Gs. Trần Anh Tuấn: Chúng ta thấy gì, qua những lần Việt Nam Sử Lược được tái bản trong nước?

20 Tháng Ba 201811:11 CH(Xem: 8577)

VĂN HÓA ONLINE - DIỄN ĐÀN VĂN HÓA  - THỨ  TƯ  21 MAR 2018


Chúng ta thấy gì, qua những lần Việt Nam Sử Lược được tái bản trong nước?


image021

TRẦN ANH TUẤN


Sau lần xuất bản đầu tiên năm 1920, Việt Nam Sử Lược được tái bản nhiều lần cho chúng ta thấy ảnh hưởng mạnh mẽ và xuyên suốt của một sử phẩm trong thế kỷ XX và XXI qua tất cả những chế độ khác nhau kể cả đối kháng nhau.


Thời Pháp thuộc, sách được xuất bản năm 1920 và tái bản một lần trong những năm 1926 (Quyển Thượng) và 1928 (Quyển Hạ). Thời quốc gia Việt Nam với Bảo Đại làm quốc trưởng, sách được tái bản 3 lần trong những năm 1949, 1951, và 1954.


image022

VNSL tái bản lần thứ nhất, Quyển Hạ, 1928 (Kho sách TAT)


Trên đây là bốn lần Việt Nam Sử Lược tái bản khi Trần Trọng Kim còn sinh tiền và sách đều được "Sửa-chữa cẩn-thận" như chính tác giả ghi trên bìa. Thời Việt Nam Cộng Hoà, khi Trần Trọng Kim không còn nữa (tác giả mất ngày 2.12.1953) thì sách được tái bản ba lần trong những năm 1958, 1964, và 1971.


Ngoài ra, sau năm 1975, một số nhà xuất bản tư nhân tại hải ngoại đã lợi dụng sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hoà mà tự do in lại bộ sách nên chúng tôi không thể kiểm chứng hết số lần tái bản.


Đặc biệt, thời Đảng Cộng Sản nắm chính quyền thì số phận của Việt Nam Sử Lược được đối xử rất mâu thuẫn, tỏ lộ tính không nhất quán thường thấy trong ngành sử học mác-xít, vốn có xu hướng thay đổi quan điểm theo từng giai đoạn khác nhau.


Trước hết là giai đoạn kết án


Trong gần nửa thế kỷ, từ thập niên 1950 đến thập niên 1990, giới cán bộ Sử Học miền Bắc liên tục kết án tác phẩm và phỉ báng tác giả.


Trần Huy Liệu, viên viện trưởng đầu tiên của Viện Sử Học đồng thời là Bộ Trưởng Bộ Tuyên Truyền trong chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, ngay năm 1955 khi từ chiến khu về thủ đô Hà Nội đã kết án nặng nề tác phẩm và tác giả qua bài viết tựa đề "Bóc trần quan điểm thực dân và phong kiến trong quyển Việt-nam sử lược của Trần-trọng-Kim." (Nghiên Cứu Văn Sử Địa, số 6, tháng 3-4.1955).


image023

VNSL tái bản lần thứ ba 1951 (Kho sách TAT)


Đến thập niên 1960, trên Nghiên Cứu Lịch Sử -cơ quan ngôn luận chính thức của Viện Sử Học thay thế cho tập san Nghiên Cứu Văn Sử Địa- lại có bài "Tăng cường đấu tranh tư tưởng trong lĩnh vực sử học. Đánh bại những quan điểm phản động và luận điệu xuyên tạc lịch sử dân tộc Việt Nam" của Bùi Đình Thanh (NCLS số 60, 3.1964, tt. 11-18&25). Bài viết nói đến "bọn phản động ở miền Nam đội lốt sử học" điển  hình là Nghiêm Xuân Hồng qua tác phẩm Lịch Trình Diễn Biến Phong Trào Quốc Gia Việt Nam đã "phục vụ trực tiếp cho sự xâm nhập của đế quốc Mỹ vào miền Nam (?)" (trang 17).


Sau đó năm 1964, Nghiên Cứu Lịch Sử xét "Vài nét về tình hình sử học miền Nam hiện nay" trong số 61 (4.1964, tt. 6-12) để "tác chiến chống những sử gia phản động ở miền Nam." Tác giả bài viết,  một người tên Đinh Việt Nam nào đó, mệnh danh "giới sử học thời Việt Nam Cộng Hoà là bè lũ tay sai đế quốc Mỹ, bè lũ Mỹ-Diệm" (trang 6). Về cá nhân thì Nguyễn Phương có "một thứ luận điệu vô sỉ, giọng lưỡi bịp bợm lập lại nhận định của Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược" (trang 7), và Ưng Trình đã "tô son trát phấn cho mụ Từ Dụ" (trang 9),  còn Phan Xuân Hoà thì "có luận điệu vu cáo xảo trá, uốn lưỡi cú diều biện chính cho việc đế quốc Mỹ xâm nhập miền Nam"  (trang 10).


