Trung Quốc nói Mỹ nên "học hỏi thêm" về lịch sử Biển Đông hay Trung Quốc nên "học lại"?

23 Tháng Hai 20175:35 CH(Xem: 8556)

"VĂN HÓA ONLINE-CALIFORNIA"  THỨ  SÁU  24  FEB  2017


Trung Quốc nói Mỹ nên "học hỏi thêm" về lịch sử Biển Đông

image003
Bản quyền hình ảnh MARK GRAHAM/AFP/Getty Images Image caption Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị phát biểu tại một cuộc họp báo ở Canberra ngày 7/2/17

Hoa Kỳ nên học hỏi thêm về lịch sử Biển Đông, vì có thỏa thuận quy định tất cả các vùng lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm trong Thế chiến II phải được trao trả lại cho Trung Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị phát biểu tại Úc.


Trung Quốc đã tỏ ý tức giận vì những lời bình luận từ chính quyền Hoa Kỳ mới về vùng biển này.


Trang web của Bộ ngoại giao Trung Quốc đăng những lời bình luận của ông Vương vào tối thứ Ba ngày 7/2. Trang này trích lời ông Vương phát biểu trong chuyến thăm Canberra, Úc gần đây, nói rằng ông có một "gợi ý" cho những người bạn Mỹ: "Học hỏi thêm về lịch sử Thế chiến Thứ hai".


Theo ông Vương, Tuyên bố Cairo 1943 và Tuyên bố Potsdam 1945 nói rõ rằng Nhật Bản phải trả lại cho Trung Quốc tất cả các vùng lãnh thổ Nhật đã chiếm đóng.


"Điều này bao gồm cả các đảo Nam Sa", ông nói thêm, dẫn tên Trung Quốc dùng để gọi Quần đảo Trường Sa.


"Năm 1946, chính phủ Trung Quốc lúc đó, với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, đã công khai lấy lại quần đảo Nam Sa mà Nhật đã chiếm đóng, và nắm chủ quyền lại," ông Vương nói.


"Sau đó, một số nước láng giềng của Trung Quốc đã dùng các biện pháp bất hợp pháp để chiếm giữ một số đảo và bãi đá ở khu vực này, và chính chuyện này đã gây ra cái gọi là tranh chấp lãnh thổ Biển Đông."


Trung Quốc cam kết đàm phán với các bên có liên quan trực tiếp, theo đúng các chứng cứ lịch sử và luật quốc tế để giải quyết vấn đề một cách hòa bình, và quan điểm này vẫn không thay đổi, ông Vương nói thêm.


Quan điểm của Mỹ về Biển Đông


image004

Bản quyền hình ảnh Steve Helber/AP Image caption Ngoại trưởng Mỹ Rex Tillerson


Trong phiên điều trần trước Thượng viện Hoa Kỳ để nhậm chức hồi giữa tháng Một, tân Ngoại trưởng Mỹ Rex Tillerson nói Trung Quốc không được phép tiếp cận các đảo nhân tạo mà nước này đã xây dựng ở Trường Sa.


Ông Tillerson, phát biểu trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ, so sánh việc Trung Quốc xây đảo với việc Nga chiếm Crimea từ tay Ukraine.


"Chúng ta cần gửi đến Trung Quốc một dấu hiệu rõ ràng. Thứ nhất, việc xây dựng đảo phải chấm dứt, và thứ hai, họ sẽ không được phép tiếp cận các đảo đó nữa."


Tòa Bạch Ốc cũng cam kết sẽ bảo vệ "các vùng lãnh thổ quốc tế" ở vùng biển có vị trí chiến lược này.


Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis cũng từng nói rằng "Trung Quốc đã xé nát niềm tin của các quốc gia trong vùng, ra vẻ như có quyền phủ quyết đối với ngoại giao, an ninh và kinh tế của các nước láng giềng."


Tuy nhiên, ông cũng nói rằng các biện pháp ngoại giao phải được ưu tiên ở Biển Đông, hãng Reuters cho hay.


Trung Quốc kỳ vọng vào những lời phát biểu của ông Mattis nhấn mạnh đến các nỗ lực ngoại giao ở Biển Đông, vì đây không chỉ là quan điểm của Trung Quốc và Đông Nam Á mà còn là "sự lựa chọn đúng đắn" cho các nước ở ngoài khu vực, Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị nói.


Bắc Kinh thời gian qua đã xây dựng nhiều đảo nhân tạo trên các bãi san hô trong khu vực biển được nhiều nước khác cũng tuyên bố chủ quyền.


