Từ Vị Ương Nghiễn của Vua Thiệu Trị đến Tức Mạc Hầu của Vua Tự Đức

21 Tháng Tư 20196:19 CH(Xem: 9021)

VĂN HÓA ONLINE - DIỄN ĐÀN VĂN HÓA - THỨ HAI 22 APRIL 2019


PHỤ LỤC


Từ Vị Ương Nghiễn của Vua Thiệu Trị đến Tức Mạc Hầu của Vua Tự Đức (1)


image012


Nguyễn Duy Chính


NGHIÊN VỊ ƯƠNG (未央硯)


Trong chương 26 của tác phẩm Hơn Nửa Đời Hư (Calif. Văn Nghệ, 1995) cụ Vương Hồng Sển, một tác giả nổi tiếng trong giới sưu tầm sách vở và cổ ngoạn, có đăng lại bài viết của cố giáo sư Nguyễn Thiệu Lâu (nguyên bản từ tuần báo Nhân Loại, số Xuân năm Kỷ Hợi, 1959), nhan đề “Sự tích một cái nghiên xưa”. Bài báo này đề cập đến việc có người dâng chiếc Tức Mặc Hầu lên vua Thiệu Trị căn cứ trên những chi tiết dựa theo Đại Nam thực lục chính biên, Đệ Tam kỷ, quyển XXV, Hiến Tổ Chương Hoàng Đế. Sau đây là nguyên văn trong sách (tr. 521-523):


SỰ TÍCH MỘT CÁI NGHIÊN XƯA


Ở viện bảo tàng tại đế đô (Huế) có một cái nghiên. Ông coi viện rất lấy làm vinh hạnh, khi có một người lạ đến thăm viện, để cho ông được dịp chỉ cho xem một cái nghiên xưa, mà ta thường gọi là nghiên của vua Tự Đức.


Tôi đã có nhiu dịp vào Huế để nhìn cái nghiên nầy.


Đã biết bao báu phẩm của ta bị mất.


Còn lại cái nghiên nầy.


Tra trong sử, ta thấy một sử liệu v cái nghiên lịch sử nầy.


Tôi xin sao sử liệu ấy ra đây.


Năm Nhâm Dần (năm thứ hai triu vua Thiệu Trị (1842) tháng mười, có người dâng cái nghiên xưa.


Dài bảy tấc bốn phân, rộng bốn tấc bảy phân, dày năm phân.


Chất bn mà láng bóng, kiểu xưa mà đơn sơ.


Rõ ràng một phiến “ngói âm dương” mà người xưa đã nhân hình dạng, đục ra chỗ chứa nước, chỗ mài mực.


Đầu nghiên có khắc bài minh rằng:


“1. K sắc ôn nhuận,


2. K chế cổ phác,


3. Hà dĩ trí chi,


4. Thạch cừ bí các,


5. Cải phong tức mặc,


6. Lan đài liệt tước,


7. Vĩnh nghi bửu chi,


8. Thơ hương thị thác.” [1]


Bài thơ bằng chữ Hán đó khó dịch lắm. Có những chữ không có thể dịch được. Đại khái nghĩa bài thơ như sau nầy:


  1. Sắc nghiên ôn nhuận,
  2. Kiểu nghiên cổ phác,
  3. Nên đặt chỗ nào?
  4. Thạch cừ bí các,
  5. Tức mặc đổi phong,
  6. Lan đài dự tước,
  7. Quí báu đời đời,
  8. Thơ hương phú thác.

Bài minh bằng chữ Hán đã được các quan bộ Học dịch như trên.


Có một điển tích, ấy là đời xưa phong cái nghiên là Tức Mặc Hầu. Tức mặc là tên đất, mà nghĩa chánh, tức là tới, mặc là mực. Vậy nên đời xưa, nhân tên đất mà phong hầu cho cái nghiên, lại có ý riêng là cái đựng mực. Lan đài là nơi làm sách. Nơi ấy phải cần nghiên bút.


Nghiên là Tức Mặc Hầu,


Bút là Quản Thành Tử.


Nghiên và bút đu được dự tước trong Lan đài cả.


Sau bài minh đã dẫn ở trên, ông Tô Thức xưa có khắc hai cái ấn.


Một cái khắc hai chữ « K trân », nghĩa là quí lạ.


Một cái khắc hai chữ « Tàng bửu » nghĩa là báu kín.


Ông Tô Thức là một vị hay chữ đời Tống.


Sau lưng nghiên có khắc bốn chữ « Thạch cừ các ngoã », nghĩa là ngói ở nơi các Thạch cừ.