Đến thập niên 1980 thì Văn Tạo, một viện trưởng khác của Viện Sử Học lên gân năm 1981: "...những người làm công tác sử học Việt Nam đã bóc trần các quan điểm sử học thực dân phong kiến trong một số sách lịch sử do bọn bồi bút thực dân biên soạn, mà tiêu biểu là cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim." Xin xem Văn Tạo, "Khoa Học Lịch Sử Việt Nam Trong Mấy Chục Năm Qua" trong Sử Học Việt Nam Trên Đường Phát Triển, Hà Nội, nxb Khoa Học Xã Hội, 1981, tr. 22-23. 


Cuối thập niên 1980 thì một lần nữa, Văn Tạo nhắc lại "quan điểm sử học phản động của Trần Trọng Kim" trong bài "30 năm tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử và sự cống hiến của nhà sử học Trần Huy Liệu" trên NCLS số 3+4 (246-247),  1989, tr. 3.


Vậy đó, cả một quá trình thông tin tuyên truyền để phỉ báng sử gia Trần Trọng Kim nói riêng và giới sử học Việt Nam Cộng Hoà nói chung kéo dài suốt nửa thế kỷ.


Giai đoạn thoát khỏi chính sách thông tin tuyên truyền


Bắt đầu từ thập niên 1990, độc giả không còn thấy ai trong giới sử học Hà Nội công kích hay kết án Việt Nam Sử Lược nữa. Đến năm 1994 thì Hội Khoa Học Lịch Sử cho xuất bản một chuyên san. Đó là Xưa&Nay.


Là hai cơ quan ngôn luận của hai thực thể khác nhau, Xưa&Nay khác với Nghiên Cứu Lịch Sử về nội dung lẫn đối tượng.


Nội dung của nguyệt san Nghiên Cứu Lịch Sử (Viện Sử Học) là tiếng nói chuyên nghiệp với những bài viết có tính cách hàn lâm, đủ cả cước chú thư mục và dài hàng 5-7 trang hay hơn nữa. Tính cách khô khan của nội dung Nghiên Cứu Lịch Sử chính là những lý thuyết, nhận định, và hướng dẫn cho giới nghiên cứu và giảng dạy sử học Hà Nội phục vụ chính trị, ở đây phải nói rõ là sử học mác-xít tức thông tin tuyên truyền.


Xưa&Nay (Hội Khoa Học Lịch Sử) trái lại, là bán nguyệt san mà đối tượng là đại chúng có nhu cầu học sử và ham thích đọc sử. Bài trong Xưa&Nay rất ngắn, khoảng 2-3 trang mà thường là ngắn hơn nữa. Bên cạnh một số bài có tính cách nghiên cứu là những mẩu hồi ký, những phát hiện mới kể cả những lượm lặt một hai chi tiết về biến cố hay nhân vật mà có người tình cờ chứng kiến hay tham dự ghi lại. Nội dung trong Xưa&Nay vì thế nhẹ nhàng, ngắn gọn, và dễ đọc, nhất là vì bài thường có hình ảnh lịch sử kèm theo.


Về phương diện chính trị, Nghiên Cứu Lịch Sử chuyên chở bài vở của các tác giả thuộc Viện Sử Học. Tác giả ngoại quốc đa số không ai khác hơn là người Liên Xô với những bài chủ yếu dạy cách viết sử mác-xít, thường ký tên ép lép hay cốp rốp, như Bi-ri-u-cô-vích, Cốt-xơ-min-ski. Giu-cốp, Gu-Lư-Ga, Kôvachenkô, Lê-vi-ski, Phêđôxêép, Ô-de-rốp, Pi-gu-lép-scai-a, Pô-chê-khin, Taratuta,Tikhvinski, Xin-kô-li-kin, Y-a-xun-sky...


Còn Xưa&Nay là sân chơi của Hội Khoa Học Lịch Sử khi ra biển lớn thời Đổi Mới, là nơi không còn phải kiêng cử vì chủ trương và những định kiến ta-địch suốt từ thập niên 1950 đến cuối thập niên 1980, và là nơi mở ra cho tiếng nói của người trong và ngoài nước được hội tụ. Do đó, nội dung của Xưa&Nay gồm nhiều bài của nhiều tác giả phương Tây và người gốc Việt tại hải ngoại.


