Nguyễn Cơ Thạch đứng lên đập bàn mắng Lê Đức Anh Nguyễn Văn Linh Đỗ Mười

14 Tháng Ba 20197:43 CH(Xem: 10057)

VĂN HÓA ONLINE - DIỄN ĐÀN VĂN HÓA - THỨ SÁU 15 MAR 2019


image016

Gia đình Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch. Ảnh gia đình cung cấp


Nguyễn Cơ Thạch đứng lên đập bàn mắng Lê Đức Anh Nguyễn Văn Linh Đỗ Mười


VĂN HÓA ONLINE - 06 Tháng Ba 201412:00 SA(Xem: 144161)


image017
Tàu HQ 604 tại Gạc Ma, tàu HQ 505 phía đảo Cô Lin cách đó 5 km và HQ 605 phía đảo Len Đao cách 12 km. Tàu HQ 604 tại Gạc Ma, tàu HQ 505 phía đảo Cô Lin cách đó 5 km và HQ 605 phía đảo Len Đao cách 12 km.
“… Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã đứng lên đập bàn hết sức giận dữ. Ông nói đại ý:  đang không có gì, anh lại tạo cho nó chỗ đứng ở Trường Sa, làm thay đổi hẳn bàn cờ chiến lược, hình thành thế xôi đỗ rất nguy hiểm. Hầu như không ai lên tiếng ủng hộ ông Thạch, mỗi người ít nhiều đều có lý do riêng, ví như ông TBT Nguyễn Văn Linh thì vốn vẫn đồng quan điểm với ông Lê Đức Anh, muốn khôi phục tình “hữu nghị anh em” với TQ, còn ông Đỗ Mười thì mong được thế vào chiếc ghế vừa bỏ trống của ông Phạm Hùng …”


Huy Đức: Cận Cảnh Gạc Ma


Cuộc đụng độ súng đạn chỉ diễn ra chưa đầy 20 phút nhưng nó kéo dài, có lẽ sẽ, tới hết cuộc đời Lê Hữu Thảo và những đồng đội sống sót của anh. Lê Hữu Thảo được "biên chế" vào một trong hai trung đội chiến đấu của Lữ 146 lập ra khá gấp rút trước khi tàu HQ-604 rời Cam Ranh ra Gạc Ma.


Bài I: 14-3-88
Ngày 10-3-1988, tàu 604 đã ra tới phao số 0 nhưng gió bão lớn quá phải quay lại. Cũng như HQ-605, HQ-604 là loại tàu vận tải nhỏ, cũ, do Trung Quốc viện trợ. Chập tối hôm sau, 11-3-1988, HQ-604 lại xuất phát tiếp dù sóng gió vẫn rất dữ dội.


Tàu 604 phải đi lòng vòng tiếp nước ngọt cho một số đảo, đến Gạc Ma thì đã khoảng 3, 4 giờ chiều 13-3. Khi ấy, thủy triều đang lên, chỉ có thể nhận dạng bãi san hô Gạc Ma qua mảng xanh nõn chuối kéo dài chừng 500m. Hơn nửa tiếng sau đó, một tàu khu trục của Trung Quốc tới, đậu cách 150m, quân lính kéo lên boong, bắc tay làm loa, hét to: "Đây là lãnh thổ Trung Quốc, yêu cầu tàu và bộ đội Việt Nam rút ra". Từ trên boong tàu HQ-604 hàng chục người lính Việt Nam cũng bụm tay đáp trả: "Đây là lãnh thổ Việt Nam!".


Thảo và một đồng đội sống sót, Phạm Xuân Trường (18-2-2014). Nói qua, nói lại một lúc, tàu Trung Quốc lui ra khỏi tầm mắt. Một số bộ đội công binh lấy cần câu cá. Trong khi, trên mặt một số tân binh không giấu được chút âu lo.


Tối 13-3-1988, một số anh em quá mệt do say sóng xuống hầm tàu nghỉ. Phần lớn ở lại trên boong. Đây chính là thời gian mà những người lính Gạc Ma bắt đầu làm quen nhau. Trên tàu lúc ấy gồm: Thủy thủ đoàn 22 người; Lính thủy đánh bộ, Lữ 146, khoảng 30 người; 5 người Quân chủng Hải quân gửi theo thực tập; Phía Công binh, trung đoàn 83, có khoảng 50 người. Họ chỉ biết nhau từ khi bước xuống tàu, rồi phải trải qua một hải trình mà sóng gió làm cho gần như tất cả đều phải nôn thốc, nôn tháo.


Khoảng 3 giờ sáng, thủy triều xuống, Công binh hạ thuyền, đưa người ra trồng cột, dựng cờ. 5 giờ sáng, Trần Văn Phương, trung đội phó; Nguyễn Mậu Phong, trung đội trưởng, gọi tiểu đội trưởng Lê Hữu Thảo, giao nhiệm vụ đưa chiến sỹ xuống bãi đá giữ cờ. Thảo gọi Đậu Xuân Tư và Nguyễn Văn Thành đi cùng, nhưng Thành bị cảm nên HoàngTrọng Chúc xuống thay. Khi ấy, súng ống vẫn còn để trong thùng gỗ, chưa kịp lau dầu mỡ. Thảo nói với thủy thủ đoàn: "Cho tôi mượn hai khẩu AK". Thảo, Chúc, Tư cùng Phương, Phong xuống thuyền, Công binh chèo ra phía "cột cờ". Ở trên boong Lữ đoàn phó Trần Đức Thông ra lệnh: "Tất cả dậy ăn sáng và mang vũ khí lên lau chùi". Sau khi mọi người ổn định, Phong cùng các chiến sỹ công binh quay lại tàu, chỉ huy việc vận chuyển vật liệu. Nhiệm vụ của Công binh là dựng ở Gạc Ma một căn nhà chòi đủ cho mộttrung đội ở.


Đây là phần quan trọng nhất trong chiến dịch "Chủ quyền88"[1]. Trong số bốn người ở lại, Phương - Thảo - Tư - Chúc, chỉ có Thảo và Tư là có AK.
Thảo bao quát tình hình, kiểm tra cột cờ, rồi lấy thuốc lá ra hút trong không gian biển gần như tĩnh lặng. Từ trên boong, Thảo nhìn thấy chiến sỹ công binh Nguyễn Văn Lanh, mặc quần đùi màu đỏ, nhảy xuống, bơi ra nơi có khoảng 5, 6 chiến sỹ công binh khác. Chuyến xuồng thứ hai, thay vì chở vật liệu, đã kéo một dây cáp dài từ mạn tàu ra ngoài bãi cạn, neo lại cách chỗ Thảo đứng khoảng hơn mười mét. Từ xa, tàu Trung Quốc bắt đầu tiến gần; ngoảnh lại, phía Việt Nam có thêm hai tàu, HQ-505 và HQ-605. Công binh vẫn lặng lẽ vận chuyển cột bê tông đồng thời chuẩn bị thêm cờ. Khi ấy, cờ Việt Nam vẫn bay trên bãi đá Gạc Ma.


Lập tức, tàu Trung Quốc ập tới. Ba tàu khu trục vào gần, một tàu ở xa hơn. Về sau, anh em Công binh sống sót nói, khi còn ở trên boong, họ nhìn thấy trên chiếc tàu thứ 4 đó có người quay phim. Rất nhanh, 4 xuồng máy được thả xuống, chuyển lính đổ bộ, rải dọc theo bãi đá. Thảo đếm được 49 tên, trong đó có một tên mang máy điện đàm. Viên chỉ huy xuống sau cùng, đứng cách Thảo 3 mét.


Ở dưới bãi đá, trong khi phía Việt Nam chỉ có hai khẩu AK; 50 lính Trung Quốc trang bị súng, dao găm. Bọn họ tuốt lê rồi lấy lương khô ra ăn. Trong thời gian đó, một chiếc xuồng máy Trung Quốc chạy vòng vòng quanh HQ-604, chĩa đại liên lên tàu, liên tục yêu cầu "Việt Nam rút". Tiểu đội trưởng LêHữu Thảo nói với trung đội phó Trần Văn Phương: "Kiểu này, đánh giáp la cà là chắc, tôi phải xử lý thế nào?". Phương: "Đồng chí lại gần, bảo vệ cờ và quan sát. Đừng nổ súng trước. Bình tĩnh!".


Thêm một xuồng Công binh nữa được kéo ra. Lính Trung Quốc xáp lại. Nhiều chiến sỹ nhảy từ trên boong HQ-604 xuống hỗ trợ anh em. Cờ tổ quốc tiếp tục được chuyền tay nhau. Thảo đi về hướng sát cột cờ hơn.


