Phong cách "kiến trúc Đông Dương" tại Việt Nam đầu thế kỷ XX

27 Tháng Ba 201712:17 SA(Xem: 10826)

"VĂN HÓA ONLINE-CALIFORNIA"  THỨ  HAI  27  MAR  2017


Phong cách "kiến trúc Đông Dương" tại Việt Nam đầu thế kỷ XX


Thu Hằng


RFI 24/3/2017


image132

Giảng viên đại học Toulouse II-Jean Jaurès tại phòng thu RFI.RFI / Tiếng Việt


Với những công trình như Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện Trung tâm hay Dinh xã Tây - Hôtel de Ville (nay là trụ sở UBND TP. Hồ Chí Minh), Sài Gòn được mệnh danh là « Hòn Ngọc Viễn Đông ». Với Nhà hát lớn, phố Paul Bert (nay là Tràng Tiền), Nhà thờ lớn, Nhà thờ Cửa Bắc, Dinh Toàn quyền Đông Dương (nay là Phủ Chủ tịch), Hà Nội được ví như một Paris thu nhỏ.


Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là « một công trường lớn » theo nhận định của nhà sử học Pháp Philippe Papin. Những công trình đồ sộ đậm nét phương Tây phục vụ bộ máy hành chính Pháp là « cách phô trương uy thế để duy trì sự kiểm soát người dân bị đô hộ ». Sau đó xuất hiện những ngôi nhà, biệt thự vẫn được xây theo kiến trúc phương Tây nhưng thích nghi với điều kiện khí hậu và truyền thống địa phương.


Vậy cảnh quan kiến trúc Việt Nam thay đổi như thế nào trong suốt một thế kỷ Pháp thuộc ? Ban tiếng Việt đài RFI đã đặt câu hỏi với Caroline Herbelin, giảng viên Lịch sử đại học Toulouse II-Jean Jaurès, kiêm chủ tịch hội Nghiên cứu Đông Nam Á (AFRASE), tác giả cuốn Kiến trúc của Việt Nam thời thuộc địa : Nhìn lại phong cách hỗn hợp. (*)


image133Bưu điện Sài Gòn. Ảnh chụp năm 1895.BNF/André Salles


RFI : Xin chị cho biết sự có mặt của người Pháp ở Đông Dương đã làm thay đổi cảnh quan kiến trúc Việt Nam như thế nào ?


Caroline Herbelin : Vừa thay đổi rất nhiều mà cũng không nhiều lắm vì còn tùy thuộc vào từng khoảng thời gian. Trong thời kỳ đầu Pháp xâm chiếm Việt Nam (những năm 1860) đến khi công cuộc bình định kết thúc (những năm 1880), chính người Pháp phải thích nghi với kiến trúc địa phương. Khi tới Việt Nam, người Pháp không mang theo thợ nề hay chủ thầu mà chỉ có vài kỹ sư quân sự và nhất là không hề có dụng cụ. Do thiếu nơi trú ngụ nên các toán quân Pháp tịch thu đền chùa hay nhà ở của dân địa phương.


Cho đến đầu thế kỷ XX, vẫn còn rất nhiều quân nhân và người Pháp sống trong những ngôi nhà tranh, theo lời miêu tả trong các bức thư của công chức Pháp gửi về gia đình. Cũng có rất nhiều người Pháp sống trong những ngôi nhà ống nhiều gian. Năm 1932, ở Hà Nội, gần 35% người châu Âu sống trong những ngôi nhà như vậy.


Thế nhưng, sau này, sự hiện diện của Pháp đã tác động mạnh đến quá trình đô thị hóa. Ví dụ, từ một trung tâm nhỏ, Hải Dương nhanh chóng phát triển nhờ vào Nhà máy Rượu Đông Dương. Ngoài quá trình đô thị hóa, cảnh quan kiến trúc cũng thay đổi nhờ chính quyền Pháp xóa bỏ nhiều đạo luật hạn chế chi tiêu mang tính bắt buộc (do triều Nguyễn ban hành). Kể từ đó, người dân có thể xây nhà tầng và được tự do trang trí. Điều này cũng giải thích tại sao mặt tiền nhiều ngôi nhà ống có hoạ tiết trang trí cầu kỳ với mầu sắc rực rỡ vào đầu thế kỷ XX. Điều đáng lưu ý là những họa tiết trang trí tân cổ điển này (néoclassique) không chỉ bị ảnh hưởng từ Pháp, mà còn chịu ảnh hưởng từ Trung Hoa nơi phong cách kiến trúc Đông-Tây phát triển mạnh tại các thương cảng như Thượng Hải, Giang Âm…


image134Dinh thự tại Hà Nội của Lucien Faure, chánh văn phòng toàn quyền Paul Doumer. Ảnh chụp năm 1898.BNF/André Salles