Pháp, như Raymond Aubrac, Claude Blanchemaison, Georges Boudarel, Pierre Brocheux, Michel Cartier, Michel Cassagnes, Francoise Chandernagor, Philippe Chaplain, Jean Chesneaux, George Codominas, Jean Cusso, Jacques Dalloz, René de Clère, J.C. Demariaux, Georges Duby, Philippe le Failler, Charles Fourniau, Philippe Franchini, Jean-Michet Gaillard, Gilles de Gantès, Paulette Girard, Christopher E. Goscha, Mathieu Guérin, Andrew Hardy, Daniel Hémery, Génin Hugo, Alfred Kroeber, Philippe Langlet, Charles Macdonal, France Mangin, André Menras, Xavier Monthéard, Patrice Morlat, Jean Lacouture, Philippe Papin, Jacques Paviot, Pascal Picq, Lean-Claude Pomonti, Ignacio Ramonet, Alain Ruscio, Gérard Sasges, Oliver Tessier, Vincent Thierry, Pierre Thomas, Léon Vandermeersch... Mỹ, như Lady Borton, Peter DeCaro, William J. Duiker, Jason Gibbs, David Halberstam, Stanley Karnow, Jean Kean, David Marr, O'Harrow, A. Patti, J.R. Starobin, Keith Taylor, Bradley Thomson (sic!)... Đức, như Heinz Schutte.  Hà Lan, như John Kleinen.  Ý, như Blamcamaria Fontana. Liên Xô, như I.B. Bukharkin, D.V. Deopik, Vadim Kozinop, B.N. Saplin, A.A. Sokolov... Iran, như Yousef Madjizadeh. Úc, như John Caldwell, Andrew Higgins, Alex Leonard, Carthlyle Thayer. Tân Tây Lan, như Allison I. Diem. Nhật, như Kawaguchi Kenichi, Nishimura Masanari, Takamasa Saito, Eto Shinkichi, Izumi Takahashi, Yoshiharu Tsuboi. Mông Cổ, như Li Tana. Đại Hàn, như Jae Hyun, Lee Keum Yeop, Choi Ki Young... Indonesia, như Asvi Warman Adam. Singapore, như Philip Taylor.


 Và đặc biệt nhất là các tác giả gốc Việt. Ở Pháp, có Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Bá Lăng, Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Đinh Trọng Hiếu, Phan Thị Minh Lễ, Trịnh Văn Thảo... Ở Hoa Kỳ, có Kiều Quang Chẩn, Nguyễn Duy Chính, Nguyễn Tà Cúc, Bùi Minh Đức (?), Lê Xuân Khoa, Đàm Trung Pháp, Hồ Huệ Tâm, Hồ Bạch Thảo, Tạ Chí Đại Trường, Đỗ Đình Tuân (?), Trần Anh Tuấn... Ở Canada, có Vĩnh Sính. Ở Úc, có Nguyễn Hưng Quốc.


Từ năm 2004, Xưa&Nay đã có bài ca tụng lương tâm và phẩm cách của một kẻ sĩ-học giả tức Trần Trọng Kim trong bài "Trần Trọng Kim trong góc khuất của lịch sử" của Hà Vinh (XN số 212, tháng 5.2004, tr. 11-13).


Tác giả đã công phu tìm hiểu cặn kẽ thân thế Trần Trọng Kim và ca tụng công cuộc chấn hưng nền quốc học của sử gia họ Trần qua những bộ Quốc Văn Giáo Khoa Thư, Luân Lý Giáo Khoa Thư, tác phẩm Nho Giáo, Phật Giáo, Lão Giáo... cũng như công trình vun đắp văn hoá dân tộc của Cụ qua các tác phẩm Đường Thi, Việt Thi, Truyện Thúy Kiều...


Về Việt Nam Sử Lược, tác giả Hà Vinh trang trọng giới thiệu như một sử phẩm có giá trị  được nhiều thế hệ ưa thích vì nó vừa cô đọng vừa cụ thể, hấp dẫn và có tính phê phán. Điều rất đặc biệt là trong bài viết này, Hà Vinh đã tiết lộ rằng lãnh tụ Hồ Chí Minh của họ đã đọc Việt Nam Sử Lược để học sử.


"Bác Hồ" đã thế, thử hỏi giới cán bộ chuyên về sử lớp đầu tiên như Nguyễn Văn Huyên, Trần Đức Thảo, Trần Văn Giáp, Nguyễn Khánh Toàn, Đào Duy Anh... đọc gì để học thông sử của dân Việt? Rồi lớp sau như Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng nữa?