Viên chỉ huy phía Trung Quốc - lúc này, đứng cách Thảo chừng 10 mét- rút khẩu súng ngắn, bắn một phát chỉ thiên. Dường như hắn cũng đang sợ hãi nên khẩu súng tuột khỏi tay rơi xuống biển. Bọn lính Trung Quốc bắt đầu xáp vào cướp cờ. Hai bên giằng co, xô đẩy. Thảo nhìn thấy lá cờ đỏ được chuyền tới tay anh Phương. Phương vừa bước được mấy bước thì súng nổ, Thảo nghe Phương kêu:"Cứu tôi". Súng lại nổ, Thảo thấy Phương ngã xuống. Ở chỗ Thảo, một tên lính Trung Quốc nhảy vào giật khẩu AK đang đeo trước ngực Đậu Xuân Tư. Thảo cùng Tư giằng lại. Một thằng dùng lê đâm Thảo nhưng không trúng. Cùng lúc tiếng súng rộ lên. Thảo chĩa súng vào đội hình lính Trung Quốc, siết cò cho đến khi hết đạn...


Về sau nhớ lại, Thảo nghĩ, chỉ cần chậm mấy giây là hết cơ hội. Các đồng đội của Thảo từ trên tàu cũng đồng loạt nổ súng. Bọn lính Trung Quốc vừa dùng AK bắn trả vừa lên xuồng máy về tàu. Từ khi đó, quanh chỗ Thảo đứng, đạn dội xuống xối xả từ các tàu địch. Đạn 100 ly, 76 ly 2; 12 ly 7, đại liên... Đạn trùm lên đồng đội đang đứng trên boong HQ-604. Khi ấy nước đã lên tới bẹn, Thảo bỏ súng, ngả người, lặn một đoạn. Ngóc đầu lên thấy đạn bắn theo. Lại lặn. Lần thứ 3 khi Thảo nổi lên, anh thấy HQ-604 bị bao quanh bởi một lưới lửa. Thảo cởi giày, cởi mũ áo, cởi quần dài, rồi bơi ra xa.


HQ-604 là tàu vận tải cỡ 50 tấn, do Trung Quốc viện trợ. Trên tàu không có lấy một khẩu 12ly7. Trước giờ khởi hành, các chiến sỹ được quán triệt tinh thần, "việc nó nó làm, việc mình mình làm". Hạ sĩ hải đồ Phạm Xuân Trường, có mặt trên boong, thừa nhận, súng ống lấy từ trong các thùng gỗ mới lau chùi mỡ được một phần thì xảy ra đụng độ. Khi hỏa lực Trung Quốc dồn bắn vào tàu, Trường cùng ba người lính khác nép vội vào sau két nước. Một người đồng hương Hương Sơn, Hà Tĩnh, của Trường - Nguyễn Thanh Hải - bắn hai phát B-40. Nhưng tàu Trung Quốc đậu quá tầm, cả hai trái B-40 đều rơi xuống biển. Hải trúng đạn, gục xuống. Ba người nép vào két nước cũng trúng đạn chỉ mình Trường sống sót. Khi HQ-604 bắt đầu chìm, anh nhảy xuống biển.


Tiếng súng thưa dần. Thảo bơi về phía HQ-604. Đồ đạc, ván mảnh nổi lềnh bềnh. Thảo nghe: "Cứu anh với Thảo ơi". Thảo bơi lại gần, thấy một đồng đội bị bỏng, nằm bất động. Thảo không hiểu vì sao anh ấy gọi đúng tên mình vì về sau Thảo mới biết tên anh là Bùi Hoàng Hải[2]. Thảo bám đống phao, nhìn vào bãi cạn, thấy chiếc xuồng công binh còn đó, 3, 4 bộ đội Việt Nam nhấp nhô bám thành xuồng. Thảo dìu Hải lại, nhờ mọi người bế Hải lên xuồng. Cách đó 15m, Thảo thấy Chúc. Lúc này, mọi người mới phát hiện, trên bãi đá, cách xuồng chừng 300m vẫn còn 5 tên lính Trung Quốc. Tuy ở ngoài tầm súng AK, Thảo vẫn yêu cầu anh em tản ra. Lê Hữu Thảo thăm bà Hoàng Thị Thuận, mẹ của chiến sỹ Nguyễn Thanh Hải, người lính dũng cảm hy sinh trên boong tàu 604 sau khi bắn 2 quả B40 về phía quân Trung Quốc (18-2-2014).


Thảo cùng đồng đội tìm thấy Nguyễn Văn Lanh. Lanh bị đạn bắn xuyên ngực, lúc ấy đang ngất lịm đi, nửa chìm, nửa nổi. Một người bị thương khác đang nằm trên một thùng dầu phụ.Quay lại gần chỗ Thảo đứng trước khi nổ súng, Chúc vớt được một khẩu AK. Năm anh em còn sống, chia nhau lội tìm đồng đội. Họ nhìn thấy xác Phương. Lúc ấy,cá mập quẫy tung nước. Từ xa, có một người bơi lại. Thảo nhận ra Phạm XuânTrường. "Hải đâu? Thành đâu?". Trường: "Chết hết rồi".


Gần trưa, tàu Trung Quốc rút ra khá xa. Năm tên lính đứng lại trên bãi đá cũng được xuồng máy đưa về. Phía xa, tàu 605 bị nghiêng, 505 vẫn bốc khói.


Giữa trưa, có hai máy bay bay qua rất cao. Chiếc thuyền nhôm thủng nhiều chỗ. Khi Thảo quay lại, thi thể anh Phương vẫn để bên ngoài xuồng. Thảo nói, bằng mọi giá phải đưa Phương về cùng, rồi kêu anh em xé vải nút những lỗ thủng, tát nước, đặt xác Phương và những người bị thương lên xuồng. Có vài người lính công binh không biết bơi, Thảo đề nghị họ lên ngồi, chèo; những người biết bơi bám mạn xuồng đẩy, đi về phía tàu HQ-505. Bơi xuồng chừng một giờ thì phía sau xa có một người đang bơi. Thảo leo lên xuồng nhìn rồi cương quyết đưa xuồng quay lại. Người được vớt tên là Hưng, thợ máy tàu 604. Cùng lúc, những người lính trên tàu 505 nhìn thấy; một xuồng máy được thả xuống, thủy 505 ra dìu nhóm Thảo vào tàu.


Trước đó, tàu 505 đã đâm lên bãi đá cạn Colin. HQ-505 trở thành cột mốc chủ quyền của Việt Nam trên đảo.


Lúc đó trời đã về chiều. Khoảng 9 giờ đêm, một chiếc tàu cắm cờ chữ thập ra tới Colin. Những người sống sót, những người bị thương, cùng thi thể Trần Văn Phương, Võ Văn Tứ, được đưa lên Sinh Tồn Lớn.


Hai liệt sỹ được an táng trên đảo. Khi ấy không ai biết rõ bao nhiêu người lính đã chết. Thủy thủ đoàn 604 đi 22 người, sống sót 5; tổng cộng có 11 người bị thương; ngoài Tứ và Phương, còn hơn 70 người mất tích.
................................................
[1] Đầunăm 1988, Trung Quốc cho quân chiếm đóng một số bãi đá Việt Nam tuyên bố chủ quyền như Chữ Thập (20-1-1988), Châu Viên (18-2-1988), Ga Ven (26-2), Kennan (28-2). Cùng lúc, Hải quân Việt Nam cũng đưa vũ khí, khí tài ra đóng giữ tại các đảo đá Tiên Nữ (26-1), Đá Lát (5-2), Đá Lớn (6-2), Đá Đông (18-2), Tốc Tan (27-2), Núi Le (2-3). Trên đường tiếp tế cho các căn cứ ở Trường Sa, Gạc Ma, CôLin và Len Đao có vị trí như một tiền đồn. Đôi bên đều có tham vọng chiếm giữ ba bãi đá đó. Đầu tháng 3-1988, Trung Quốc đưa 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộvệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải... ra hoạt động thường xuyên. Hải quân Việt Nam cũng đẩy nhanh Chiến dịch "Chủ quyền 88".


[2] Nay là đại tá, Phó chỉ huy trưởng tỉnh đội Thanh Hóa.


Bài 2: Những Năm Sau Đó
"Cuộc chiến chỉ xảy ra 20 phút nhưng cuộc đời kéo dài hàng chục năm. Để có hành động anh hùng trong một trận chiến không khó. Để thành công trong cuộc đời khó thay" - Lê Hữu Thảo đốt thuốc liên tục trong suốt buổi nói chuyện với chúng tôi, tối 17-2-2014, rồi thốt lên câu đó.