Dưới, lạc khoản mấy chữ rằng : « Nghiên này chế tại tháng tám, năm thứ ba, hiệu Nguyên phù ».


Ngài truyn đem nghiên ấy dâng vào sở Kinh diên.


Rồi ngài truyn Nội các như sau này : (Ta đừng quên rằng ngài Thiệu Trị rất hay chữ) : « nghiên này là nghiên Các Thạch Cừ » xưa.[2]


Nguyên các ấy từ Tiêu Hà lập ra để chứa đồ tịch. Đến năm thứ ba, hiệu Cam lộ, vua Tuyên đế nhà Hán, hội các nho thần giảng kinh tại đó.


Từ năm thứ ba hiệu Cam lộ đến năm thứ ba hiệu Nguyên phù đời Triết tôn nhà Tống, Tô Thức mới được phiến ngói ấy, làm thành nghiên, cả thảy một ngàn một trăm bốn mươi chín năm (1149).


Từ khi ấy đến nay, lại được hơn bảy trăm bốn mươi năm nữa (740). Thời nghiên này gốc tích là đời Hán, làm thành ở đời Tống, mà xuất hiện ra đời nay, thiệt là một vật báu v việc hàn mặc.


Bây giờ cách sau Hán Tống đến hơn hai ngàn năm mà văn minh thịnh hội cũng như Hán Tống trước, há chẳng phải là vật quí báu Trời Đất để dành, đợi thời mới bày tỏ ra hay sao ?


Trong đạo chuộng văn, khác thời thế, mà chung một vật báu, đời nay cùng đời Hán Tống xưa, chừng có cơ duyên khế hiệp với nhau chăng ?


Âu Dương Tu đời Tống xưa có câu rằng : « Ai ưng vật gì thời vật ấy thường tụ hội tới ». Nghĩa là vậy đó.


Trên đây tôi sao nguyên văn một sử liệu trong bộ Chánh biên.


Một câu hỏi được đặt ra : « Ai đã dâng nghiên xưa này lên ngài Thiệu Trị ? ».


Phải chăng là một người Tàu ? Người này đã biết giá trị của cái nghiên và đã biết đem dâng cái nghiên ấy lên nhà vua.


Vua Tự Đức đã thường dùng cái nghiên đó. Thực là một quốc bảo, còn giữ được đến bây giờ, cũng là một sự lạ, vì chưa ai ăn cắp hay đập vỡ.


Giáo sư Nguyễn Thiệu Lâu dường như nhận lầm chiếc nghiên được gọi là Tức Mặc Hầu (từ đời Tống) làm bằng ngói cung Vị Ương do Tô Thức chế tác của vua Thiệu Trị với chiếc nghiên Đoan Khê do chính vua Tự Đức sai làm khi mới lên ngôi [cũng phong cho nghiên này là Tức Mặc Hầu] nên mới viết là « Vua Tự Đức đã thường dùng cái nghiên đó ».


Với người Việt Nam, một chiếc nghiên được phong tước hầu tương đối lạ lùng, tưởng như có một không hai (và có lẽ cũng vì thế mà cụ VHS đã huyền thoại hoá chiếc nghiên khá nhiều) nhưng thực ra trong Tây Thanh Nghiễn Phổ cũng đã ghi nhận một số nghiên tàng trữ trong cung làm bằng ngói từ đài Đồng Tước và cung Vị Ương. Tức Mặc Hầu cũng là một trong những tên văn nhân gọi món đồ dùng để mài mực một cách trịnh trọng.


Cung Vị Ương (未央宮)[3]


Tại sao chiếc nghiên làm bằng ngói ở cung Vị Ương lại quí? Có nhiều lý do nhưng trước hết là cung ấy đã bị phá huỷ nên những di sản còn lại đều trở thành hiếm hoi. Cung Vị Ương được xây dưới đời Hán Cao Tổ, có diện tích rất rộng và nhiều triều đại đã dùng làm thủ phủ hành chánh nhưng đã bị thiêu huỷ vào đời Đường. Ngói lợp cung Vị Ương là một loại ngói không tráng men, cách làm cũng công phu như cách người ta làm đất tử sa để nặn ấm đất nên những viên ngói theo năm tháng bị mưa gió làm mòn nhẵn, cứng nhưng không ráp, mài mực rất tốt.


Đài Đồng Tước (銅雀臺)


Là công trình do Tào Tháo đời Tam Quốc kiến tạo năm Kiến An 15 (210 TL). Đài cao 10 trượng, chia ra làm ba ngọn cách nhau 60 bước, có cầu bắc để đi từ đài nọ sang đài kia. Tào Thực (con Tào Tháo) còn truyền lại một bài Đồng Tước Đài Phú rất nổi tiếng. Người Việt Nam biết nhiều về đài Đồng Tước qua việc Khổng Minh khích Chu Du trong truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa và Truyện Kiều hơn là qua lịch sử.