Những hình ảnh được đưa ra cuối năm ngoái cho thấy có sự hiện diện của lực lượng quân sự tại một số đảo này, một viện nghiên cứu nói.


Động thái xây đảo của Trung Quốc đã gây nhiều bất bình trong khu vực. Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền trên phần lớn lãnh thổ Biển Đông, nơi Việt Nam, Philippines, Đài Loan, Malaysia và Brunei cũng tuyên bố chủ quyền./ (theo BBC 8/2/ 2017)


++++++++++++++++++++++++++++++++


TIN LIÊN QUAN


Năm 1951: Thủ tướng Trần Văn Hữu đi dự Hội nghị San Francisco đòi lại Hoàng Sa và Trường Sa


Tại Hội nghị San Francisco năm 1951, khi bàn đến chủ quyền các lãnh thổ trong đó có các đảo, quần đảo bị Nhật chiếm của các quốc gia sẽ trao trả cho ai, Thủ tướng Trần Văn Hữu trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam phát biểu khẳng định chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa- Trường Sa là của VIệt Nam.


Hiệp ước San Francisco hay Hiệp ước hòa bình San Francisco giữa các lực lượng Đồng MinhNhật Bản được chính thức ký kết bởi 49 quốc gia vào ngày 8 tháng 9 năm 1951 tại San Francisco, California. Hiệp ước có hiệu lực từ ngày 28 tháng 4 năm 1952.


Hiệp ước này chính thức kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai và cũng chấm dứt địa vị cường quốc của Đế quốc Nhật Bản. Hiệp ước bắt Nhật Bản phải bồi thường cho các nước Đồng Minh từng phải chịu thiệt hại chiến tranh do Nhật gây ra. Hiệp ước này đã tận dụng tối đa Hiến chương Liên Hiệp QuốcTuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền để nêu rõ mục đích của các lực lượng đồng minh.


 image002


Thủ tướng Trần Văn Hữu


Ông Trần Văn Hữu (18951985), là Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao của chính phủ Quốc gia Việt Nam từ tháng 5 năm 1950 đến tháng 6 năm 1952.


Đầu tháng 9 năm 1951, Thủ tướng Trần Văn Hữu dẫn đầu đoàn Quốc gia Việt Nam tham gia hội nghị 51 nước có đóng góp trong việc đánh bại Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai tại San Francisco, theo lời mời của chính phủ Mỹ. Tại hội nghị, ông bày tỏ quan điểm ủng hộ các nước đồng minh phương tây và yêu cầu Nhật Bản bồi thường chiến phí. Ông cũng nhân hội nghị này khẳng định chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Trường SaHoàng Sa, nguyên văn tuyên bố của ông:


Việt Nam rất là hứng khởi ký nhận trước nhất cho công cuộc tạo dựng hòa bình này. Và cũng vì vậy cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ...


Trong thời gian Trần Văn Hữu làm Thủ tướng còn diễn ra sự kiện ngày 29 tháng 6 năm 1950, Pháp chính thức công nhận Quốc gia Việt Nam là một thành viên có chủ quyền trong khối Liên hiệp Pháp. Quân đội Pháp dần dần rút khỏi miền Nam trong 2 năm và trao quyền lực cho chính quyền Quốc gia Việt Nam.


Đầu thế kỷ 20, Liên bang Đông Dương thuộc Pháp thực hiện chủ quyền đối với quần đảo, nhưng đã bắt đầu có sự tranh chấp chủ quyền với các chính quyền Trung Quốc. Năm 1956, Việt Nam Cộng hòa tiếp nối Liên bang Đông Dương thực hiện chủ quyền và kiểm soát một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, nhưng Trung Quốc đã đem quân kiểm soát nửa phía Đông quần đảo từ trước đó vài tháng.


Từ sau trận Hải chiến Hoàng Sa 1974 đến nay, Trung Quốc kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, đồng thời tuyên bố chủ quyền của họ trên toàn quẩn đảo. Chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa vẫn đang nằm trong vòng tranh chấp giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Việt Nam và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). (theo Wikipedia 23/2/2017)


Tuyên bố cuối cùng ngày 21 tháng 7 năm 1954 của Hội nghị Geneve  về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Đông Dương


Hiệp định Genève 1954 (tiếng Việt: Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954) là hiệp định đình chiến được kí kết tại thành phố Genève, Thụy Sĩ để khôi phục hòa bìnhĐông Dương. Hiệp định dẫn đến chấm dứt sự hiện diện của quân đội Pháp trên bán đảo Đông Dương, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương.