Quê Nhà
"Ngay trong ngày" 14-3-1988, Bộ Ngoại giao ra tuyên bố "lên án hành động khiêu khích quân sự của nhà cầm quyền Trung Quốc". Nhưng, phải vài hôm sau Đài tiếng nói Việt Nam và báo Nhân Dân mới cho hay: "Sáng 14-3, các tàu chiến Trung Quốc đã ngang nhiên nổ súng vào 3 tàu vận tải của Việt Nam đang hoạt động bình thường ở bãi đá ngầm Gạc Ma thuộc đảo Sinh Tồn. Tàu của ta đã phải nổ súng để tự vệ. Trong khi đó họ lại đổi trắng thay đen vu cáo tàu của Việt Nam khiêu khích vũ trang tàu Trung Quốc"[1].
Ngày 25-3-1988, đài tiếng nói Việt Nam và báo Nhân Dân cho biết chi tiết: "Họ (Trung Quốc-HĐ) đã dùng súng bắn chết thiếu úy Trần Văn Phương, dùng súng và dao găm đâm bị thương nặng chiến sỹ Nguyễn Văn Lanh, bắn chết một số chiến sỹ khác. Từ trên các tàu chiến, họ tập trung hỏa lực bắn xả vào các chiến sỹ ta ở trên các đảo và trên những tàu bị cháy đang nhảy xuống nước, bắn vào các chiến sỹ đang bơi trên thuyền cao su, dùng cả câu liêm, bắn mạnh vào các chiến sỹ ta đang bơi trên biển. Cho đến nay, chúng ta vẫn còn 74 anh em mất tích".
Sáng 25-3-1988, ông Nguyễn Văn Mạo dậy sớm đi đôn đốc các gia đình trong xã lên xe đi "kinh tế mới". Khoảng 8 giờ, khi trở về, ông thấy nhà mình đông nghẹt người. "Tôi rụng rời", ông Mạo nhớ lại. Nguyễn Văn Phương, con trai ông, có tên trong danh sách 74 người mất tích. Ông Mạo vốn là một chuẩn úy pháo phòng không phục viên, lúc ấy đang là Chủ tịch xã Mê Linh, huyện Đông Hưng, Thái Bình. "Tôi buồn đến mức xin thôi làm chủ tịch ngay sau đó"- ông nói.


Tâm Điểm của Báo Chí
Thảo và Chúc ở lại Sinh Tồn Lớn 10 ngày, "ngày nào cũng nhìn thấy tàu Trung Quốc chạy qua chĩa súng vào đảo". Ngày thứ 11, có tàu ra, đưa Thảo và Chúc vào bờ. Hàng tháng sau đó, những "người hùng Gạc Ma" sống sót trở thành tâm điểm của báo chí và các sinh hoạt chính trị. Đoàn Thanh niên Cộng sản phát động phong trào "Hướng về quần đảo Trường Sa thân yêu".


Lê Hữu Thảo kể: "Liên tục, báo chí, lãnh đạo, các đại biểu tới thăm. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh cũng bay vào Cam Ranh. Tôi và Chúc 'thay mặt bộ đội Trường Sa' nhận rất nhiều quà 'của đồng bào cả nước'. Tôi được mời đóng một đoạn phim tài liệu; được mời vô Sài Gòn; được mời lên truyền hình, nói: Sẵn sàng quay lại Trường Sa". Khi đó, trong số những người thực sự tham chiến còn sống sót chỉ có Thảo và Chúc là không bị thương. Lanh nằm viện nhiều tháng liền.
Lê Hữu Thảo nhớ lại: "Chúng tôi được thông báo, cả hai sẽ được cử đi dự festival Thanh niên Sinh viên Thế giới diễn ra vào giữa năm sau tại Bình Nhưỡng. Hai thằng được tập huấn cách phát biểu và trả lời báo chí. Sau đó lại được thông báo, tên tôi được ghi vào bảng vàng danh dự của Hải quân. Cuối cùng, một sỹ quan quân lực gọi chúng tôi lên nói: Có đợt học tập ở Đức, Thảo và Chúc nên đi, chờ dự Festival thì chậm mất. Chúng tôi đi, té ra là 'xuất khẩu lao động' chứ không phải đi học".


Những Tấm Huân Chương
Tháng 12-1988, hàng chục cán bộ chiến sĩ được phong tặng, truy tặng huân chương, phong hoặc truy phong danh hiệu anh hùng. Năm "suất" anh hùng được phân bổ: Thiếu úy Trần Văn Phương (sinh 1965-Quảng Bình), Lữ 146 (hy sinh); Trung tá Trần Đức Thông (sinh 1944-Thái Bình), Phó lữ đoàn trưởng 146 (hy sinh); Đại úy Vũ Phi Trừ (sinh 1957-Thanh Hóa), Thuyền trưởng HQ-604 (hy sinh); Thiếu tá Vũ Huy Lễ (sinh1946-Thái Bình), Thuyền trưởng HQ-505; Nguyễn Văn Lanh (sinh 1966, Quảng Bình), chiến sỹ công binh E83.


Thảo và Chúc không nghe nhắc gì tới tên mình. Khi đó, cả hai đang lao động ở Đông Đức, không còn màng tới bằng khen, giấy khen. Trong nước, sự kiện Gạc Ma nhạt dần và biến mất trên báo cũng như trong đời sống chính trị kể từ sau "Hội nghị Thành Đô" (9-1990).


Ở Thái Bình, ông Nguyễn Văn Mạo cũng không biết con trai mình, liệt sỹ Nguyễn Văn Phương được truy tặng Huân chương chiến công hạng 3. Ông nói: "Họ đút huân chương đâu đó trên Huyện đội. Một thời gian sau, cậu xã đội trưởng lên huyện họp, nhìn thấy, cầm về". Bố của liệt sỹ Phạm Gia Thiều, ông Phạm Gia My - người từng ở trong Quân đội từ 1953-1975 - thì không ứng xử như vậy.


Thượng úy Phạm Gia Thiều không thuộc biên chế của tàu HQ-604 nhưng khi 604 được lệnh ra đảo, một thuyền phó vắng mặt, Thiều đã đi thay. Ông My nói: "Khi được mời lên xã làm lễ truy điệu, tôi không đi vì chưa được làm rõ: Anh Trừ, thuyền trưởng, được phong anh hùng; con tôi, thuyền phó cùng chiến đấu trong giờ đó có công, có tội gì mà không nghe nói đến? Một thời gian sau, họ cử một cán bộ mang về nhà tôi tấm huân chương chiến công hạng nhất. Bà nhà tôi nói: không nhận. Đơn vị bảo gia đình yêu sách. Tôi nói: Huân chương là tặng thưởng của 'nhà vua' đâu có trao như thế được. Sau, đơn vị cho người mang về, mời tôi ra xã trao".


Những người đã có mặt trên đảo Gạc Ma sáng 14-3 như Thảo thì không câu nệ ai được huân chương, ai không. Trong khoảng gần 20 phút nổ súng đó, không ai có thể quan sát bao quát, để biết, ai đã chiến đấu như thế nào để về báo công. Về sau, báo chí nói khi bị bắn, thiếu úy TrầnVăn Phương hô: “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân”. Đấy có thể là ý chí của Phương. Trước đó, khi giao nhiệm vụ, Phương dặn, "Bằng mọi giá, phải giữ cờ", nhưng khi bị bắn, Thảo biết, Phương không có đủ thời gian để hô khẩu hiệu.
Với Thảo, những đồng đội sẵn sàng ra đảo hôm 11-3-1988 đều là những anh hùng. Họ đã nhận nhiệm vụ với tinh thần cảm tử. Một vài bạn của Thảo xin đi đã không được chấp nhận. Một vài người sợ hãiđã đào ngũ trước đó. Vấn đề không chỉ là những tấm huân chương mà là cuộc sống của những ông bố, bà mẹ, của những người vợ, của những đứa trẻ.


Các Góa Phụ Gạc Ma
Y sỹ Phạm Huy Sơn (Diễn Nguyên, Diễn Châu, Nghệ An) tưởng có thể được ăn Tết cùng vợ con sau hai năm ở đảo Trường Sa. Nhưng, 15 ngày trước khi hết phép, anh được lệnh quay lại đơn vị, nhận nhiệm vụ mới ở "nhà giàn" Gạc Ma. Phạm Huy Sơn hy sinh khi vợ anh - chị Trần Thị Ninh - đang có thai ở tháng thứ hai (con gái anh Sơn, Phạm Thị Trang, sinh ngày 27-10-1988), đứa con trai sinh năm 1984 bị bại não bẩm sinh.