Thực tế trong những thập niên 1940-1950 thì sách Việt Nam Sử Lược dễ đọc, dễ hiểu, và nhất là dễ tìm. Ngoài Việt Nam Sử Lược ra thì chỉ còn những bộ sách chữ Hán, chữ Pháp khó đọc, khó hiểu, và nhất là khó tìm trong hoàn cảnh làng quê hay núi rừng là những chiến khu của Đảng Cộng Sản Việt Nam!


Trong Xưa&Nay số 346 (12.2009), một tác giả là Mai Khắc Ứng đã nhận định Trần Trọng Kim là "một người viết sử rạch ròi, phân minh... một học giả có nhân cách..." Mai Khắc Ứng còn cho biết chính thầy học của ông, Trần Quốc Vượng, đã rỉ tai khuyên ông tìm đọc Việt Nam Sử Lược.


Trần Quốc Vượng là một trong "Tứ Trụ Triều Đình," gồm các giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, và Trần Quốc Vượng. Hai người Đinh Xuân Lâm (1925-2017) và Trần Quốc Vượng (1934-2005) đã mất, giáo sư Hà Văn Tấn hiện yếu mệt, tay run viết rất khó khăn. Chỉ còn lại giáo sư Phan Huy Lê, người can đảm viết rõ chuyện viên viện trưởng Viện Sử Học Trần Huy Liệu bịa đặt ra nhân vật lịch sử Lê Văn Tám để thông tin tuyên truyền. Xin xem: "Về câu chuyện Lê Văn Tám" trong Xưa&Nay số 340 (9.2009), tr. 8-11. Bài viết đó của giáo sư Phan Huy Lê cho thấy, bên cạnh vai trò cán bộ đảng viên nặng nề trong bài viết, độc giả vẫn nhận ra thấp thoáng hình ảnh của một sử gia! 


Liệu giáo sư Lê có tiếp tục can đảm -theo truyền thống của gia tộc Phan Huy- nói rõ "số phận" của sử phẩm Việt Nam Sử Lược dưới chế độ Cộng Sản, sau khi đã tuyên bố, nguyên văn trong bài Lê Văn Tám vừa dẫn, trang 11: "Đối với sử học, tôn trọng sự thật, tìm ra sự thật, xác minh sự thật là một nguyên tắc cao cả thuộc về phẩm chất và chức năng của nhà sử học"?


Trước Phan Huy Lê hai năm, năm 2007, Tạ Ngọc Liễn trong Viện Sử Học đã có bài
"Sử học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và những đặc điểm của nó" trong Nghiên Cứu Lịch Sử số 8 (2007, tr. 11-20). Trong bài này, tác giả xác định Phan Bội Châu  là người mở đầu cho nền sử học mới ở Việt Nam, vì cụ viết Việt Nam Vong Quốc Sử in năm 1905, và Việt Nam Quốc Sử Khảo in năm 1909.


Nhận định này theo cùng nếp suy nghĩ của một tác giả người Pháp là Georges Boudarel trước đó 40 năm, năm 1969 trong tạp chí France-Asie (Bài "Phan Boi Chau et la société Vietnamienne de son temps," France-Asie số 4).


Nhưng bản chất của hai quyển sách này không phải là nghiên cứu sử học, mà là tài liệu thông tin có mục đích chống Pháp, khích động niềm tự hào dân tộc đồng thời phơi ra ánh sáng nỗi nhục của người dân mất nước để thúc đẩy đồng bào, nhất là thanh niên, đứng lên đánh đuổi bọn thực dân cướp nước. Huống chi hai tập Việt Nam Vong Quốc SửViệt Nam Quốc Sử Khảo đều là sách viết bằng chữ Tàu và xuất bản bên Tàu (quyển trước) bên Nhật (quyển sau). Chưa kể Việt Nam Vong Quốc Sử còn có sự tham dự nặng nề của ngòi bút Lương Khải Siêu.


Điều đáng ngạc nhiên, là càng về sau cho đến tận kết luận của bài viết, Tạ Ngọc Liễn càng ca tụng Việt Nam Sử Lược.