RFI : Chị nói là kiến trúc Pháp ít thích ứng tại Việt Nam trong giai đoạn đầu thuộc địa. Vậy phải giải thích thế nào về một số công trình được xây vào thời kỳ đó, mà đến nay vẫn tồn tại, như Dinh xã Tây - Hôtel de Ville (nay là trụ sở UBND TP. Hồ Chí Minh) hay Nhà hát lớn Hà Nội ?


Caroline Herbelin : Đúng vậy, những công trình này rất đồ sộ, được chính quyền thuộc địa cho xây dựng và chẳng giống kiến trúc Việt Nam chút nào. Chúng mang chuẩn phong cách Pháp, cứ như được bê thẳng từ bên đó sang vậy. Đó là những công trình phục vụ cho chính sách thị uy của chính quyền thuộc địa để « gây ấn tượng với người dân địa phương », nhưng cũng có thể hiểu đơn giản là những công trình hành chính quan trọng cấp Nhà nước đều được xây như vậy ở Pháp. Nhiều kiến trúc sư sang Việt Nam nói là họ chẳng biết làm gì khác ngoài phong cách tân cổ điển. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng vào thời kỳ đầu nhưng sau đó không còn như vậy. Hình ảnh thể hiện qua kiến trúc của chính quyền thuộc địa đã thay đổi.


Ví dụ Dinh Toàn quyền năm 1873 là một tòa nhà rất lớn nằm giữa trung tâm Sài Gòn, trong khi Dinh Toàn quyền được xây ở Hà Nội sau này (từ 1900 đến 1907) lại đi theo một ý tưởng khác. Trên thực tế, tòa nhà ở Hà Nội bị thu nhỏ khoảng 1/3 so với thiết kế ban đầu. Vì lúc đó, chính quyền thuộc địa cho rằng hình ảnh uy quyền của Pháp cần được thể hiện qua đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, như hệ thống đường sắt, hơn là những tòa nhà công đồ sộ, sừng sững nhưng lại không vĩ đại. Hơn nữa, chính quyền thuộc địa cũng bị hạn chế về ngân sách nên không thể làm tất cả cùng một lúc.


Cũng không nên nói quá về tác động của người Pháp đối với thành phố. Việc xây dựng thành phố, trong đó có những ngôi biệt thự xinh đẹp (như ở phía nam Hà Nội hay xung quanh hồ Thuyền Quang), còn được thực hiện nhờ người Việt. Kiểu kiến trúc được áp dụng không hẳn là phong cách tân cổ điển hay tân baroc của Pháp mà Nhà nước thuộc địa vẫn khuyến khích để thể hiện uy thế. Phong cách kiến trúc thay đổi tuỳ theo chính sách được tiến hành ở Đông Dương. Ví dụ toàn quyền Albert Sarraut (hai nhiệm kỳ 1911-1913 và 1916-1919) muốn áp dụng chính sách hợp tác, hứa để giới tính hoa Việt Nam cùng tham gia chính quyền. Trong lĩnh vực văn hóa, ông muốn đề cao nền văn hóa của các nước Đông Dương. Vì thế, trong thời gian đương nhiệm, phủ toàn quyền ở Hà Nội và các căn hộ riêng, đặc biệt là phòng ngủ của Albert Sarraut được bài trí bằng những đồ vật và đồ gỗ chạm trổ họa tiết Việt Nam.


image135Phố Paul Bert năm 1920 (nay là phố Tràng Tiền).BNF/Société de Géographie


RFI : Chị vừa đề cập đến một số đồ đạc trong nhà mang phong cách Việt Nam, nhân nói đến giao thoa Đông-Tây, liệu có một kiểu phong cách kết hợp như vậy trong kiến trúc không ?