Chồng mất năm 27 tuổi, chị Ninh ở vậy nuôi con trong đau thương và cả những tủi hổ không nói được. Ba năm sau, mấy mẹ con phải ra khỏi nhà chồng. Các cậu, các dì góp chút gạch, chút ngói, cất cho một căn nhà nhỏ. Ông ngoại cho một con bò. Cậu con trai, đến nay đã 31 tuổi, nhưng đến bữa vẫn phải nằm ngửa ra, đợi mẹ xay thức ăn bón vào miệng. Trí não không phát triển nhưng chân tay khỏe mạnh. Nhiều hôm cậu lang thang hết làng trên, xóm dưới. Làm đồng về không thấy con, chị vừa chạy tìm, vừa khóc.
Năm 2006, Quân chủng Hải quân cho 15 triệu, chị Ninh nói: "Các anh ấy xét hoàn cảnh, linh động gửi tiền trước thay vì xây xong nhà mới 'giải ngân'. Đó cũng là cơ hội, tôi vay thêm các cậu, 'cắm' sổ liệt sỹ trong hai năm vay thêm 15 triệu của ngân hàng. Xây được căn nhà này rồi trả dần, giờ vẫn còn nợ các cậu 15 triệu". Căn nhà ngói 3 gian, có gắn bảng "nhà tình nghĩa" của chị Ninh, tuy không to đẹp như các nhà trong xóm, nhưng trông khang trang hơn hẳn so với căn nhà cất hồi năm 1991.


Chị Cao Thị Bình - vợ liệt sỹ, bác sĩ quân y Hồ Công Đệ (Hải Thượng, Tĩnh Gia, Thanh Hóa) - vốn là một người lính ở vùng Biên phía Bắc. Năm 1981, họ cưới nhau khi chị ra quân. Từ năm 2012, "các đoàn" về thăm thấy chị có một căn nhà khá khang trang, ít ai biết, cho đến năm 2011, chị vẫn phải làm "osin" ở Vũng Tàu. Tám năm giúp việc cho một gia đình, nhà chủ thông cảm hoàn cảnh, để chị mang 3 đứa con vào cùng ăn học.
Chồng chết năm 31 tuổi, khi mới mang thai 6 tháng đứa con thứ 3, chị Bình kể: "Bốn năm sau khi anh mất, một người bạn mới mang đồ đạc của anh về. Khi đó, 4 mẹ con đang sống trong một căn nhà tranh, vách đất. Đêm đêm, tôi lặn ngụp, mò cua, bắt ốc, bệnh sưng khớp đeo đẳng tới bây giờ. Hai đứa con gái đã lấy chồng, rất thương mẹ. Cháu trai, Hồ Công Được, cũng đã có bằng trung cấp cơ điện. Chỉ mong cháu xin được một chỗ làm trong công trường xây dựng nhà máy lọc dầu Nghi Sơn, rồi tôi có chết cũng mãn nguyện".
Trung úy hải đồ Lê Đình Thơ (Hoằng Minh, Hoằng Hóa, Thanh Hóa) hy sinh khi con gái, Lê Thị Thủy, mới vừa tròn một tuổi. Chín tháng sau, mẹ anh, bà Lê Thị Lương, kể: "Ngày 20-12-1988, đơn vị cho xe về đón tôi ra, đến lượt vợ thằng Thơ mất". Mất con, rồi mất dâu, bà thay mẹ nuôi đứa cháu nội mới gần 2 tuổi. Bà Lương nói trong nước mắt: "Tôi khổ cả đường tình, cả đường con. Tôi sinh đứa thứ 4 thì chồng bỏ đi lấy vợ khác. Nhiều năm trời không biết giấc ngủ là gì bác ạ". Cô dâu út thấy bà kể lể, nắm áo: "Thôi, bà ơi!" .Bà Lương quay sang con dâu, quyệt mắt: "Mi có biết khổ là chi mô".


Được bà nội và các cô chú chăm sóc, Thủy lớn khôn, học giỏi. Sau khi tốt nghiệp trường đại học Mỏ Địa Chất, cô được đơn vị cũ của cha - Đoàn do đạc biên vẻ bản đồ và nghiên cứu biển, Hải quân -nhận về làm. Bà Lương cho biết, đơn vị cha cháu vẫn giữ liên lạc suốt bao nhiêu năm và luôn quan tâm đến cháu. Bà khoe, mỗi khi ra thăm cháu, cứ hết người này đến người kia mời. Bà nói: "Gần đây, tôi nằm mơ thấy thằng Thơ về, nó mặc quân phục, đeo quân hàm rất đẹp, nói với tôi: Mẹ chăm cháu thế là được rồi, mẹ không phải ra nữa, vậy là tôi ở nhà". Bà Lương bảo: "5 triệu các anh (Nhịp Cầu Hoàng Sa) đưa hôm Tết, tôi dùng để mua một cỗ hòm".


Các ông bố, bà mẹ, những người vợ liệt sỹ hết tuổi lao động được cấp tiền tử tuất, trước đây là 370 nghìn/ tháng; sau đó tăng lên 670 nghìn; năm 2013 là 1 triệu 100 nghìn; năm 2014 là 1 triệu 220 nghìn/ tháng. Từ năm 2008, nhiều đơn vị phối hợp với địa phương, cấp cho một số gia đình liệt sỹ Gạc Ma từ 15, 20 triệu đến 30, 50 triệu/ gia đình để xây "nhà tình nghĩa", nhiều gia đình cố vay mượn thêm để xây được căn nhà.
Ngày 19-2-2014, khi chúng tôi đến xã Nghi Yên, Nghi Lộc, Nghệ An, thăm gia đình liệt sỹ Đậu Xuân Tư, hai cha con người em của Tư, Đậu Xuân Chương, vẫn đang "đi Lào làm phụ hồ". Chị Phan Thị Lương, vợ anh Chương, nói: "Anh ấy rất muốn mua cái máy cày hoặc máy tuốt lúa (khoảng 35 triệu) để khỏi phải đi làm thuê xa nhưng ngân hàng không cho vay vốn vì vẫn còn nợ 6 triệu chưa trả hết".
Năm 2010, bà Nguyễn Thị Nhơn (83 tuổi), mẹ của Đậu Xuân Tư, được một đơn vị tặng 50 triệu. Thay vì tu sửa căn nhà cũ của gia đình Chương, người em đang chăm sóc bà Nhơn, theo chị Lương: "Họ yêu cầu phải xây riêng cho bà, chúng tôi phải vay mượn thêm 45 triệu".


Cuộc Chiến, Cuộc Đời
Phần lớn các cựu binh Gạc Ma khi trở về đều sống rất chật vật. Trừ một số người nhận danh hiệu anh hùng, nhận huân chương, thăng tiến trong quân đội, số còn lại "hết nghĩa vụ ra quân" không có chế độ gì. Phạm Xuân Trường, Trương Văn Hiền... tuy đã ổn định gia đình nhưng kinh tế chỉ đắp đổi qua ngày. Ngôi nhà Phạm Xuân Trường xây đã mấy năm vẫn chưa kiếm đủ tiền mua cửa. Còn Lê Hữu Thảo thì vẫn lông bông, chưa vợ, chưa nhà.