Việc chế tạo gạch, ngói dùng trong các cung điện của vua chúa Trung Hoa cũng công phu và nhiều giai đoạn không khác gì việc làm những đồ gốm loại tốt nhất. Trong Glimpses of the Court of China, 1773, giáo sĩ Benoit cũng miêu tả gạch làm trong cung của vua Càn Long như sau:


Nn của buồng này và các phòng khác của hoàng đế đu lát gạch mà họ gọi là kim chuyên[4] (kin-tchou-en) có nghĩa là gạch kim khí vì khi họ lát thì tiếng kêu như tiếng đồng hay tiếng kim loại. Những viên gạch đó vuông vức 60 phân, được làm ở những tỉnh phía nam. Loại sa thạch mà người ta làm gạch này được dùng để làm đá mài. Người ta [giã nhỏ thành cát] trộn cát nước để trong bồn cho lóng một thời gian và các vật thể lớn đọng lại dưới đáy thùng, sau đó đổ nước sang thùng khác và để một thời gian lâu cho đến khi nào chất liệu mịn nhất đã kết tủa. Chất kết tủa này được dùng làm gạch, mặt láng đến nỗi những mảnh vỡ thường được dùng để mài dao cạo và đánh bóng các đồ kim loại khác. Mỗi viên gạch trị giá 40 lạng bạc, trị giá tương đương với 100 crowns[5] bên Pháp. Khi lát cái sàn này, họ gắn các viên gạch với nhau bằng một loại keo có trộn sơn và khi đâu vào đấy rồi họ lại quét sơn lên khiến cho mặt điện luôn luôn bóng lộn, và cũng rất cứng, khi bước lên trên chúng ta có cảm tưởng là lát bằng đá cẩm thạch.[6]


Có một đoạn tương đối quan trọng ngay sau phần giáo sư Nguyễn Thiệu Lâu trích trong Thực Lục bên trên. Đoạn đó như sau:


Vua lại nói rằng:


Trong Ngoã Nghiễn Phổ có viết là ở nơi di chỉ của đài Đồng Tước của nhà Nguỵ người ta thường giữ được ngói cũ, đục thành nghiên rất khéo, giữ nước mấy ngày không khô. Theo tích xưa truyn lại thì khi làm những viên ngói xây đài này thì người thợ làm đồ gốm lấy bùn (nguyên văn Trừng Nê, tức bùn ở sông Phần), dùng vải rây rồi cho thêm dầu hồ đào thành đất thó nên ngói đó khác với ngói thường.


Nay trẫm xem cái nghiên này là di tích từ Thạch Cừ, ngói ở Đồng Tước làm sao sánh với vẻ cổ phác của nó được? (NDC dịch)


Xem như vậy, vua Thiệu Trị học rộng nên biết rằng ngói đài Đồng Tước làm từ Trừng Nê đã tốt mà ngói Vị Ương còn tốt hơn, chiếc nghiên của ông quả là trân quí. Chiếc nghiên của vua Thiệu Trị không biết nay ở đâu nhưng một chiếc nghiên khác cũng được phong Tức Mặc Hầu [đời Tự Đức] thì lại nổi đình nổi đám hơn nhiều, gây tranh luận kèm theo một số giả thuyết theo hướng “âm mưu” [conspiracy theory] mà tung tích vẫn còn mờ mịt.


image013

Đại Nam Thực Lục chính biên

Đệ Tam kỷ, quyển XXV


   1

Vị Ương Nghiễn


   2

Đồng Tước Nghiễn

Tây Thanh Nghiễn Phổ (Thanh)

Hai chiếc nghiên này được chế tạo từ ngói cũ ở cung Vị Ương và đài Đồng Tước đời Hán


NGHIÊN TỨC MẶC HẦU


Chiếc nghiên Vị Ương của vua Thiệu Trị, kể cả bài viết của giáo sư Nguyễn Thiệu Lâu về chiếc nghiên này chỉ là phần phụ, phần chính yếu cụ Vương Hồng Sển muốn đề cập đến là một chiếc nghiên khác mà chính cụ cầm lên xem, thử nghiệm và được miêu tả với nhiều chi tiết lạ lùng.[7]


Câu chuyện về chiếc nghiên được ghi lại như một hồi ký đăng trên tạp chí Bách Khoa (thời đại), số đặc biệt 290-291 ngày 1 và 15-2 năm 1969, Tết Kỷ Dậu dưới nhan đề “Nghiên mực Tức-Mặc-Hầu của vua Tự Đức” trong đó cụ Vương úp mở đưa ra một giả định (nhưng gần như chắc chắn, dù chỉ nghe người khác nói lại) là có người đã đem vào trong Nam để dâng cho ông Ngô Đình Diệm và nghiên đó đã thất tung sau ngày đảo chánh năm 1963.