Nào là "uyên bác và vững chắc trong học thuật... khiến chúng ta không thể không kính phục." Nào là "Nếu thống kê các tác phẩm thuộc về sử học được viết trong nửa đầu thế kỷ XX... sách thông sử chỉ có một bộ là Việt Nam Sử Lược." Nào là "Trong nhiều năm qua, những người yêu thích sử vẫn tìm đọc Việt Nam Sử Lược, khen ngợi tác phẩm này, với lý do đơn giản, đây là một bộ sử có nhiều sử liệu, nhiều sự kiện lịch sử, ít những lời bình tán mang tính chủ quan..." Nào là "Việt Nam Sử Lược không chỉ là bộ thông sử đầu tiên mà còn là bộ thông sử viết bằng chữ Quốc Ngữ đầu tiên ở nước ta." Nào là "... ngoài thái độ cẩn mật, nghiêm túc ra, tác giả (tức Trần Trọng Kim) còn nêu cao tinh thần khách quan, tôn trọng sự thật lịch sử được ghi chép ở sử cũ."


Kết luận của Tạ Ngọc Liễn là ngòi bút viết sử Trần Trọng Kim đã hoàn tất "việc tìm kiếm tư liệu, giám định, hiệu chỉnh sử liệu, khôi phục sự kiện, tạo dựng lại bức tranh lịch sử một cách khách quan, không tô vẽ lịch sử theo chủ quan của mình."


Thật là những nhận định -đúng ra là những sự ca tụng- rất cụ thể và hết sức chi tiết. 


Cái khéo của ngòi bút họ Tạ ở Hà Nội là ông không dành những phẩm chất cao quí của người viết sử cho riêng Trần Trọng Kim, vì bên cạnh sử gia họ Trần ông kèm tên tuổi của nhiều người theo Đảng Cộng Sản Việt Nam, là Trần Văn Giáp, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Tố, Đào Duy Anh, và Hoàng Xuân Hãn. Và bên cạnh Việt Nam Sử LượcLe Bouddhisme en Annam des Origines au XIIIè Siècle (Trần Văn Giáp, 1932), Les Chants Alternés des Garcons et des Filles en Annam (Nguyễn Văn Huyên, 1933), Sử Ta So Với Sử Tầu (Nguyễn Văn Tố, trong tạp chí  Tri Tân, 1941-44), Việt Nam Văn Hoá Sử Cương (Đào Duy Anh, 1938), Lý Thường Kiệt (Hoàng Xuân Hãn, 1949), vân vân.


Năm 2012, trên tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử, Phan Trọng Báu viết bài "Vài nét về bộ sách giáo khoa bậc sơ học của Trần Trọng Kim" nhằm đóng góp ý kiến cho giới soạn sách giáo khoa hiện thời (NCLS, số  7, 2012, tr. 60-67).


Nhưng đó chính là dịp cho tác giả Phan Trọng Báu trong Viện Sử Học ca tụng họ Trần là "... người sâu sắc cựu học vững vàng tân học... văn phong thống nhất, trong sáng và dễ hiểu... Sách giáo khoa do Trần Trọng Kim chủ biên đã có tính dân tộc rất cao... nhằm nêu gương sáng về đạo đức cần kiệm liêm chính tu thân tề gia trị quốc... Nhóm biên soạn đứng đầu là Trần Trọng Kim xứng đáng được đánh giá cao là những nhà sư phạm sáng giá, những nhà biên soạn sách giáo khoa mẫu mực..."


Thật khác với thái độ hung hăng bóc trần bồi bút thực dân phong kiến Trần Trọng Kim của Trần Huy Liệu, viện trưởng Viện Sử Học trong thập niên 1950, và Văn Tạo, viện trưởng Viện Sử Học trong thập niên 1980.


Năm 2014, Xưa&Nay đăng lại bài "Lịch sử sự thật và sử học" của Hà Văn Tấn. Đây thực ra là bài viết đã được phổ biến từ năm 1988 và Xưa&Nay đã đăng lại năm 1994, đến nay đăng lại lần thứ ba (XN số 445, tháng 3.2014, trang 5-7) như một bản tự phê về cách viết sử một chiều của chế độ mà xã hội nay đã đến giai đoạn phải "nhìn thẳng vào sự thật và viết đúng sự thật."


Đây chính là phản ứng của một trí thức về -ngôn từ của chính tác giả- "nỗi đau nội tâm, bị tê tái bị dằn vặt lâu năm" trong một xã hội mà "mọi sự thật bị che đậy hay bị xuyên tạc." Và toà soạn tạp chí Xưa&Nay đăng lại thêm một lần nữa như tuyên ngôn, hơn thế nữa, như tôn chỉ của giới sử học Việt Nam bây giờ, cũng có nghĩa là chứng tỏ tính chuyên nghiệp của họ khi ra biển lớn để gặp giới sử học quốc tế. 