Trong một lần về quê đầu năm 1991, Thảo yêu một "cô gái đẹp có tiếng ở Hà Tĩnh". Suốt mấy năm sau đó, cô nhất mực chờ anh. Năm 1995, sốt ruột vì tuổi con gái lớn dần, bố cô điện thoại sang Đức cho Thảo nói: "Nếu con yêu và quyết tâm lấy nó thì đêm nay suy nghĩ kỹ, ngày mai điện về. Khi đó, nó muốn đợi bao lâu cũng được". Đêm ấy,Thảo bị bắt trong một chiến dịch truy quét thuốc lá lậu của cảnh sát Đức.
Mối tình sau đó, cho Thảo một đứa con trai, cũng chỉ kéo dài được mấy năm. Đã từng hào hiệp với bạn bè. Để rồi, nay trở về quê, Thảo nói: "Thật xấu hổ khi gần như chỉ còn hai bàn tay trắng".
..................................................
[1] TuổiTrẻ thứ Năm, 17-3-1988.
2, TRẦN ĐỨC THÔNG,sinh 1944, quê quán:Minh hòa,Hưng Hà,Thái Bình,cấp bâc.trung tá,Chức vụ Phó lữ đoàn trưởng 146,vùng 4 hải quân,nguyên phó chủ tịch UBND huyện đảo Trường Sa.Lúc đó đ/c Thông là chỉ huy Trưởng của chiến dịch,đi trên tàu hq 604,lúc sáng sớm đ/c đã dậy đon đốc các chiến sĩ làm công tác chuẩn bị,lúc địch nổ súng có người nói đ/c đang ở trên đài chỉ huy,có người nói đ/c đang trong hầm tầu nghe điên đàm.
3, Vũ PHI TRỪ,sinh năm 1957, quê Quảng khê,Quảng Xương, Thanh Hóa,Nhập ngũ tháng 2/1975.cấp bậc Đại úy,thuyền trưởng tàu HQ 604,Thuộc Lữ đoàn 125. Lúc xẩy ra nổ súng đ/c đang trên tàu,và trong hầm tàu.
4, Vũ Huy Lễ,sinh 1946, quê Thái Thọ,Thái Thụy,Thái Bình.Nhập ngũ tháng 7/1965,cấp bậc Thiếu tá.Thuyền trưởng tàu HQ 505.
5, NGUYỄN VĂN LANH, sinh năm 1966, quê Vạn Ninh,Lệ Ninh,Quảng Bình,nhập ngũ tháng 8/1985,Thuộc công binh E83.Khi xẩy ra chiến sự Lanh cùng chúng tôi và những người lính công binh chuyển vật liệu và giữ cờ dưới đảo, bị thương nặng./


 Trận chiến trên đảo Gạc Ma Trường Sa
 

image017

Tàu HQ 604 tại Gạc Ma, tàu HQ 505 phía đảo Cô Lin cách đó 5 km và HQ 605 phía đảo Len Đao cách 12 km. Tàu HQ 604 tại Gạc Ma, tàu HQ 505 phía đảo Cô Lin cách đó 5 km và HQ 605 phía đảo Len Đao cách 12 km.


image018
Thứ năm, 14/03/2013, 09:45 (GMT+7)


(Cựu binh Trường Sa 14-3-1988) - Sáng 14/3/1988, trung úy Trần Văn Phương cùng các chiến sĩ đứng thành vòng tròn quanh lá cờ Tổ quốc giữa đảo Gạc Ma (Trường Sa). Tàu Trung Quốc tiến gần, những tên lính cầm AK ào lên đảo, nã đạn.


Theo thượng tá Hoàng Hoan, Chỉ huy phó chính trị Trung đoàn Công binh 83 giai đoạn 1988-1997, cuối năm 1987 Trung Quốc đơn phương đưa tàu chiến hoạt động ở vùng biển Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Bộ Quốc phòng Việt Nam chỉ đạo Bộ Tư lệnh Hải quân tăng cường khả năng bảo vệ quần đảo Trường Sa, bao gồm việc củng cố, xây dựng thêm các hạng mục công trình chiến đấu, sinh hoạt cho bộ đội.


image019


Anh Lanh (bên trái) ôn lại ký ức trận chiến Gạc Ma với ông Hoàng Hoan.


Sau Tết Nguyên đán, các chiến sĩ Trung đoàn công binh 83 (Quân chủng Hải quân) nhận lệnh từ Sơn Trà (Đà Nẵng) vào Cam Ranh (Khánh Hòa) cùng với lực lượng bảo vệ đảo của Lữ đoàn 146 (Vùng 4 Hải quân) ra Trường Sa cắm mốc chủ quyền và xây dựng đảo chìm ở Trường Sa theo chiến dịch CQ-88.


20h ngày 11/3/1988, tàu 604 của thuyền trưởng Vũ Phi Trừ nhổ neo từ Cam Ranh chở theo lính công binh của Trung đoàn 83 và lực lượng giữ đảo của lữ đoàn 146 ra xây dựng cụm đảo Gạc Ma, Cô Lin (thuộc cụm đảo Sinh Tồn) – cách đất liền khoảng 500 km. Đảo chìm Gạc Ma lúc đó chỉ là những bãi san hô nổi lên giữa biển, có tên trong Bản đồ Việt Nam.


image020


Tàu HQ 604 khi nhận lệnh ra Gạc Ma. Ảnh tư liệu Lữ đoàn 125


2h sáng ngày 12/3, nhận thấy nhiều diễn biến bất thường, Tư lệnh quân chủng điều thêm tàu HQ 605 cùng HQ 604 tăng cường xây dựng đảo Gạc Ma và Len Đao. Tàu 505 đang làm nhiệm vụ trực tại Trường Sa nhận lệnh chuyển đến Cô Lin.


Sau hai ngày đêm, HQ 604 và HQ 605 có mặt tại Gạc Ma vào chiều tối 13/3. Đêm đó, Sở chỉ huy Quân chủng lệnh cho bộ phận giữ đảo quyết tâm phải giữ vững các mục tiêu đã xác định là Cô Lin, Len Đao và Gạc Ma. “Xuồng vận tải chở vật liệu xây dựng được chuyển xuống đảo. Một nhóm chiến sĩ gồm trung úy Trần Văn Phương và 4 đồng chí khác nhận lệnh vào đảo cắm cờ Tổ quốc khẳng định chủ quyền”, ông Hoàng Hoan nhớ lại.


Lội xuống nước chừng 5 phút, các chiến sĩ tiếp cận bãi san hô đang lộ dần khi thủy triều rút. Phía xa, 3 tàu Trung Quốc bắt đầu di chuyển đội hình áp sát đảo. Binh nhất Nguyễn Văn Lanh mặc chiếc quần đùi đỏ cùng nhiều chiến sĩ khác bơi vào bãi Gạc Ma theo lệnh của chỉ huy cụm đảo Trần Đức Thông. Các chuyến vật liệu được hối hả chuyển lên đảo.


image021


Tàu HQ 931 đưa các thương binh và chiến sĩ trong trận Gạc Ma về đất liền.


6h30 ngày 14/3, tàu Trung Quốc thả xuồng máy chuyển từng tốp lính lên Gạc Ma. “Tôi đếm có 49 lính Trung Quốc mang AK và một tên chỉ huy dáng người cao to mang súng ngắn. Chúng bao vây theo thế vòng cung men theo bãi san hô, những chỗ vòng vây gần nhất, hai bên cách nhau chỉ chừng một mét. Các chiến sĩ hải quân Việt Nam đứng thành vòng tròn quanh lá cờ Tổ quốc”, trung sĩ Lê Hữu Thảo nhớ lại.


Sau một hồi giằng cờ và uy hiếp tinh thần, tên sĩ quan chỉ huy lính Trung Quốc bắn súng chỉ thiên phát lệnh rồi chĩa thẳng vào bụng trung úy Phương, bóp cò. Anh Phương ngã xuống, tay vẫn giữ chặt cán cờ tổ quốc. Một tên khác xông lên chĩa thẳng súng vào đầu trung úy Phương nhả đạn.


3 tàu chiến Trung Quốc tăng tốc áp sát đảo, cách tàu HQ 604 chừng 300 mét. Giữa vòng vây quân thù, binh nhất Nguyễn Văn Lanh vừa đỡ lá cờ trên tay trung úy Phương vừa đá văng khẩu súng trên tay tên sĩ quan Trung Quốc. Một tên lính gần đó đâm lưỡi lê vào binh nhất Lanh. Anh gục xuống nhưng tay vẫn ghì chặt cán cờ. Liền sau đó, tiếng đạn nổ chát chúa, lính Trung Quốc dùng AK bắn xối xả vào các chiến sĩ trên đảo.


Cùng lúc, tàu chiến Trung Quốc nã pháo vào tàu HQ 604 tại Gạc Ma, tàu HQ 505 phía đảo Cô Lin cách đó 5 km và HQ 605 phía đảo Len Đao cách 12 km. Vì ở gần, HQ 604 hứng trọn làn đạn 12 ly 7, thuyền tưởng tàu HQ 604 Vũ Phi Trừ vừa chỉ huy chiến sĩ xuống các xuồng dùng súng chiến đấu tự vệ, vừa băng bó cho đồng đội bị thương. Thuyền trưởng Trừ đứng ở mũi tàu dùng AK và B40 đánh trả kẻ địch.