Cũng từ bài viết chúng ta được biết thêm một số chi tiết khác. Cụ Vương đã nhắc đến tập san Đô Thành Hiếu Cổ, năm thứ tư, số 3 các tháng 7-8-9 năm 1917 (Bulletin des Amis du Vieux Hué 4e année No 3, Jullet-Sept 1917), mà theo đó chúng ta đọc được hai bài về chiếc nghiên, một của E. Gras và một của Ngô Đình Diệm (dịch bài minh trên nắp hộp). Giữa hai bài viết, chúng ta còn thấy một bản tranh (planche) vẽ chiếc nghiên Tức Mặc Hầu khá rõ và trung thực của hoạ sĩ Tôn Thất Sa.


Tác giả

Bài viết

Xuất xứ

Nội dung

Vương Hồng Sển

Nghiên mực Tức-Mặc-Hầu của vua Tự Đức

Bách Khoa thời đại, số đặc biệt 290-291 ngày 1 và 15-2 năm 1969, Tết Kỷ Dậu

Tường thuật việc tác giả được cho xem chiếc nghiên của vua Tự Đức và những suy đoán về việc chiếc nghiên bị mất tích

E. Gras

Sur un encrier de Tu-Duc 

Bulletin des Amis du Vieux Hué 4e année No 3, Jullet-Sept 1917

Miêu tả chi tiết hình dáng và các đặc tính của chiếc nghiên TMH

Ngô Đình Diệm (dịch và chú giải)

L’encrier de S. M. Tu-Duc 

nt

Bản dịch bài minh của vua Tự Đức trên nắp hộp đựng nghiên và những hàng chữ ở chung quanh chiếc nghiên

Tôn Thất Sa

Hình vẽ chiếc nghiên TMH

nt (tr. 209)

Vẽ chính diện và hàng chữ cạnh đông và cạnh nam chiếc nghiên


Ngoài hình vẽ của hoạ sĩ Tôn Thất Sa trong VABH và tấm ảnh nơi bài của cụ Vương Hồng Sển [khá mờ] trong Bách Khoa thời đại (tr. 15) hình ảnh chiếc nghiên cũng còn xuất hiện ở nơi khác. Khi nền Đệ Nhất Cộng Hoà còn phôi thai, chính phủ [Nam] Việt Nam có ấn hành một số sách vở nhằm quảng bá thành quả ban đầu của quốc gia với thế giới. Những tác phẩm này được xuất bản bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp, in ở nước ngoài [có lẽ các nhà in quốc nội chưa đủ kỹ thuật in giấy láng hay hình màu với độ phân giải cao].


Trong Việt Nam d’hier et d’aujourdhui (tiếng Pháp) do Thái Văn Kiểm biên soạn (338 trang, được in tại Tanger, Maroc ngày 20 juillet, năm 1956) và một ấn bản khác (tiếng Anh) nhan đề Viet Nam: Past and Present (442 trang, không đề nơi in, năm 1957) có hình chiếc nghiên Tức Mặc Hầu của vua Tự Đức (Việt Nam d’hier et d’aujourdhui ở trang 89 và Viet Nam: Past and Present ở trang 106).


image018

Việt Nam d’hier et d’aujourdhui, 1956 (tr. 89)


image019

Viet Nam: Past and Present, 1957 (tr. 106)


image020image021

Vietnamese Realities (1967), tr. 89

[Tủ sách NDC]


Đến năm 1967, thời Đệ Nhị Cộng Hoà, một tác phẩm khác của Bộ Ngoại Giao có tên là Vietnamese Realities (190 trang, nội dung sử dụng khá nhiều tài liệu từ ấn bản 1956, 1957), tấm hình chiếc nghiên lại thấy xuất hiện nơi trang 89, lớn hơn hai tấm hình trước đây [hình bên trên] nhưng cũng không đủ rõ để có thể đọc được bài minh trên nắp hộp. Ngoài ra, theo chúng tôi ghi nhớ, hình chiếc nghiên này còn được đăng trên tạp chí Văn Hoá Nguyệt San.


Có mấy bài minh?