Caroline Herbelin : Có, người ta vẫn gọi là phong cách Đông Dương. Đó là phong cách hỗn hợp do Ernest Hébrard phát minh. Ông từng được trao giải thưởng lớn Roma và đến Đông Dương vào năm 1921, theo lời mời của một số người thân cận với toàn quyền Sarraut. Ông được giao nhiệm vụ thiết kế một công trình nhà nước vừa thể hiện được sự hiện diện của Pháp, vừa pha trộn được hai nền văn hóa Pháp-Việt. Rất tâm huyết với nhiệm vụ này, Hébrard tạo ra được một phong cách lấy cảm hứng từ những ngôi nhà Việt Nam, đặc biệt là cấu trúc của những ngôi này, vừa mang nét phương Tây, vừa thích nghi với khí hậu nhờ hiên nhà hay mái vươn dài.


Tuy nhiên, phong cách Đông Dương không thành công lắm vì tốn kém. Chính quyền nhanh chóng muốn quay lại với phong cách cổ điển hơn, vì họ thích những tòa nhà công phải giống y chang những công trình bên Pháp. Có thể kể một vài công trình nổi tiếng nhất của Hébrard là Sở Tài chính Đông Dương (nay là trụ sở bộ Ngoại Giao Việt Nam), Nhà thờ Cửa Bắc…


Bảo tàng Lịch sử (trước là bảo tàng Louis Finot) cũng mang phong cách kiến trúc Đông Dương và được hoàn thiện năm 1931, nhưng đó là tác phẩm của một kiến trúc sư của trường Viễn Đông Bác Cổ, Charles Batteur. Sự kết hợp giữa hai kiểu kiến trúc đã biến Bảo tàng Lịch sử thành công trình đẹp nhất mang phong cách Đông Dương.


image136Bảo tàng Louis Finot (nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam)Flickr.com


RFI : Vậy phía Việt Nam có sử dụng kiểu kiến trúc hỗn hợp Đông-Tây không ?


Caroline Herbelin : Có, ngay từ đầu thế kỷ XX, người Việt đã xây nhà theo kiến trúc Pháp. Trong những năm 1930 xuất hiện phản ứng từ phía các nhà trí thức và thành phần quan lại tiến bộ khi ngày càng có nhiều chủ nhà Việt Nam giầu có xây những ngôi nhà hoàn toàn theo phong cách Pháp.


Hội Khai Trí Tiến Đức (Association pour la Formation Intellectuelle et Morale des Annamites, AFIMA), mang tư tưởng cải cách ôn hòa, cho rằng nên có một kiểu kiến trúc mới, hiện đại kết hợp với các họa tiết trang trí trong kiến trúc miền bắc Việt Nam. Để khuyến khích ý tưởng này, vào đầu những năm 1920, AFIMA tổ chức nhiều cuộc thi với quy định tìm được những mô hình vừa lấy cảm hứng từ kiến trúc miền bắc Việt Nam vừa có đủ tiện nghi hiện đại như nhà tắm, gara… Kết quả cuộc thi rất tốt nhưng trên thực tế, kiểu kiến trúc này lại không được áp dụng và không nổi tiếng lắm nên không tác động được đến cảnh quan kiến trúc Việt Nam. Chỉ có một vài quan lại giầu có mới có thể xây được nhà theo phong cách này.


Bên cạnh kiểu kiến trúc kết hợp chính quy đó, còn có nhiều trường hợp tự phát hơn, như những ngôi nhà được xây trong thập kỷ 1930 ở Nam Kỳ của các địa chủ giầu có người Việt hay người Hoa, ví dụ đặc sắc nhất chính là hai ngôi nhà ở Bình Thuỷ (Cần Thơ) và Sa Đéc. Mặt tiền những ngôi nhà này kết hợp cả ba yếu tố Pháp, Việt và Hoa, nhưng bên trong giữ nhiều nét truyền thống.


image137Dinh Toàn quyền Đông Dương, Sài Gòn. Ảnh chụp năm 1896.BNF/André Salles


RFI : Kiến trúc hiện đại đã có tác động đến người Việt như thế nào ?