Khi thấy HQ 604, rồi HQ 605 chìm hẳn, thuyền trưởng tàu HQ 505 Vũ Huy Lễ quyết định lao thẳng con tàu bị bắn cháy phần đuôi lên bãi cạn Cô Lin, cắm cờ chủ quyền. “Ba tàu của ta lúc đó tạo thành hình tam giác trên biển. Anh em muốn quay lại Gạc Ma nhưng không thể vì tàu HQ 505 khi đó bị hư hỏng nặng”, đại tá Lễ kể. Ông lệnh hạ xuồng máy ra cứu hộ đồng đội ở tàu 605 và 604.


Trời sáng, lính Trung Quốc rút khỏi Gạc Ma. Trung sĩ Thảo bơi ngược lại đảo tìm xác đồng đội và cấp cứu chiến sĩ bị thương, xé áo nút lại chiếc xuồng vận tải bị đạn địch bắn thủng, dùng báng súng làm chèo chở thi thể trung úy Phương và thương binh Lanh về hướng tàu HQ 505.


12h trưa 14/3, máy bay của Việt Nam bay trên bầu trời Gạc Ma. Chiếc xuồng của anh Thảo vừa nhích từng mét nước, vừa cứu thêm những đồng đội đang đuối sức trên biển. Đầu giờ chiều, xuồng của HQ 505 đến nơi ứng cứu đưa các chiến sĩ về tàu, sau đó về đảo Sinh Tồn. Binh nhất Lanh được chuyển bằng trực thăng vào đất liền cấp cứu và may mắn giữ được tính mạng.


Trong trận chiến rạng sáng 14/3, 64 chiến sĩ trên tàu HQ 604 đã hy sinh, 9 người bị Trung Quốc bắt giữ đưa về Quảng Đông. Từ năm 1988 đến nay, Trung Quốc đã xâm chiếm Gạc Ma. Việt Nam bảo vệ được Cô Lin và Len Đao.


Nhớ về ngày 14/3/1988, ông Lê Văn Xuân (bố liệt sĩ Lê Văn Xanh, Đà Nẵng) kể, đứng dưới loa phóng thanh, nghe tin con hy sinh, ông chết lặng. “Về nhà, tôi lấy hết can đảm nói với vợ con: ‘Xanh đã hiến trọn tuổi thanh xuân của mình quyết giữ chủ quyền, đó là niềm tự hào của gia đình mình”, mắt người cha già ngấn lệ.


Hằng năm, những chuyến tàu vẫn đều đặn chở đoàn công tác từ đất liền ra Trường Sa. Mỗi lần đi qua Gạc Ma, những người con đất Việt không quên thả vòng hoa tưởng niệm. “Các anh đã dâng hiến tuổi 20 cho Tổ quốc, nhân dân cả nước sẽ đời đời ghi nhớ công ơn của các anh”, thượng tá Nguyễn Văn Thư, phó chính ủy Lữ đoàn 146, vùng 4 Hải quân nói.


(BNDTO)



NHỮNG NGỌN SÓNG TỎA HƯƠNG
 

image022

(Kính dâng anh linh 64 người lính anh dũng hy sinh trong hải chiến Gạc Ma 14-3-1988)


Trường sa - khúc bi tráng 14-3 - Kỳ 2:


 “Vòng tròn bất tử” trên bãi Gạc Ma


09/03/2013 09:22 (GMT + 7)


TT - ... Gạc Ma, sáng 14-3-1988. Một vòng tròn bất tử. Những loạt đạn chát chúa. Những lưỡi lê sắc lạnh. Nhiều chiến sĩ VN ngã xuống. Nhưng người khác vẫn ào lên giữ vững ngọn cờ.


image023


Ảnh chụp con tàu HQ-604 ngày 10-3-1988. Bốn ngày sau, tàu bị bắn chìm tại vùng biển Gạc Ma - Ảnh tư liệu Lữ đoàn 125


 image024image025image026image027image028

Bãi san hô dậy sóng... 25 năm đã trôi qua, nhưng người chiến sĩ hải quân Nguyễn Văn Lanh anh hùng năm xưa vẫn không thể nào quên được buổi sáng đặc biệt này - buổi sáng mà anh và đồng đội đã quyết tử lao vào cuộc chiến không cân sức để thực thi chiến dịch CQ 88, chiến dịch bảo vệ chủ quyền biển đảo VN.


Nhiệm vụ trong đêm


Những ngày trước sáng 14-3-1988, các tàu HQ-505, HQ- 604, HQ-605 của Lữ đoàn 125 phối hợp với Lữ đoàn 146 và công binh E83 được lệnh hành quân khẩn cấp về nhóm đảo chìm Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao trước sự lăm le chiếm đóng bất hợp pháp của hải quân Trung Quốc (TQ). Người chiến sĩ hải quân trẻ Nguyễn Văn Lanh lúc ấy có mặt trên chiếc tàu HQ-604 do đại úy Vũ Phi Trừ làm thuyền trưởng cùng với lữ đoàn phó 146 Trần Đức Thông.


Rưng rưng xem lại những đoạn phim, những kỷ vật đẫm máu đồng đội, anh Nguyễn Văn Lanh nhớ lại: chiều tối 13 thì tàu HQ-604 đến vùng biển Gạc Ma (còn tàu HQ-505 có mặt ở Cô Lin, tàu HQ-605 thẳng tiến Len Đao). Khi tàu HQ-604 thả neo, nhiều chiến sĩ công binh trẻ măng vẫn còn say sóng, chưa kịp ăn thứ gì thì lữ đoàn phó Trần Đức Thông và thuyền trưởng Vũ Phi Trừ đã kêu gọi anh em bắt tay khẩn cấp vào nhiệm vụ giữ đảo.


Đêm 13-3, gió mùa đông bắc thổi mạnh, mây mù che kín bầu trời làm mặt biển tối đen như mực. Anh Lanh cùng các đồng đội hạ xuồng vận chuyển vật liệu xây dựng lên đảo chìm Gạc Ma. Còn việc bảo vệ lá cờ đỏ sao vàng, khẳng định chủ quyền VN do tổ của thiếu úy Trần Văn Phương đảm nhiệm. Họ phải dùng xà beng đục xuống rạn san hô Gạc Ma để cắm vững thân cờ Tổ quốc. Trên đảo Cô Lin cách đó không xa, cờ chủ quyền cũng phần phật tung bay ở cả hai đầu đảo. Trung tá Trần Đức Thông yêu cầu cán bộ, chiến sĩ cứ tập trung nhiệm vụ, mặc kệ tàu chiến TQ đang lảng vảng quanh đó.


Rạng sáng hôm sau, tức ngày 14-3-1988, khi mọi người chưa kịp dùng bữa sáng thì các tàu chiến TQ áp sát. Đó là các biên đội tàu chiến thật sự với hỏa lực mạnh, trong khi các tàu VN chỉ là loại hải vận để chở binh sĩ, vật liệu xây dựng, lương thực tiếp tế cho các đảo chứ không phải tàu chiến. Đặc biệt, đa số chiến sĩ trên tàu VN là công binh làm nhiệm vụ xây dựng đảo chứ không phải lính chiến đấu. Trước tình hình không cân sức này, các thuyền trưởng Vũ Huy Lễ, Vũ Phi Trừ, Lê Lệnh Sơn và lữ đoàn phó Trần Đức Thông truyền đạt mệnh lệnh: kiên cường giữ vững nhiệm vụ, tất cả sẵn sàng chiến đấu để giữ vững chủ quyền.


Tình hình càng lúc càng diễn biến căng thẳng hơn. Tại bãi Gạc Ma, thủy triều buổi sáng đã dâng cao hơn, nhưng nhóm bảo vệ ngọn cờ chủ quyền của thiếu úy Trần Văn Phương vẫn kiên cường trụ vững trên bãi san hô.


Rồi chuyện gì đến đã đến: quân TQ đổ bộ xâm chiếm đảo...


Gần 6 giờ sáng, tàu chiến TQ bắt đầu cho xuồng nhỏ áp sát rạn san hô Gạc Ma. Một lát sau, các xuồng khác lại tiếp tục được thả xuống với lính hải chiến TQ nai nịt đầy đủ vũ khí để đổ bộ.


Sau khi bắn cháy tàu HQ-604, tàu chiến Trung Quốc bắt đầu dồn dập nhả đạn vào tàu HQ-505. Bị trúng đạn pháo của đối phương, một phần tàu bốc cháy. Trong khoảnh khắc một mất một còn, thuyền trưởng Vũ Huy Lễ quyết định cho tàu HQ-505 lao thẳng lên rạn san hô Cô Lin. Tàu gối một nửa thân trước lên cạn, nửa sau nằm dưới nước. Con tàu biến thành công sự không thể chìm và những người lính quyết tử để bảo vệ ngọn cờ chủ quyền.