Tiếp theo tiếng nói của giáo sư Hà Văn Tấn, giáo sư Vũ Dương Ninh lên tiếng trong bài "Vị trí của môn Lịch Sử trong nền giáo dục phổ thông. Hiện trạng và giải pháp" phổ biến trong Xưa&Nay số 465, tháng 11.2015, trang 8-10. Nhà giáo Vũ Dương Ninh than trách chuyện trong và̉i chục năm qua, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Hà Nội đã đối xử, nguyên văn, "không đúng đắn, thiểu công bằng, có phần tùy tiện..." Ba tính cách này được tác giả liệt kê chi tiết, gồm sự việc môn sử không là môn thi chính thức trong chương trình thi tốt nghiệp phổ thông, môn sử và địa bị quy định luân phiên, năm nay thi môn sử thì năm sau thi môn địa, rồi môn sử là môn thay thế và tự chọn, nghĩa là học sinh có thể chọn thi môn ngoại ngữ hay môn sử, hoàn toàn không bắt buộc phải học. Cuối cùng, theo chương trình mới của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Hà Nội thì ngày nay môn sử mất cả chính cái tên riêng vì nó phải nằm trong một cái tên lạ lùng đậm chất tuyên truyền áp đặt, là "Công dân với tổ quốc."


Và sau khi Vũ Dương Ninh ghi lại những sai trái của nước Tầu gồm tư tưởng bá quyền, ngụy tạo đường lưỡi bò trên Biển Đông, dạy cho Việt Nam một bài học năm 1979... thì tác giả kết luận, nguyên văn: "Nhưng Việt Nam đã giữ một thái độ im lặng đến khó hiểu về những sự kiện trên."


Đây là tiếng nói trái chiều đối với đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam hiện nay. Nhưng ở một phương diện khác, đó là tiếng nói đồng cảm với giới trí thức gốc Việt trong Thế Giới Tự Do, vốn biết tính chất của chủ nghĩa Cộng Sản và chính thể Cộng Sản từ lâu, trừ vài người xuất thân từ đại học Pháp như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, và Hoàng Xuân Hãn!


Đến số Xuân Bính Thìn 2016 thì Xưa&Nay đi rất xa trong công cuộc tôn trọng những giá trị tinh thần không những của Trần Trọng Kim mà còn của cả những sinh hoạt văn hoá thời Việt Nam Cộng Hoà, cụ thể là của Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hoá. Đó là bài của tác giả Nguyễn Duy Long ca tụng việc tìm kiếm và gìn giữ các thư tịch cổ qua việc Phủ này cuối năm 1971 đã thương lượng để thu hồi bộ Đại Nam Thực Lục Chính Biên Đệ Thất Kỷ viết về thời Khải Định (1916-1925) lưu lạc sang Singapore. Bài có tựa đề "Dấu vết một bộ sử ký," trang 72-73. Một chi tiết trong bài cần nói lại cho chính xác, là tên vị Giám Đốc Viện Khảo Cổ VNCH lúc ấy là kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng, chứ không phải Bá Lang.


Còn bộ Việt Nam Sử Lược được giới thiệu trang trọng trong bài "Việt Nam Sử Lược bộ tín sử đầu tiên soạn bằng tiếng Việt" của Trần Văn Chánh nơi trang 80-82.


Chỉ đọc tựa đề của bài viết cũng đã thấy nội dung bài viết tôn kính Trần Trọng Kim đến mức nào. Chi tiết "đầu tiên" và chi tiết "soạn bằng tiếng Việt" là những chi tiết về sự kiện. Và chi tiết "bộ tín sử" là sự khẳng định chân giá trị của tác phẩm và tác giả.


Kết luận của Trần Văn Chánh về Việt Nam Sử Lược là "... một bộ tín sử có phong cách trình bày ngắn gọn, xúc tích, dễ hiểu dễ nhớ, sinh động và hấp dẫn nhất từ trước đến nay" (trang 80). Còn Trần Trọng Kim là "tiếng nói của lương tri nhà sử học" (trang 81).


Hai nhận định này hẳn đã đủ phủ định mấy chục năm chính quyền Hà Nội kết án "sách phản động, cấm lưu hành" với ngôn từ trấn áp của bạo quyền. 


Bài viết của Trần Văn Chánh ngắn gọn nhưng đầy đủ với thái độ điềm tĩnh và chững chạc của một tác giả luống tuổi miền Nam. Tuy Trần Văn Chánh mới xuất hiện trên Xưa&Nay, nhưng đã có bài trên tạp chí Nghiên Cứu và Phát Triển từ năm 2013 cũng về Trần Trọng Kim.