Caroline Herbelin : Kiểu kiến trúc hiện đại phát triển ở châu Âu từ đầu thế kỷ XX. Khi đi dọc Việt Nam, dù chúng ta không thấy nhiều ví dụ về kiểu kiến trúc này, nhưng khi tra cứu tài liệu thời kỳ đó, chúng ta nhận thấy là những nguyên tắc của kiến trúc hiện đại được tiếp nhận ở Việt Nam và thu hút sự quan tâm của giới quý tộc Việt Nam. Trong những năm 1930, nhiều tạp chí phổ biến khoa học viết bằng chữ quốc ngữ đăng rất nhiều bài báo về bê tông và giải thích cách sử dụng. Giới nhà giầu Việt Nam cho xây những ngôi biệt thự theo nghệ thuật trang trí và đổ trần bê tông.


Một ví dụ khác thú vị hơn về phong cách hiện đại là các kiến trúc sư người Việt của trường Mỹ Thuật Đông Dương, trường nổi tiếng đào tạo ra thế hệ « nghệ sĩ Đông Dương », cũng được học các nguyên tắc của Hébrard. Nhưng sau khi tốt nghiệp, rất nhiều người từ bỏ « mác » này và không muốn tác phẩm của mình mang tính « Đông Dương ». Với họ, phải có được một phong cách kiến trúc riêng do người Việt nghĩ ra và dành cho người Việt. Có nghĩa là những ngôi nhà phải đáp ứng được nhu cầu của người Việt về mặt thẩm mỹ, đồng thời phải tôn trọng các tiêu chí về kỹ thuật và khí hậu. Những công trình của họ còn mang tính xã hội, như trường hợp Nguyễn Cao Luyện và Hoàng Như Tiếp, cả hai thực hiện kiểu « Nhà ánh sáng » sử dụng nguyên vật liệu rẻ tiền và sẵn có ở địa phương để giúp người nghèo có chỗ ở.


image138Bìa cuốn sách Kiến trúc của Việt Nam thuộc địa.Caroline Herbelin


(*) Caroline Herbelin, Architectures du Vietnam colonial: Repenser le métissage (Kiến trúc của Việt Nam thời thuộc địa : Nhìn lại phong cách hỗn hợp), Paris : INHA, 2016.


Nhà thờ Đức Bà, đặc trưng kiến trúc Pháp giữa lòng Sài Gòn


Thu Hằng


Phát Thứ Sáu, ngày 17 tháng 2 năm 2017


 image139

Nhà thờ chính tòa Đức Bà, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.CC/Diego Delso


  • inShare


Nằm ở trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn là một địa điểm du lịch không thể bỏ qua, nổi bật với sắc đỏ tươi. Sau gần 140 năm chống chọi với nắng gió thời gian, mái ngói và một số hạng mục của công trình kiến trúc đặc sắc này bị xuống cấp một cách đáng ngại.


Theo dự án của Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hồ Chí Minh trình lên UBND thành phố vào đầu tháng 12/2016, công trình biểu tượng của Sài Gòn sẽ có một đợt trùng tu mái ngói kéo dài từ năm 2017 đến 2019. Cụ thể là sẽ “gia cố, thay thế hệ thống vì kèo bằng tổ hợp thép hình, sơn bảo quản chống gỉ ; gia cố, thay thế cầu phong, li tô bằng gỗ nhóm II, chống mối mọt, sơn bảo quản ; thay thế bổ sung mái ngói tây, ngói vảy cá, ngói âm dương theo nguyên trạng ; xây lại bờ mái bờ nóc, bờ chảy”. Nguồn vốn để sửa chữa do chủ đầu tư là Tòa tổng giám mục Sài Gòn vận động từ nguồn xã hội hóa.


Tuyệt tác kiến trúc gần 140 tuổi biểu tượng của Sài Gòn


Nhìn lại 137 năm lịch sử của nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, có lẽ nên bắt đầu từ nguồn gốc nhà thờ đầu tiên được dựng lên ở Sài Gòn, trên nền một ngôi chùa bỏ hoang bên bờ Kinh Lớn (Grand Canal hay Canal Charner), nơi neo đậu của những con tầu gỗ lớn của người Hoa có mái bằng lá cọ và mũi tầu được sơn những cặp mắt dữ tợn. 