Nguyên ủy, Hội nghị Genève khai mạc ngày 26 tháng 4 năm 1954 để bàn về vấn đề khôi phục hoà bình tại Triều Tiên và Đông Dương. Do vấn đề Triều Tiên không đạt được kết quả nên từ ngày 8 tháng 5 vấn đề Đông Dương được đưa ra thảo luận.


  • Hội nghị ghi nhận tuyên bố của chính phủ Pháp về việc sẵn sàng rút quân khỏi lãnh thổ Việt Nam, Lào và Campuchia theo yêu cầu của chính phủ những nước liên quan trong thời gian do các bên lựa chọn.
  • Hội nghị ghi nhận tuyên bố của chính phủ Pháp về giải pháp khôi phục và củng cố hoà bình tại Việt Nam, Lào và Campuchia. Chính phủ Pháp sẽ tôn trọng sự tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước.
  • Trong quan hệ với Việt Nam, Lào, Campuchia, mỗi thành viên tham dự Hội nghị Genève sẽ tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước; không can thiệp vào công việc nội bộ của 3 nước.

++++++++++++++++++++++++++++++++


TIN LIÊN QUAN


Biển Đông sau chuyến thăm của ông Trọng


Trương Nhân Tuấn Nhà nghiên cứu ở Pháp

image005
Bản quyền hình ảnh Xinhua Image caption TBT Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng CSTQ Vương Kỳ Sơn tại Bắc Kinh đầu năm 2017

Sau chuyến đi Trung Quốc của TBT Nguyễn Phú Trọng vừa qua, BBC đăng bài có tựa đề: VN-TQ thỏa thuận 'kiểm soát bất đồng' Biển Đông.


Bài báo cũng dẫn bình luận từ Tân Hoa Xã: "Hai bên tin rằng chuyến đi của ông Nguyễn Phú Trọng đã "đạt thành công to lớn" trong việc nâng cao sự tin cậy chính trị giữa hai bên, thắt chặt quan hệ hữu nghị truyền thống, củng cố quan hệ đối tác chiến lược hợp tác toàn diện, và đóng góp vào hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực".


Tôi thì không hề tin chuyến đi của ông Trọng "đạt thành công to lớn" như Tân Hoa Xã đã phóng đại.


Từ bao đời tổng bí thư, với biết bao nhiêu tuyên bố từ sau khi hai bên thiết lập lại bang giao 1991, hai bên luôn khẳng định những điều mà Tân Hoa Xã đã nói (là thắt chặt hữu nghị, quan hệ đối tác chiến lược, gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển...).


Nhưng những gì Trung Quốc hứa hẹn trên lý thuyết hoàn toàn trái ngược với những gì Trung Quốc đã làm trên thực tế.


Các tuyên bố chung giữa Việt Nam và Trung Quốc đưa ra các năm 2011, 2013, 2015, 2016, 2017… luôn khẳng định hai bên "không tiến hành các hành động làm thêm phức tạp, hoặc mở rộng tranh chấp, không sử dụng vũ lực hoặc de dọa sử dụng vũ lực…".


Trong khi trên thực tế thì các việc như đặt giàn khoan 981 (tháng 5/2014) của Trung Quốc rõ ràng là hành vi "mở rộng tranh chấp và làm phức tạp tình hình".


Trung Quốc nhất quán trong lập trường là "không có tranh chấp ở Hoàng Sa". Nhưng vị trí giàn khoan 981 là đặt trên thềm lục địa của Việt Nam. Mặc dầu giàn khoan đặt cách đảo Tri Tôn (thuộc Hoàng Sa) khoảng 20 hải lý, nhưng cái gọi là "đảo" Tri Tôn, thực tế chỉ là một thực thể địa lý nổi thường trực trên mặt nước biển, không có người sinh sống.


Mặt khác, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vốn thuộc chủ quyền của Việt Nam, được khẳng định từ thời nhà Nguyễn. Nhà nước bảo hộ Pháp tái khẳng định lại hai lần, chủ quyền Hoàng Sa (và Trường Sa) thuộc Việt Nam, trước và sau Đệ nhị Thế chiến. Trung Quốc đã chiếm quần đảo này của Việt Nam bằng vũ lực vào tháng Giêng năm 1974.


Vì vậy hành vi đặt giàn khoan 981 của Trung Quốc là "mở rộng tranh chấp", từ tranh chấp chủ quyền mở rộng qua tranh chấp về phân định biển (khu vực của vịnh Bắc Bộ).