X

X  X


Bắt đầu từ thập niên 2000, Việt Nam Sử Lược hầu như được các nhà xuất bản trong nước tái bản hàng năm. Riêng trong khoảng thời gian 1999-2017 cũng đã có ít nhất 14 lần sách được tái bản. Đó là những năm 1999, 2000, 2003, 2005, 2006 (hai lần), 2008, 2010, 2011, 2012, 2013, 2015, 2016, 2017.


Đáng chú ý là những lần tái bản bộ sách của nhà xuất bản Kim Đồng. Đầu tiên là lần tái bản tháng 7.2016, khổ nhỏ 14cm x 22.5cm và in thành hai tập, bìa mỏng.


Cơ sở này đã quí trọng sách Việt Nam Sử Lược đến độ cho nhân viên sang Pháp gặp gia đình Trần Trọng Kim để xin phép tái bản. Dĩ nhiên cung cách hành xử này chỉ tỏ bầy sự tôn kính tác giả họ Trần vì bản quyền sách đã không còn hiệu lực, và thân nhân duy nhất còn lại của cụ Trần là bà Trần Thị Diệu Chương suốt đời sống bên Pháp nên không hiểu rõ việc làm của thân phụ cũng như chỉ có kiến thức giới hạn về lịch sử dân Việt. Bằng chứng là bộ sử cùa thân phụ bà chỉ tái bản có bốn (4) lần, bị bà viết sai thành năm (5) lần. Cái sai của bà Trần Thị Diệu Chương dẫn xuất từ cái bìa sách in năm 1954 ghi "In lần thứ năm," mà bà không biết rằng, hoặc chính thân phụ bà hoặc nhà xuất bản, đã tính tổng cộng một (1) lần in đầu tiên và bốn (4) lần tái bản. Thêm một bằng chứng nữa, là trong "Mấy Lời Nói Đầu cho cuốn Việt Nam Sử Lược do Trần Thị Diệu Chương viết, bà đã nhầm Quốc Sử Quán triều Nguyễn thành "Quốc Sử Giám!" Lỗi này đã được sửa lại trong ấn bản của nhà xuất bản Kim Đồng sau đó nửa năm.


Thật vậy, tháng 2.2017, Kim Đồng lại tái bản bộ sách một cách rất trang trọng, khổ lớn 16cm x 24cm, bìa cứng, mệnh danh là "Bản Đặc Biệt." Bản đặc biệt này có thêm bài "Trần Trọng Kim, nhà giáo dục tâm huyết, chính trị gia bất đắc dĩ" của ba tác giả Nguyễn Quốc Tín, Nguyễn Như Mai, Nguyễn Huy Thắng và một "Bảng Chỉ Mục." Danh xưng mới này không gì khác hơn là Sách Dẫn, được chế tác thay cho từ ngữ "Sách Dẫn" của "Mỹ Ngụy" chăng? 


image024

VNSL bản đặc biệt, nxb Kim Đồng, 2017 (Kho sách TAT)


Mặt khác, tôi rất tiếc là hai lần Việt Nam Sử Lược được Kim Đồng tái bản nêu trên đều bị sai lạc nguyên tác đến độ không còn là nguyên tác nữa!


Trong "Lời Nhà Xuất Bản" của Kim Đồng trong hai năm 2016 và 2017, họ khẳng định họ in theo nguyên tác bản in năm 1954 là bản in đầy đủ, chính xác nhất, đã được tác giả chỉnh sửa trước khi mất. Nhưng ngay sau đó, họ tuyên bố, nguyên văn: "... những cách viết, cách trình bầy theo kiểu cũ đều được chữa cho phù hợp với cách viết của tiếng Việt hiện tại... Những chỉnh sửa này đã được gia đình tác giả cho phép."


Thứ nhất, văn thể của nguyên tác trong thế kỷ XX đã bị "chỉnh sửa" thành văn thể đầu thế kỷ XXI có thể nói là một "tội ác" với tác giả và với độc giả.


Với tác giả, Trần Trọng Kim đâu có lối viết và sử dụng ngôn ngữ của người Hà Nội hôm nay như trong sách tái bản?!


Nhà Lý trong nguyên tác của ngòi bút Trần Trọng Kim đã bị "chỉnh sửa" thành nhà Lí. Rồi Hồ Quí Ly thành Hồ Quý Li, nghĩa là Y trong nguyên tác bị "chỉnh sửa" thành I, mà ngược lại, I trong nguyên tác bị "chỉnh sửa" thành Y! 