Vậy chiếc nghiên miêu tả có tạc hình 8 vị tiên (và một vị khác cùng tiểu đồng đang đi tới ở phía bên trái) bằng đá Đoan Khê với nhiều dật sự ly kỳ được cụ Vương Hồng Sển kể lại nhân chuyến ra thăm Huế chính là chiếc nghiên ta thấy ở trên. Bài viết của cụ Vương (Bách Khoa thời đại) cũng cho biết tại chiếc nghiên này, kể cả hộp, có đến ba bài minh, trên nắp, dưới đáy hộp và dưới đáy nghiên (viết đậm và gạch dưới do người viết nhấn mạnh):


Tôi lật b trái xem trước, thì là một bài văn “ngự chế” của đức Dực Tôn, đ cao đặc tánh có một không hai của Tức Mặc Hầu. Chữ khắc nổi, mạ vàng lên trên, sắc sảo vô song, tiếc vì ảnh chụp không đủ sức làm lộ ra nét độc đáo này. Tôi xem qua hộp đựng, thì là một cái hộp rất mỹ thuật làm bằng đồi mồi Hà Tiên, trong trẻo và vàng hực, làm cho bài thi “ngự chế” khắc lên nắp trên nắp dưới cái hộp càng khiêu gợi; theo tôi, nội cái hộp cũng đủ là một mỹ-phẩm tuyệt tác … [8]


Đối chiếu với tài liệu, nhất là bản dịch của ông Ngô Đình Diệm và miêu tả của E. Gras, chúng ta chỉ thấy đề cập đến [và dịch] bài minh trên nắp hộp [xà cừ khảm trên sơn đen], các hàng chữ của bốn cạnh đông, tây, nam, bắc của chiếc nghiên[9] chứ không thấy nói gì đến bài thơ ngự chế nào ở mặt dưới nắp hộp cả. Cái mà cụ Vương nói là “b trái” chính là bài minh trên nắp hộp và đó là “ngự chế thi” duy nhất chúng ta thấy được.


Theo lời thuật của cụ Vương thì bài viết trên Bách Khoa thời đại dự tính đăng lại vào Hiếu Cổ đặc san số 9 [là bộ sách tập hợp những bài viết của cụ Vương Hồng Sển] nhưng việc chưa thành thì xảy ra biến cố năm 1975 nên sau cùng đã chép thêm vào trong Hơn Nửa Đời Hư là tác phẩm cụ Vương viết theo dạng hồi ký.[10]


Bài viết trên Bách Khoa khi in lại trong Hơn Nửa Đời Hư có khác đôi chút, người viết xin chép lại nguyên văn đoạn này (viết đậm và gạch dưới do người viết nhấn mạnh):


…Tôi cầm nghiên mực mà suy nghĩ mông lung, ban đầu tôi lật b trái xem trước, và đây cũng là méo mó ngh nghiệp, thuở nay ngh chơi đĩa xưa dạy hễ gặp thứ gì hay thì “lật đít” xem trước, đọc ký hiệu nếu là đồ cổ, hoặc tìm gì gì nếu đó là thiên kim giai nhân! Dưới đáy nghiên là một bài văn “ngự chế của đức Dực Tôn, đ cao đặc tính của nghiên Tức Mặc Hầu. Chữ khắc nổi, mạ vàng lên mặt chữ, sắc sảo không thể tả, tiếc vì tôi chỉ biết mò bằng tay và khen tấm tắc, chớ không biết khen bằng mắt vì mắt không đọc được chữ nào! Lúc đó tuy có thâu vào máy ảnh, nhưng chữ tế vi quá, không đọc được, vả lại ngày nay ảnh cũng mất, nên khen cũng như không. Sau khi xem đáy, tôi xem qua hộp đựng, thì đây là một cái hộp rất mỹ thuật, làm bằng đồi mồi Hà Tiên, loại thật đẹp, thật quí, trong trẻo và vàng hực, khiến cho bài thi ngự chế nổi bật: một bài khắc trên nắp hộp và một bài nữa khắc trên mặt dưới của cái hộp, khiến tôi khen thầm, nội cái hộp nầy không, cũng đủ là một mỹ thuật phẩm tuyệt tác …” [HNDH, tr. 517-8]


Nói tóm lại, trong cả bài gốc ở Bách Khoa và sau này in trong Hơn Nửa Đời Hư, cụ Vương Hồng Sển đều xác định rằng cả chiếc nghiên và hộp đựng có đến ba nơi khắc chữ: dưới đáy nghiên, trên nắp hộp và dưới đáy hộp. Cả ba đu là ngự chế thi.