Chưa hết, thái độ hung hăng của các tàu hải quân, hải cảnh… của Trung Quốc , lúc bảo vệ giàn khoan 981, đã đâm chìm tàu của ngư dân Việt Nam (gây tử thương cho nhiều người), cũng như tàu của các lực lượng này gây hấn đâm tàu hải cảnh của Việt Nam … gọi đúng là hành vi chiến tranh, nhẹ nhàng là gây hấn… "làm phức tạp thêm tình hình".


Sau đó Trung Quốc cho xây dựng các đảo nhân tạo và mở rộng chúng, ở các bãi đá ngầm chiếm (bằng vũ lực) của Việt Nam năm 1988. Sau đó xây sân bay với đầy đủ hạ tầng cơ sở cho không quân, hải quân, sau đó lại đặt các giàn hỏa tiễn địa không…


Hành vi của Trung Quốc cũng là "mở rộng tranh chấp". Bởi vì, như đã nói, chiếu Hiến chương LHQ, chủ quyền của Trung Quốc ở các bãi đá này không được nhìn nhận. Trong khi các thực thể này, một số là đá ngầm, không thể chiếm hữu, theo Phán quyết 12/7/2016 của Tòa Trọng tài ở La Haye. Việc chiếm hữu bằng vũ lực các bãi là vi phạm Hiến chương LHQ.


Việc xây dựng đảo và "quân sự hóa" chúng vừa làm "phức tạp thêm tình hình", lại vừa "đe dọa chiến lược" đối với các nước chung quanh. Hành vi của Trung Quốc cũng phạm Luật quốc tế, vì việc xây dựng đảo nhân tạo đã gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường biển.


image006

Bản quyền hình ảnh Reuters Image caption Tàu khu trục USS Decatur tuần tra gần Quần đảo Hoàng Sa hổi tháng 10/2016, trong chương trình Mỹ gọi là hoạt động tự do hàng hải


Đồng thời cái gọi là "thỏa thuận kiểm soát bất đồng ở Biển Đông", theo như tựa đề bài báo thì có nhiều điều cần xét lại.


Thời ông Nông Đức Mạnh, tuyên bố chung năm 2011 đã có nội dung về kềm chế sự "bất đồng": "không để bất đồng ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của quan hệ hai nước".


Đến thời ông Nguyễn Phú Trọng, như Tuyên bố năm 2013 nói về việc "kiểm soát tốt những bất đồng trên biển". Tuyên bố 2015 nói đến việc "Hai bên nhất trí cùng nhau kiểm soát tốt bất đồng trên biển". Tuyên bố 2017 thì nói "kiểm soát tốt bất đồng trên biển".


Từ việc "kiểm soát tốt" để đi tới việc ký kết thỏa thuận "kiểm soát bất đồng" là một bước dài. Người ta hoài nghi về sự hiện hữu của thỏa thuận này. Khoản 9 bản Tuyên bố chung 2017, nhiều thỏa thuận, kết ước hai bên đã được ký kết. Tuy nhiên không hề thấy thỏa thuận về "kiểm soát bất đồng trên biển".


Vấn đề độc lập quốc gia


Tháng Mười 2016 ông Đinh Thế Huynh (nghe đồn đoán là sẽ thay thế ông Trọng), có chuyến đi thăm Trung Quốc. Nhân dịp này Tập Cận Bình có nói với ông Huynh rằng : "Hai nước là một cộng đồng cùng chia sẻ tương lai".


Vấn đề là, ý nghĩa của câu "một cộng đồng cùng chia sẻ tương lai" chỉ dành cho nhân dân trong một nước. Chỉ có người dân trong một nước mới chia sẻ một tương lai chung.


Tuyên bố năm 2017 lặp lại ý kiến này : "Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có truyền thống hữu nghị lâu đời,... có chế độ chính trị tương đồng, ... có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung…. "


Ta không thấy ý kiến tương tự ở thời TBT Nông Đức Mạnh, hay các TBT tiền nhiệm.


Ý kiến này, nếu theo dõi nội dung các tuyên bố chung giữa Việt Nam và Trung Quốc, ta thấy là của Tập Cận Bình, biểu lộ lúc ông này sang thăm Việt Nam năm 2015.


Dân tộc Việt Nam chưa bao giờ mong muốn "chia sẻ vận mệnh chung" với nhân dân Trung Quốc hết cả. Chưa bao giờ "tiền đồ" đất nước Việt Nam lại có mối "tương quan" với Trung Quốc hết cả.


Sau chuyến đi của ông Trọng, ý kiến của họ Tập trở thành "tuyên bố chung của hai nước".