Văn cổ trong nguyên tác là "nước bể khôn rửa sạch mùi" trong Bình Ngô Đại Cáo đã bị "chỉnh sửa" thành "nước bể không rửa sạch mùi" khiến hơi văn trở thành non nớt quê mùa!


Với độc giả, sự hào hứng, bất ngờ, và mới mẻ khi đọc một bản văn trước thời đại cả 100 năm đâu còn nữa?!


Thứ đến, chuyện "được sự cho phép của gia đình về chuyện sửa đổi" chỉ là... chuyện vui, làm cho đẹp mọi bề, mà không có giá trị chuyên nghiệp!


Một bản in lại khác, cũng chính là bản công phu nhất là bản in của nhà xuất bản Văn Học liên kết xuất bản và phát hành với công ty Nhã Nam đầu năm 2017 (Hưng Yên, 2017, 530 tr.).


image025

VNSL bản in của Văn Học&Nhã Nam, 2017 (Kho sách TAT)


Trước hết, bản in này có bài "Trần Trọng Kim và Việt Nam Sử Lược" của Trần Văn Chánh (tr. 5-20) là phần giới thiệu tác giả và tác phẩm. Rất đầy đủ và công phu. Thống kê về những lần bộ Việt Nam Sử Lược được tái bản mà tôi ghi trên chính đã căn cứ phần lớn vào bài của tác giả Trần Văn Chánh.


Thứ đến, bản in này có cả "Thể lệ biên tập," là động tác chuyên nghiệp của một cơ sở xuất bản. Đáng tiếc là phần này lại vướng vào mâu thuẫn nội tại khi đặt ra Lệ số 2: "quy cách viết hoa được điều chỉnh... xóa bỏ các dấu nối..." mà tiếp ngay sau lại ghi, nguyên văn, "không có bất kỳ một sự can thiệp nào làm thay đổi nội dung cũng như câu chữ của tác giả!"


Thứ ba, bản in này có hình bìa của lần in đầu tiên năm 1920, bìa bản in Tập Thứ Nhất lần thứ hai năm 1926, và bìa bản in lần thứ ba năm 1949.


Thứ tư, bản in này được nhóm biên tập bốn người Nguyễn Anh Vũ, La Kim Liên, Nguyễn Thu Hà, và Trần Văn Chánh lập thêm Bảng Từ Vựng để giúp các thế hệ trẻ bây gìờ thông suốt những từ ngữ Hán Việt khó hiểu trong Việt Nam Sử Lược.


Và cuối cùng,  nhóm biên tập thêm phần Sách Dẫn rất công phu dài tới 38 trang. Chỉ một chi tiết nhỏ, là tại sao danh xưng ngắn, chính xác, lại quen thuộc là "Sách Dẫn" được ghi nơi đầu sách lại bị thay bằng cái định nghĩa của Sách Dẫn, là "Bảng tra tên người-tên đất-tên sách" nơi cuối sách?


X

X  X X


Nội dung của Việt Nam Sử Lược chỉ được soạn cho đến năm 1902. Từ đó đã hơn một thế kỷ, người Việt vẫn chưa có một bộ thông sử nào xứng đáng tiếp nối, dù nhiều tác giả gốc Việt tại hải ngoại đã có những cố gắng dài hơi, như Trần Gia Phụng ở Canada, Hoàng Cơ Thụy ở Pháp, và Lê Mạnh Hùng ở Hoa Kỳ.


Còn trong nước, Viện Sử Học phát hành bộ thông sử 15 quyển năm ngoái. Và Hội Khoa Học Lịch Sử đang hợp soạn một bộ thông sử khác 30 quyển.


Bộ trước do 30 người soạn, bộ sau có hơn  250 người!


Phải chăng nghiên cứu sử cũng nằm trong trào lưu "lập kỷ lục" trong xã hội Việt Nam ngày nay, khởi đầu với những tổng tập, như Hoàng Xuân Hãn (1998, 1,415 trang), Nguyễn Khánh Toàn (1999, 1,483 trang), Phạm Văn Đồng (2002-2006, 1,708 trang), Trần Văn Giàu (2006, 1,881 trang), Nguyễn Phan Quang (2006, 1407 trang)...?


Nhưng dù có lập được kỷ lục về lượng với số người soạn và số trang in, thì giá trị về chất của sản phẩm mà Hội Khoa Học Lịch Sử Hà Nội đang hợp soạn sẽ ra sao, vì ai có thể bảo đảm rằng tập thể hơn 250 soạn giả đều là những người có thực học thực tài?!


TRẦN ANH TUẤN


18.3.2018
19 Tháng Mười 2018(Xem: 7470)
14 Tháng Mười 2018(Xem: 8865)