Tập san hành trình, địa lý, lịch sử và khảo cổ (1), phát hành năm 1869, miêu tả : “Nhà thờ đầu tiên, với một tháp chuông bằng gỗ sơn mầu, được dựng lên ở Sài Gòn vào năm 1861 nhờ sự đóng góp của các công chức và sĩ quan đội quân viễn chinh Pháp. Nhiều khu nhà tạm được dựng lên dọc bờ kênh trở thành ngôi làng của Giám mục và cũng chính tại đây, Đức ông Lefebvre - Giám mục hiệu toà Isauropolis và Khâm mạng tòa thánh Tây Nam Kỳ - đã trú ẩn trước khi quân Pháp chiếm được Sài Gòn”.


Năm 1863, chuẩn đô đốc Bonnard cho xây một nhà thờ vững chắc hơn ở phía trên thành phố, nơi sau này trở thành địa điểm của Toà Hòa Giải (Justice de paix, nơi ngày nay là cao ốc Sun Wah đường Nguyễn Huệ). Cách gọi “nhà thờ lớn” (cathédrale) có lẽ chỉ để nhấn mạnh đến chức năng của địa điểm thiêng liêng đó mà thôi, vì theo nhận xét của tác giả Raoul Postel trong cuốn Xứ Nam Kỳ thuộc Pháp (2), “công trình thảm thương và tồi tàn này thực ra chẳng xứng với cách gọi đó. Bề ngoài hiu quạnh của nhà thờ càng nâng vẻ lộng lẫy của nhà thờ tu viện Sainte-Enfance”.


Mười năm sau, thánh đường được làm gần như hoàn toàn bằng gỗ bị mối gặm nhấm nghiêm trọng đến mức phải đóng cửa vào năm 1874 và dùng tạm đại sảnh trong dinh thự của thống đốc Nam Kỳ để hành lễ.


image140Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn sau khi được hoàn thiện năm 1880 và chưa có hai mái chóp.BNF/Fernand Blanchet


Nếu như trước năm 1869, nhà thờ Sài Gòn không có bất kỳ nguồn thu nhập nào trừ tiền quyên góp của giáo dân, thì trong khoảng thời gian giới quân sự nắm quyền và Giáo Hội chưa tách khỏi chính quyền, Giám mục Sài Gòn được trợ cấp khoảng 15.000 franc cùng với 5.000 franc công tác phí (Bulletin officiel de la Cochinchine, 16/05/1870) và giáo phận Nam Kỳ cũng nhận được một khoản trợ cấp cho đến năm 1880 khi chính quyền dân sự đầu tiên được hình thành tại Nam Kỳ.


Cũng trong giai đoạn chính quyền quân sự, chính phủ thuộc địa đã nhượng cho các giáo phận Nam Kỳ nhiều khu đất để xây dựng các công trình dành cho con lai, đặc biệt là nhà thờ lớn Sài Gòn. Quyết định được chuẩn đô đốc-thống đốc Duperré (1874-1877) ký ngày 27/09/1876 (Bulletin officiel de l’Annam et du Tonkin, 1877) khi hoàn toàn tin chắc rằng Nam Kỳ đã được bình định. Ông cũng nhận thấy đã đến lúc phải khẳng định đức tin của người Pháp và rộng rãi truyền đức tin đó ở đất nước xa xôi này.


Nhà thờ mới được chuyển về vị trí trung tâm, ở đầu phố Catinat (nay là Đồng Khởi). Cục công binh giao các khu đất (nay là quảng trường số 1 Công Xã Paris, quận 1, trước đây còn là quảng trường Pigneaux de Béhaine), lúc đó nằm dưới sự quản lý của quân đội, cho chính quyền địa phương. Đổi lại, cơ quan dân sự này hoàn toàn chịu trách nhiệm về nhà thờ mới, cũng như mọi việc bảo dưỡng trùng tu trong tương lai.