Tuy cụ Vương Hồng Sển viết rất nhiều chi tiết nhưng đối chiếu với những tài liệu khác thì có đôi chỗ không rõ rệt lắm. Cụ Vương viết chiếc hộp làm bằng đồi mồi, vậy là như thế nào?


Đồi mồi không phải là vật liệu có thể làm những gia cụ lớn như hộp đựng nghiên nêu trên, nên chỉ có thể là hộp gỗ dát bằng những miếng đồi mồi mỏng. Mà cũng không phải dát toàn bộ vì trông tấm hình trích từ Vietnamese Realities, chúng ta cũng thấy cái nắp hộp bỏ riêng ra ngoài, phần trên là gỗ sơn mài đen [nắp làm lớn hơn diện tích hộp phía dưới], trên khảm bài minh bằng xà cừ như đề cập trong những tài liệu khác.


Mậu Thân hay Mậu Thìn?


Bản dịch Ngô Đình Diệm


Bài minh:


Trước hết là bản dịch của một viên thư lại cửu phẩm ở Tân Thơ Viện [Tân Thư Viện] có nhan đề “Chiếc nghiên mực của vua Tự Đức”[11] . Người dịch Ngô Đình Diệm chính là tổng thống đầu tiên của Đệ Nhất cộng hoà miền nam Việt Nam sau này. So sánh những chữ Hán có thể đọc được, bản dịch của ông Ngô Đình Diệm trên BAVH chính là bài minh bên trên nắp hộp nghiên, còn hai bài khác ở dưới đáy nghiên và dưới nắp hộp như cụ Vương Hồng Sển miêu tả thì không thấy đưa ra thêm các chi tiết. Bài minh dài [9 hàng 31 chữ và 1 hàng 29 chữ, tổng cộng 308 chữ + thêm đầu đề 6 chữ, lạc khoản 12 chữ] ta biết trên nắp hộp có khảm tất cả 326 chữ và hai con dấu.


image022

Phần cuối bản dịch của Ngô Đình Diệm

BAVH, Jullet-Sept 1917, tr. 212


Các hàng chữ khác:


Ngoài ra, theo bản dịch [đoạn sau cùng] ta cũng biết chiếc nghiên còn đôi câu đối ở hai bên đông tây (faces latérales) để ca tụng và hai hàng chữ ở hai bên nam bắc (deux autres extrémités) cho biết thêm về nơi lưu trữ và năm chế tạo.


Ở hai cạnh đông tây:


Cet encrier a des lignes, des arêtes nettes et pleines, le sage seul peut s'en servir.


Il ne présente aucune défectuosité, ni la médisance, ni la perversité ne pourront l'entamer.


(Chiếc nghiên này có đường nét, góc cạnh sắc sảo và đầy đặn, chỉ dành riêng cho người quân tử.


Không khuyết điểm, không lệch lạc, không điều tồi bại nào có thể xâm phạm được)


Rất tiếc, hoạ sĩ Tôn Thất Sa chỉ vẽ được một câu bên cạnh chiếc nghiên mà theo phép phối cảnh không vẽ phía bên kia, những nét chữ cũng không tròn trịa lắm nên người xem (tác giả bài viết này) – trong giới hạn hiểu biết của mình – chỉ có thể đọc một phần và đối chiếu với bản dịch để suy đoán :


有廉隅惟君子可與相…­­ (hữu Liêm Ngung duy quân tử khả dữ tương …)


Đây chính là câu ông Ngô Đình Diệm đã dịch thành « Cet encrier a des lignes, des arêtes nettes et pleines, le sage seul peut s'en servir ». Chỗ này cũng khiến chúng ta phải bàn sâu thêm một chút. Chữ Hán Liêm (廉) nghĩa là góc cạnh, Ngung (隅) là vuông vức nhưng có lẽ vua Tự Đức không chỉ dùng để miêu tả hình dáng chiếc nghiên một cách mộc mạc mà còn muốn nói đến xuất xứ của nó. Liêm Ngung (Liêm Châu và Phiên Ngung đều là tên đất thời cổ) là nói về đất Quảng Đông vì chiếc nghiên này làm bằng đá Đoan Khê từ Triệu Khánh bên Tàu. Vua Tự Đức vốn nổi tiếng là người hay dùng một chữ với nhiều nghĩa khác nhau nên ông Diệm chỉ dịch nghĩa đen mà không nhắc tới nghĩa bóng của nó là « chỉ người quân tử[12] mới có được một chiếc nghiên bằng đá Đoan Khê ».


Thành ra vua Tự Đức viết câu đó vừa có nghĩa người quân tử nên minh bạch rõ ràng, lại hàm ý ông có một chiếc Đoan Nghiễn quí giá.


