạ vào câu Sấm:

Kình thôn đại chiến huyết do hồng”./

 

Lý Kiến Trúc

Văn Hóa Magazine- California tháng Giêng, 2014

 

(*)

- Đọc thêm bài viết chi tiết cùng tác giả trên Văn Hóa Magazine phỏng vấn cựu Thiếu Tá Nguyễn Văn Tý, nguyên trưởng phòng văn thư Bộ TTM nói về hồ sơ của Tướng Viên trình lên TT Thiệu.

- Đọc thêm chi tiết trận đánh trong sách “Can trường trong chiến bại” của Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại.

 

(1) Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được trong vòng 15 - 20 năm tới. Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại chưa khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung, (Biển Đông Wikileaks)

 

 (2) Theo thống kê của Bộ Ngoại giao Việt Nam và số liệu của Ts Nguyễn Hồng Thao Trường Sa có khoảng 140 đảo, đá, bãi…

 

(3) Năm 1941- 1944, quân Nhật từ Tokyo, bắc – đông bắc, tiến xuống nam, lập tổng hành dinh Okinawa - tràn xuống Formosa - chiếm Luzon - khống chế bán đảo Đông Dương - chiếm Malaysia, Miến Điện, Singapore, uy hiếp Tân tây nam, châu úc. Năm 1974- 2012, ngược lại, Trung cộng lấy Biển Đông (Nam Hải) làm bàn đạp tiến ngược lên đông bắc, thọc qua tây Thái bình dương.

 

(4) Nhớ lại năm 1944, khi Thống tướng Mc Arthur thất bại ở Philippines tháng 3/1942) chạy sang Melbourne Úc, ông nói câu lịch sử: ”I shall return”-Tôi sẽ trở lại! MacArthur đổ bộ lên đảo Leyte vào ngày 20/10/1944 tổng tư lệnh hai Hạm đội Thứ ba và Thứ bẩy thư hùng chiến thắng hạm đội hùng hậu số một của Nhật tại vịnh Leyte Gulf . Quân sử hải quân thế giới đánh giá trận Leyte Gulf là trận hải chiến lớn nhất thế giới. Sau chiến thắng quân Nhật ở Phi, dân Phi coi Thống Tướng McArthur như vị anh hùng dân tộc của họ.

 

(5) Thông tin về việc Trung cộng vẽ ra vùng “nhận dạng phòng không biển Hoa Đông” làm nhiều người giật mình. Thật ra, các nhà quân sự quốc phòng không gian đã nhìn thấy “vùng nhận dạng chủ quyền không gian” từ khuya. Vì chủ quyền lãnh thổ của một quốc gia phải bao gồm cả chủ quyền trên không, đại dương và đất liền; tuy nhiên do thời điểm thực hiện quyền chủ quyền nêu trên chưa tới lúc nóng bỏng hoặc là chưa đủ khả năng kiểm soát do còn yếu kém về kỹ thuật vũ khí nên ít ai để ý. Cứ xem vụ U 2 của Mỹ bay qua Nga, vụ thám thính cơ của Mỹ buộc phải hạ cánh ở Hải Nam, vụ phi công Lý Tống với chiếc Cesna nhỏ bé bay tới “vùng nhận dạng không gian” Cuba thả truyền đơn, cũng ông Lý Tống nhà ta thả truyền đơn ở không gian Saigon. Vụ “nhận dạng không gian biển Hoa Đông” có thể được hiểu thêm rằng Trung cộng xác định vùng nhận dạng không gian Hoa Đông chính là xác định quyền chủ quyền từ trên không xuống tài nguyên đáy biển và quần đảo Senkaku.