Vòng tròn bất tử


Các tàu chiến Trung Quốc sau khi bắn chìm tàu HQ-604 ở Gạc Ma liền kéo sang tấn công tàu HQ-605. Những loạt pháo hạng nặng 100 li dồn dập nhả vào con tàu vận tải không hề trang bị hỏa lực hải chiến. Tàu HQ-605 bốc cháy dữ dội. Thuyền trưởng Sơn ra lệnh cho mọi người rời tàu.

Trước tình thế đó, trên bãi san hô Gạc Ma, các chiến sĩ VN đã quây thành vòng tròn bảo vệ ngọn cờ Tổ quốc (mà sau này nhiều người vẫn gọi vòng tròn ấy bằng cụm từ thiêng liêng: vòng tròn bất tử).


Nhưng lúc ấy, ngoài nhóm nhỏ lính hải quân chiến đấu thuộc Lữ đoàn 146 của thiếu úy Phương, đa số là công binh chỉ có cuốc, xẻng, xà beng trong tay. Lúc này anh Lanh vừa mới quay lại tàu lấy thêm vật liệu xây dựng để đưa xuống đảo thì trung tá Trần Đức Thông kêu gọi tất cả mọi người còn trên tàu HQ-604 biết bơi hãy nhảy hết xuống biển, tiếp ứng cho anh em trên bãi san hô. Anh Lanh ra mạn boong hướng về đảo, nhảy xuống biển cùng nhiều chiến sĩ khác, nhanh chóng bơi vào vùng đồng đội sắp bị tấn công.


Trước mắt anh Lanh, cuộc đụng độ không cân sức bắt đầu bùng nổ. Lính TQ đổ bộ dày đặc lên đảo với AK sáng quắc lưỡi lê cố tràn vào vòng tròn chiến sĩ VN. Lính TQ cố giật và hạ cờ VN. Còn chiến sĩ VN trên tay chủ yếu chỉ có xà beng, cuốc xẻng, vật liệu xây dựng vẫn quyết tử giữ bằng được lá cờ. Mấy lần lính TQ cố tràn vào đều bị bật ra. Đến khi chúng nhả đạn mới áp sát được vào chỗ thiếu úy Phương đang giữ chặt ngọn cờ. Anh Lanh lúc này cũng đã lao vào sát cánh cùng đồng đội Phương. Hai bên giành giật ngọn cờ. Bất ngờ lính TQ nổ súng thẳng vào đầu thiếu úy Phương. Anh ngã xuống nhưng vẫn ôm chặt lá cờ loang máu.


Trung sĩ Nguyễn Văn Lanh (sau được phong Anh hùng lực lượng vũ trang) kể tiếp: “Sau khi anh Phương bị bắn, lính TQ định cướp lá cờ nhưng tôi giằng lại được. Một tay tôi cầm cờ, một tay cầm xà beng đánh lại...”. Thấy khó hạ gục được người lính công binh VN kiên cường, lính TQ đã đâm anh từ phía sau rồi cuối cùng bắn thẳng vào anh bằng AK.


Trên toàn rạn san hô Gạc Ma, trận chiến lúc ấy đã bùng nổ dữ dội. Lính đổ bộ TQ lùi ra xa để đại liên, pháo 37 li từ tàu chiến của chúng bắn thẳng vào các chiến sĩ VN vẫn đang quyết tử bám trụ giữ đảo. Trên tàu HQ-604, trận chiến cũng diễn ra bi tráng. Anh Mai Văn Hải, công binh E83, có mặt trên tàu lúc đó, nhớ trước khi đổ bộ giáp trận trên đảo, các tàu chiến TQ đã lùi ra đề phòng các súng nhỏ như AK, B40, B41 của tàu VN. Sau đó, chúng mới lợi dụng ưu thế hỏa lực tầm xa mạnh như pháo 100 ly, 37 li bắn dồn dập vào tàu HQ-604.


Loạt đạn đầu tiên của tàu TQ bắn trúng phòng báo vụ tàu HQ-604. Trước mắt Hải, thuyền trưởng Vũ Phi Trừ lao xuống phòng động cơ, định cho máy tàu nổ để ủi lên bãi san hô Gạc Ma. Nhưng ngay lúc đó phòng máy bị trúng đạn bốc cháy, không còn thấy bóng anh ngược ra. Tàu cũng không còn khả năng lao lên bãi. Anh Hải ngược lên phòng điện trên mặt boong, gặp trung tá Trần Đức Thông và đại úy Phòng. Nhưng cũng đúng khoảnh khắc ấy, từng tràng đại liên từ phía TQ bắn thẳng vào. Lữ đoàn phó Trần Đức Thông trúng đạn vào đầu gục xuống. Đại úy Phòng cũng hi sinh.


Tàu HQ-604 mất dần dưới mặt biển, mang theo nhiều chiến sĩ và thuyền trưởng Vũ Phi Trừ, lữ đoàn phó Trần Đức Thông!


QUỐC VIỆT
 

image017

Tàu HQ 604 tại Gạc Ma, tàu HQ 505 phía đảo Cô Lin cách đó 5 km và HQ 605 phía đảo Len Đao cách 12 km. Tàu HQ 604 tại Gạc Ma, tàu HQ 505 phía đảo Cô Lin cách đó 5 km và HQ 605 phía đảo Len Đao cách 12 km.


Posted on 14/03/2013 by gocomay


image029


Tưởng niệm 64 liệt sỹ hy sinh ở Gạc Ma: 14.3.1988 (tại bãi Ngang-Đồ Sơn-HP) – Ảnh: Ph.B


Rất mừng là 14/3 năm nay, báo Thanh Niên đã không quên (như hôm 17/2). Đã tri ân tưởng niệm tới 64 chiến sỹ đã ngã xuống trước họng súng của quân xâm lược Trung Quốc ở đảo đá chìm Gạc Ma (thuộc cụm đảo Sinh Tồn, quần đảo Trường Sa của Việt Nam) đúng 25 năm về trước. Với loạt bài 25 năm hải chiến Trường Sa. Qua lời kể của những người lính dũng cảm. Đã trực tiếp chứng kiến sự việc. Nay còn sống trở về…


image030
Chị Mai Thị Hoa và con gái bên mộ AHLS Trần Văn Phương


Càng mừng hơn Thanh Niên đã không ngại húy kỵ mà chỉ thẳng người anh em cùng ý thức hệ phương Bắc là “quân xâm lược Trung Quốc“. Chứ không còn phải né tránh không dám chỉ rõ ai, kẻ nào là quân xâm lược. Như kiểu “hành động xâm chiếm trái phép của nước ngoài“ mà chính bài báo đã trích dẫn lại một đoạn từ cuốn Lịch sử Vùng 3 hải quân (đã viết theo định hướng bấy nay của đảng và nhà nước).


Mặc dù vậy cái từ “hải chiến“ cũng làm nhiều người (trong đó có tôi) thấy chưa thỏa đáng. Bởi nếu xét theo đúng những gì nhân chứng (hai cựu binh Phan Văn Đức và Dương Văn Dũng) kể lại thì các chiến sĩ ta hoàn toàn thúc thủ bằng tay không. Khi chỉ có độc quần đùi và áo may ô bơi vào giữ đảo. Mang lén được 2 khẩu AK 47, lại phải dìm xuống nước mà không được phép bắn trả. Hành động được cho là có tính “chiến đấu“ nhất là của anh binh nhất Nguyễn Văn Lanh là “nhảy lên gạt súng“ của tên giặc bắn chết người chỉ huy của mình (Thiếu úy Trần Văn Phương, Phó chỉ huy trưởng đảo Gạc Ma). Và anh Lanh bị một tên khác đâm lưỡi lê từ phía sau lưng, làm anh ngã gục máu tuôn trào nhuộm đỏ biển đảo thân yêu. Như lời kể của Dương Văn Đức như sau: “Lúc ấy, tôi hỏi anh em là 2 cây súng AK đâu rồi, thì được biết là mọi người đã dụi xuống biển trước đó để tránh bị hiểu lầm. Lúc đó tôi nghĩ mình chỉ cần 1 cây súng thôi thì ít nhất cũng bắn được trên chục mạng vì lính Trung Quốc đứng rất đông”


Không khuất phục được các chiến sĩ tay không giữ đảo, bọn Trung Cộng đã đã xả súng (đại liên và pháo 37 mm) từ chiến hạm tàn sát dã man tất cả các chiến sỹ may ô quần đùi tay không tấc sắt giữ cán cờ bảo vệ đảo như lời kể của anh Đức: “Trước thái độ cương quyết giữ đảo của phe ta trên bãi đá Gạc Ma, phía Trung Quốc bất ngờ bắn một loạt đạn dày đặc. Tôi nhớ đạn dày đến nỗi lúc đó chỉ có đạn tránh người thôi chứ người không thể tránh đạn. Tôi bị trúng đạn ở vai trái ngã xuống nước…”. (xem thêm Video-clíp)


Từ nhân chứng sống và qua đoạn clíp ngắn do chính phía Trung Quốc đưa lên mạng như trên. Thì trận chiến ở Gạc Ma hôm 14.3.1988 có lẽ nên thay từ “hải chiến“ giữa Ta và quân Trung Quốc xâm lược bằng từ “thảm sát“ của quân Trung Quốc đối với các chiến sỹ công binh tay không tấc sắt của ta thì chính xác hơn chăng?