Và hai cạnh bắc nam là :


Encrier en pierre de Đoan-Khê, du Kinh-Diên


(Nghiên đá Đoan Khê để trong điện Kinh Diên [nơi giảng sách của nhà vua])


Un jour faste de l’année mậu-thìn de la période Tự-Đức.


(Một ngày tốt năm Mậu Thìn đời Tự Đức)


Như thế ta chỉ thấy trong bài dịch của ông Ngô Đình Diệm chỉ có một bài minh và hai câu (ở hai bên đông tây) [faces latérales] và niên đại (ở trên dưới nam bắc) [deux autres extrémités] nên việc cụ Vương đề cập đến hai bài khác dưới đáy hộp và đáy nghiên [không thấy đề cập trong BAVH] là một bí ẩn khó hiểu. Hay là cụ nhớ nhầm ?


Có một điểm đáng thắc mắc. Đó là theo bài dịch – không phải một mà hai lần – ông Ngô Đình Diệm đã dịch năm khắc bài minh này là năm mậu thìn (1868), tức là cách nhau đến 20 năm. Bài dịch viết :


Fait un jour faste de l’an mậu-thìn (1868) de la période Tự-Đức (dòng 5) [trang 212]


Un jour faste de l’année mậu-thìn de la période Tự-Đức (dòng cuối) [trang 212]


Trong khi đó trên tấm ảnh nắp hộp nghiên thì hai hàng chữ cuối cùng [tức hàng dọc bên trái], ngay trên hai chiếc ấn chúng ta có thể vẫn còn nhận ra một số hàng chữ (từ trên xuống) :


嗣德戊申吉月日… (?)


Tự Đức Mậu Thân Cát Nguyệt Nhật … (?)


Ngoài cùng bên trái là ba chữ :


御製詩


Ngự Chế Thi


Mậu Thân là năm 1848 Dương Lịch, tức Tự Đức nguyên niên, là năm đầu khi vua Dực Tôn vừa lên ngôi nên việc cho đục một chiếc nghiên để kỷ niệm năm đầu thân chánh là chuyện thường làm vì các món nhật dụng của tiên vương không truyền cho đời sau mà đem vào thờ chung trong lăng.


Chắc chắn với trình độ học vấn vào thời đó, ông Ngô Đình Diệm không thể đọc nhầm hai chữ Mậu Thân [戊申] và Mậu Thìn [戊辰] nên người viết cho rằng khi xếp chữ bản in có thể bị lộn chữ Thân và chữ Thìn vì viết theo chữ Hán thì Thân 申và Thìn 辰khác hẳn nhau nhưng quốc ngữ theo mẫu tự Latin thì lại gần giống nhau, viết tay thì lại càng dễ nhầm. Lạ nhất là lại có chữ số (1868) để trong ngoặc đơn nên biết rằng hai chữ mậu thìn không phải do xếp chữ mà chỉ có thể sai lầm được thêm vào khi in báo.


3

Hình vẽ của Tôn Thất Sa (BAVH)


Cũng trong số tạp chí đó, một bài về chiếc nghiên do E. Gras viết nhan đề « Sur un encrier de Tu-Duc » (Về chiếc nghiên của vua Tự Đức) trang 207-208 và ở trang 209 là hình vẽ chiếc nghiên của Tôn Thất Sa (Planche XXVIII). Bức vẽ này khá chi tiết và rõ ràng, có thể đếm được 2 mắt cù dục lớn, một ở nghiễn trì, một ở nghiễn đường và ít nhất bốn mắt khác nhỏ hơn lẩn trong các hoạ tiết và mép nghiên. Cũng trên hình vẽ này, chúng ta đọc được hàng chữ « Tự Đức Mậu Thân Cát Nguyệt Nhật … » ở phía đáy tương tự như bài minh trên nắp hộp đã đề cập ở trên. Với hai chi tiết từ hai phần riêng rẽ (nắp hộp và ngay trên chiếc nghiên), chúng ta biết chắc rằng năm chế tạo nghiên là năm Mậu Thân (1848) chứ không phải là năm Mậu Thìn (1868) như bản dịch của ông Ngô Đình Diệm.


Hộp đựng nghiên:


Theo bức hình chụp in trong Vietnamese Realities, chúng ta thấy nắp trên của hộp nghiên là sơn mài đen bóng trên khảm bằng xà cừ bài thơ ngự chế. Chiếc nắp hộp được để ra phía bên phải chiếc nghiên.