Theo tôi, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phạm những lỗi lầm vô cùng trọng đại, vì đã làm thương tổn nền độc lập của một quốc gia có chủ quyền.


Dân tộc Việt Nam chưa bao giờ mong muốn "chia sẻ vận mệnh chung" với nhân dân Trung Quốc hết cả. Chưa bao giờ "tiền đồ" đất nước Việt Nam lại có mối "tương quan" với Trung Quốc hết cả.


Tiền đồ là gì ? Nghĩa tiếng Hán là "con đường phía trước, tương lai tốt đẹp phía trước".


Khi "chia sẻ vận mệnh chung", có "chung một tương lai", thì Việt Nam đã không còn "độc lập và tự chủ" trong những quyết định của mình (về tương lai) nữa.


Việc này đã phá vỡ "nguyên tắc độc lập tự chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau", đã được khẳng định theo Tuyên bố chung Việt Nam và Trung Quốc về hợp tác toàn diện 2000.


Nó cũng đi ngược tinh thần Hiến chương LHQ "bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia". Đồng thời đi ngược lại nội dung Tuyên bố "5 điểm chung sống hòa bình" của Trung Quốc.


Tillerson - cứu tinh của Việt Nam?


Vị Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa kỳ tương lai, Rex Tillerson, ngày 11/1 nhân buổi điều trần tại Thượng viện, đã có những tuyên bố liên quan đến Biển Đông.


Trong chừng mực, nếu ý kiến của ông này được thực hiện, hầu hết các vấn đề ở Biển Đông sẽ tự động hóa giải.


Theo ông Tillerson, hành vi Trung Quốc xây dựng đảo ở Biển Đông tương đương với hành vi Nga chiếm Crimea. Ông này khuyến cáo Washington rằng phải gởi một tín hiệu cứng rắn đến Bắc Kinh : 1/ Trung Quốc ngưng ngay các việc xây dựng đảo. 2/ Trung Quốc không được tiếp cận các đảo này nữa.


Câu hỏi đặt ra, Hoa Kỳ có thẩm quyền để phát biểu (như vậy) cũng như có khả năng làm việc này hay không ?


Theo tôi là Hoa Kỳ có thể phát biểu những lời như vậy.


Tillerson so sánh các đảo Biển Đông (mà Trung Quốc chiếm và xây thành đảo nhân tạo) với Crimea. Dĩ nhiên ai cũng biết Crimea thuộc Ukraine. Nhưng các đảo (mà Trung Quốc đã chiếm) thì không ai biết chúng thuộc chủ quyền nước nào.


Có ba giả thuyết để Tillerson củng cố cho lập trường của mình.


Thứ nhất, Trung Quốc không có chủ quyền ở các bãi đá, đơn giản vì họ xâm chiếm (của Việt Nam) năm 1988 bằng vũ lực. Ý kiến của Tillerson phù hợp tinh thần quốc tế công pháp.


Thứ hai, vịn vào yếu tố Mỹ có quyền quản lý các đảo ở Thái Bình Dương do Nhật chiếm đóng trước Thế chiến thứ hai (theo một điều ước của Hội Quốc liên trước 1945). Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Thái Bình Dương. Các đảo này bị Nhật chiếm đóng. Vì vậy Mỹ có quyền lên tiếng đòi quyền quản lý. Dựa trên lập luận này thì Mỹ có quyền "cấm" Trung Quốc léo hánh đến các đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Thứ ba, các đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Pháp. Vấn đề là Pháp "im lặng" về việc này từ sau khi rời Việt Nam cho đến nay. Pháp tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa, sáp nhập vào tỉnh Bà Rịa, do "khám phá". Không quốc gia nào phản đối việc này. Sẽ là một sự "đảo lộn" về địa chính trị nếu bây giờ Pháp lên tiếng đòi Trường Sa và Mỹ ủng hộ yêu sách này.


Về khả năng, câu trả lời bỏ ngỏ.


Trung Quốc có dám "mất tất cả" những gì đã tạo dựng lên, từ thập niên 1980 đến nay, (có thể còn mất thêm nhiều thứ quí giá khác như vấn đề ly khai…) để khai chiến với Mỹ hay không ?


Và Mỹ có dám "chấn thương nội tạng lâu dài" để gây chiến tranh với Trung Quốc vì những hòn đảo mà Mỹ không có (hay có mà ít) lợi ích chiến lược hay không ? (BBC 17/ 1/ 2017)


Bài phản ánh văn phong và quan điểm của tác giả, nhà nghiên cứu ở Pháp.