Sự tàn ác của quân xâm lược Trung Quốc còn thể hiện ở việc sau khi đánh chìm 3 tàu vận tải của Việt Nam, Trung Quốc chặn không cho tàu của Hội chữ thập đỏ đến cứu những người đang bị thương trên biển. Dẫn đến kết cục bi thương. Ngoài 9 chiến sĩ ta bị bắt làm tù binh, 61 chiến sỹ mất xác, chỉ 3 liệt sỹ (trong đó có thi thể của Thiếu úy Trần Văn Phương) được ngư dân tìm thấy sau đó. Đây là một sự vi phạm những điều luật cơ bản nhất về chiến tranh của luật pháp quốc tế./


image031


Bản đồ bãi Union Banks, nơi diễn ra cuộc thảm sát Gạc Ma của Trung cộng. Tàu HQ 604 tại Gạc Ma, tàu HQ 505 phía đảo Cô Lin cách đó 5 km và HQ 605 phía đảo Len Đao cách 12 km.


Vậy mà theo giọng lưỡi tuyên truyền của Trung Quốc thì trong khi các tàu của họ đang bỏ neo để yểm trợ cho một nhóm nghiên cứu thăm dò mỏ dầu ở đây thì bị Hải quân Việt Nam nổ súng tấn công, vì thế Hải quân Trung Quốc “bắt buộc phải tự vệ”? Họ còn lừa bịp rằng, lúc đó Trung Quốc đang đưa phái đoàn khoa học của Liên Hiệp Quốc đi khảo sát. Rằng chủ trương ban đầu của họ là chỉ chiếm đóng các đảo còn bỏ hoang, chứ không tranh chấp các đảo có lực lượng nước ngoài chiếm đóng từ trước.


Sau khi bình thường hóa, hai đảng CS “anh em“ nguyện cùng nhau thực hiện “giải pháp đỏ“ bảo vệ CNXH và ban tặng nhau 16 chữ vàng. Lại thề bồi tam tương tứ tốt (3 tương đồng; 4 tốt). Cùng chống “diễn biến hòa bình“; chống đa nguyên đa đảng ở phần còn lại (khoảng 4%) của thế giới. Từ đó 2 đảng đã đi đến “cam kết không nhắc lại qúa khứ nữa”. Nhưng từ thực tế kỷ niệm 34 năm Trung Quốc xua hàng trăm ngàn quân sang phá nát 6 tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam, phía Việt Nam đã nghiêm chỉnh quán triệt. Vậy mà người anh em cùng ý thức hệ vẫn tưng bừng kỷ niệm cái ngày mà theo họ, đó là ”cuộc chiến đấu phản kích tự vệ, bảo vệ biên giới”. Trong khi cả thế giới đều nhận diện đó là cuộc chiến tranh xâm lược (một dạo Trung Quốc từng tuyên bố để “dạy cho Việt Nam một bài học“).

image032

64 Liệt sĩ hy sinh ở Trường Sa 14-3-1988 là bởi quân đội nước nào??? 


Không biết những người cầm lái “vĩ đại” mất bò đã biết lo làm chuồng chưa? Song động thái để cho một số báo chí quốc doanh và việc làm ngơ cho dân chúng được xả tress phần nào nhân sự kiện vào ngày 14.3 kỳ này cũng đã chứng tỏ lòng dân đã không còn một lòng một dạ tin vào thứ “đỉnh cao trí tuệ“ luôn tồn tại bằng ánh hào quang của dĩ vãng một thời…


Do không có điều kiện để về cùng thả hoa đăng với bà con bên nhà (*), Gocomay xin có nén tâm nhang bái vọng. Gọi là chút lòng thành tưởng nhớ tới 64 anh hùng liệt sỹ Gạc Ma (cả 74 người con yêu vị quốc vong thân của đất Việt trong trận chiến 19.1.1974 ở Hoàng Sa nữa).


Cầu cho hương linh của tất cả các anh luôn siêu sinh và linh hiển. Phù hộ độ trì cho quê hương xứ sở luôn đứng vững trước mọi mưu đồ thôn tính thâm hiểm của kẻ thù!


Kính bái!


Sáng 14/3/2013, tại Chùa Tảo Sách, Quận Tây Hồ, Hà Nội, một số bà con đã tổ chức một buổi tưởng niệm nho nhỏ tri ân 64 Liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến không cân sức chống lại quân Trung Quốc xâm lược tại đảo Gạc Ma, Trường Sa. Nhiều bạn trẻ đã tham gia cùng các bậc cha anh như Nhà giáo Phạm Toàn, KTS Trần Thanh Vân, Nhà báo Nguyễn Đình Ấm, bà Nguyễn Nguyên Bình, LS Hà Huy Sơn, Đại tá quân đội Phạm Xuân Phương, Đại tá an ninh Đăng Quang, TS Nguyễn Trường Tiến, v.v…


Về trận Hải chiến Gạc Ma 25 năm trước, một vị cựu quan chức nắm được nhiều thông tin “cung đình” đã kể lại một số chi tiết đáng chú ý. Theo ông, ngày 14/3/1988 là ngày đang tổ chức lễ viếng cố Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Phạm Hùng. Đến 2 giờ chiều thì có tin từ Cục Tác chiến, Bộ Quốc phòng là mất Gạc Ma rồi.


Thế nhưng, do ngày hôm sau 15/3 làm lễ tang ông Phạm Hùng, nên phải sang ngày 16/3 mới họp Bộ Chính trị được. Sau khi nghe báo cáo tình hình, trong đó có cả thông tin về mệnh lệnh của Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh không cho nổ súng, với lý do sợ bị mắc mưu “khiêu khích” của phía Trung Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã đứng lên đập bàn hết sức giận dữ. Ông nói đại ý:  đang không có gì, anh lại tạo cho nó chỗ đứng ở Trường Sa, làm thay đổi hẳn bàn cờ chiến lược, hình thành thế xôi đỗ rất nguy hiểm. Hầu như không ai lên tiếng ủng hộ ông Thạch, mỗi người ít nhiều đều có lý do riêng, ví như ông TBT Nguyễn Văn Linh thì vốn vẫn đồng quan điểm với ông Lê Đức Anh, muốn khôi phục tình “hữu nghị anh em” với TQ, còn ông Đỗ Mười thì mong được thế vào chiếc ghế vừa bỏ trống của ông Phạm Hùng …


Hy vọng rồi đây, lịch sử sẽ phải làm rõ toàn bộ vụ việc này, xem xét công tội của từng người trong ban lãnh đạo VN khi đó. (Theo Ba Sàm)/


image032


Nhà báo Lý Kiến Trúc đang phỏng vấn Đại tá Vũ Hữu Lễ trên Vận tải hạm HQ-571 Trường


Sa. Ảnh Văn Hóa Magazine


Vũ Hữu Lễ: Tôi dự trận Gạcma 1988

Văn Hóa phỏng vấn cựu Đại tá Thuyền trưởng Vũ Hữu Lễ: Tôi dự trận Gạcma 1988

Văn Hóa phỏng vấn cựu Thuyền trưởng Vũ Hữu Lễ: Tôi dự trận GạcMa 1988 / Bức điện tối mật của Tư lệnh Giáp Văn Cương

06 Tháng Sáu 2019(Xem: 6972)
"Nam tiến", quá trình các nhóm người Việt tiến về phía nam, mở mang lãnh thổ từ Quảng Bình đến Hà Tiên giữa các thế kỷ XIV-XIX được coi là một trang sử lớn và quan trọng trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam.
09 Tháng Năm 2019(Xem: 7522)
15 Tháng Tư 2019(Xem: 8384)