Ngày 07/10/1877, trước sự chứng kiến của thống đốc Nam Kỳ và toàn bộ chính quyền Pháp tại Sài Gòn, Đức ông Colombert, Giám mục hiệu tòa Samosate, đã ban phước cho viên đá đầu tiên của công trình mang tính thiêng liêng với giáo dân. Sau hai năm rưỡi xây dựng, với tổng chi phí 2.500.000 franc, thánh đường do kiến trúc sư Bourard thiết kế được hoàn thiện ngày 11/04/1880 và được cung hiến lên Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và thánh François-Xavier.


Tập san của Hội Thừa Sai Paris số ra tháng 07-08/1918 (3) miêu tả nhà thờ Sài Gòn được xây theo kiến trúc Roman, dài 93 mét, rộng 35 mét, cao 57,3 mét. Hầu hết nguyên vật liệu, đặc biệt là gạch ngói đỏ, được chuyển từ Pháp sang. Hai tháp chuông có sáu quả chuông nặng tổng cộng 25.850 kg.


Dự án ban đầu chỉ có hai tòa tháp chuông cao 36,60 mét. Đến năm 1895, hai mái chóp với Thập tự giá biểu tượng cho sự cứu rỗi cao 21 mét được dựng thêm để che tháp chuông. Theo tuần san Le Génie civil số ra ngày 02/05/1896, hai mái chóp được làm bằng sắt, do kỹ sư André Michelin thiết kế, có hình kim tự tháp tám góc, lần lượt được gắn trực tiếp bằng phương pháp tính khung côngxon trên mỗi tháp chuông. Khung mái được lợp bằng loại thép gân và có một cầu thang sắt gắn vào thành tường dẫn lên nóc. Trên nóc là hai cây thập tự cao 3,10 mét được làm bằng tôn và đinh tán. Toàn bộ công trình được thợ thuyền địa phương thực hiện dưới sự giám sát của một đốc công châu Âu.


image141Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, ảnh chụp năm 1895.BNF/André Salles


Bên trong công trình kiến trúc quy mô và đặc sắc được dát vàng rất thẩm mỹ. Phía trên hành lang gác trong nhà thờ là loạt cửa sổ bằng kính nhiều mầu ghép lại do xưởng Lorin de Chartres thực hiện. Mỗi tác phẩm trên cửa kính tái hiện đoàn rước các thánh từ Cựu Ước đến Tân Ước đến chào mừng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, chủ nhân của nhà thờ.


Bàn thờ chính được làm bằng đá cẩm thạch quý hiếm và được trang trí thêm ba bức phù điêu tuyệt đẹp được sáu thiên thần nâng đỡ, trong tay cầm những dụng cụ khổ nạn trong Cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su. Lối đi bên trong nhà thờ làm theo hình thập tự, được lát bằng gạch ghép mảnh nghệ thuật và ở mỗi đầu là một bàn thờ của các nhà nguyện. Xung quanh chính điện là các nhà nguyện Đức Mẹ Đồng Trinh (Sainte-Vierge), Thánh Tâm (Sacré-Coeur), thánh Joseph, thánh Paul và thánh François-Xavier. Tất cả đều được trang trí bằng những bức tranh kính nhiều mầu ghép lại tượng trưng cho mỗi vị thánh của nhà nguyện.


Ngoài ra còn phải kể đến 20 chiếc đèn chùm được gia công một cách tinh vi. Từ tháng 10/1913, cha Eugène Soullard cho lắp hàng nghìn bóng điện vào những chiếc đèn chùm và xung quanh các cột chính trong nhà thờ khiến các buổi lễ trở nên lung linh hơn trong ánh sáng hiện đại này. Đặc biệt là vào những buổi Thánh Lễ và lễ rửa tội cho trẻ nhỏ, giáo đường đẹp một cách huyền diệu với các sắc mầu và đồ trang trí.


Năm 1902, tượng Đức ông Pigneaux de Béhaine (tiếng Việt là Bá Đa Lộc), Giám mục hiệu tòa Adran, được dựng lên giữa khu vực trồng hoa tô điểm cho quảng trường trước cửa nhà thờ lớn. Tác phẩm của nhà điêu khắc Lormier thể hiện Cha Cả tay trái nâng bàn tay của hoàng tử Cảnh (con trưởng của vua Gia Long), còn tay phải giương bản Hiệp ước Versailles ký ngày 21/11/1787 với chính phủ Pháp. Đức ông Lucien Mossard, quản lý nhà thờ từ năm 1898, cùng với đông đảo tu sĩ đã tổ chức một buổi lễ long trọng để ban phép lành cho công trình trên trước sự chứng kiến của toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, thống đốc Nam Kỳ Henri de Lamothe, các đô đốc Pottier và Bayle, cùng với toàn bộ công chức dân sự và quân sự cũng như giới thân hào Nam Kỳ.


image142Tan lễ ở Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, ảnh chụp khoảng sau năm 1880.


Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn… người yêu kẻ ghét…


Trong vòng 10 năm, từ 1908 đến 1918, số lượng giáo dân ở Sài Gòn không thay đổi với khoảng 5.530 người, trong đó có 4.000 người châu Âu, 800 người Ấn Độ, 700 người An Nam và khoảng 30 người Hoa. Số lượng giáo dân châu Âu có xu hướng giảm do đợt tổng động viên năm 1914.


Giờ tan lễ sáng Chủ Nhật hay những dịp lễ trọng đại là cảnh tượng độc đáo khiến người qua đường phải tò mò chiêm ngưỡng, theo nhận xét của một cuốn hướng dẫn du lịch dành cho người mới đến thuộc địa xuất bản năm 1906 (4) : “Những bộ cánh quý phái tươi trẻ của các Quý bà, Quý cô phương Tây xen lẫn với những bộ cánh đầy mầu sắc của phụ nữ Ấn Độ cùng với những chiếc váy mầu sậm của phụ nữ An Nam hay những bộ vét trắng của cánh đàn ông”.


Vẫn theo cuốn hướng dẫn du lịch, nhà thờ Đức Bà Sài Gòn là niềm tự hào của người dân công giáo địa phương. Thế nhưng, tác giả Arthur Delteil, trong cuốn Một năm lưu lại Nam Kỳ : Hướng dẫn cho du khách ở Sài Gòn (5), lại tỏ ra không có chút thiện cảm nào với công trình kiến trúc này. Ông viết :


“Nhà thờ hướng ra phố Catinat không có chút vẻ nào là một công trình xinh đẹp. Được xây bằng gạch, toàn bộ khối đồ sộ đó nằm trên nền móng bằng đá hoa cương khiến người ta liên tưởng đến những chiếc bánh ngọt béo ngậy được gọi một cách dân dã là “bánh pa-tê”. Công trình kiêu kỳ và xấu xí này đã tiêu tốn vài triệu franc của nhà nước. Nhìn từ bên ngoài, nhà thờ có hình chữ nhật dài, hai đầu là hai tháp chuông hình vuông và một chiếc cổng. Bên trong, gian giữa rộng và nóng, không khí không tuần hoàn được, cứ như đang xuyên qua một nốt phồng rộp trên da vậy.


Thay vì xây một giáo đường nhẹ nhàng, lịch lãm, có hành lang đúp để không khí có thể tràn vào thì người ta xây một khối to uỳnh, thiếu thẩm mỹ, không có phong cách và quá rộng so với số giáo dân ít ỏi thường đi lễ. Người ta muốn đánh vào trí tưởng tượng của người dân bản xứ bằng sự hoành tráng và áp đặt một công trình tôn giáo thờ Chúa trời. Tôi không biết liệu họ làm được như thế không, nhưng theo tôi, nhà thờ này là một thất bại”.


***


(1) V. A. Malte Brun (chủ biên), Annales des Voyages, de la géographie, de l’histoire et de l’archéologie, Paris : Challamel Aîné, 1869, T. 1.


(2) Raoul Postel, La Cochinchine française, Paris: A. Degorce-Cadot, 1883.


(3) Missions étrangères de Paris, Annales des Missions étrangères de Paris, 1918/07-1918/08.


(4) Saigon-Souvenir, petit guide saigonnais à l’usage des passagers des débutants dans la colonie, Saigon : Coudurier et Montégout, 1906.


(5) Arthur Delteil, Un an de séjour en Cochinchine : guide du voyageur à Saïgon, Paris : Challamel aîné, 1887.