Cũng từ bài thuyết trình về chiếc nghiên ngày 5 tháng 6, 1917 của E. Gras, chúng ta biết nhiều hơn về chiếc hộp đựng. Dó là một hộp bằng sơn mài đen, với những hàng chữ Hán được khảm bằng xà cừ, có 4 chân làm bằng ngà.[13] Với những chi tiết ông Gras miêu tả, cái nghiên theo thời gian đã thẫm màu, chữ mà giới chuyên môn gọi là « phong hoá ». Đó cũng là thường tình vì nghiên Đoan Khê khi mới thường có màu tím nhạt, sau ngả màu xanh lục như đá ở ngoài trời lâu ngày. Về ngoại hình, chúng ta biết được chiếp hộp này là hộp đồi mồi tuy mai rùa thường không đủ lớn đển có thể cắt ra làm một chiếc hộp to như thế. Vậy chắc là đồi mồi Hà Tiên được khảm hay lát trên một chiếc hộp bằng nhiều miếng nhỏ nên cụ Vương miêu tả là « trong trẻo và vàng hực ».


Nói tóm lại, hình vẽ của Tôn Thất Sa là vẽ riêng cái nghiên còn hình chụp trong sách Vietnamese Realities bao gồm nghiên để trong hộp, nắp trên bỏ ra ngoài để lộ bài minh ngự chế của vua Dực Tôn. Chiếc nghiên làm bằng đá Đoan Khê, hộp làm bằng gỗ, sơn mài đen khảm chữ bằng xà cừ, bên ngoài lát đồi mồi màu vàng.


Một vài nhận xét khác:


Khi ông Ngô Đình Diệm dịch bài minh này (1917), ông chỉ mới 16 tuổi (ông sinh năm 1901). Theo các chi tiết trong tiểu sử, đây là thời gian mà cha ông [Ngô Đình Khả] đã bị thất thế (năm 1907, Ngô Đình Khả bị mất chức tổng quản tử cấm thành vì không đồng ý truất phế vua Thành Thái). Kể từ đó, gia đình họ Ngô sa sút nên sau này, ông Ngô Đình Diệm được theo học trường Hậu Bổ cũng là nhờ sự nâng đỡ của thượng thư Nguyễn Hữu Bài (bố vợ ông Ngô Đình Khôi). Tuy nhiên, Ngô Đình Diệm nhập học trường Hậu Bổ năm 1918 nên vào thời điểm ông dịch bài minh này, ông còn đang theo học trường Quốc Học [bậc trung học].


Cũng theo bài báo thì ông Ngô Đình Diệm làm việc trong Tân Thơ Viện, ngạch cửu phẩm [là ngạch thấp nhất trong quan trường] thường dành cho những người chưa có chức vụ gì cả, và việc dịch bài minh có thể do cấp trên yêu cầu, vừa để làm tài liệu đăng báo, vừa như một hình thức gián tiếp giúp đỡ cậu thiếu niên một số tiền nhuận bút. Một thanh niên 16 tuổi dịch một bài cổ thi tương đối khó, nhiều chi tiết cần giải thích [bài khoảng 2 trang có 23 cước chú] nên chưa chắc ông đã có thể làm một mình mà có thể được người lớn (trong gia đình hay trong toà soạn) giúp đỡ trong việc tìm kiếm tài liệu.


Có thể ví nhiệm vụ của Ngô Đình Diệm trong Tân Thơ Viện như một học sinh hay sinh viên làm việc tạm thời, tập sự (intern) tại các cơ quan hành chánh ngày nay. Việc cụ Vương Hồng Sển cho rằng ông lưu tâm tới chiếc nghiên từ lâu và sau này dự phần chiếm lãnh một bảo vật quốc gia là một suy luận đi quá xa và cũng không có cơ sở chắc chắn. Nếu quả ông có vui mừng khi nghe nhắc đến bài trên BAVH có lẽ vì đây là một kỷ niệm khó quên của một thanh niên có công trình được đăng trên một tạp chí uy tín vào bậc nhất ở Đông Dương thời đó.[14]


Kết luận


Như vậy ta thấy có hai chiếc nghiên được gọi là Tức Mặc Hầu. Chiếc nghiên thứ nhất là một chiếc nghiên cổ [có tên sẵn theo bài minh khắc trên đó] làm bằng ngói Vị Ương do Tô Đông Pha (Tống) chế tạo. Chiếc nghiên này được dâng lên vua Hiến Tổ tháng Mười năm Thiệu Trị 2 (1842) như đã chép trong Đại Nam Thực Lục. Chiếc nghiên thứ hai được làm bằng đá Đoan Khê được vua Dực Tôn phong Tức Mặc Hầu năm Tự Đức nguyên niên (1848). Cả chiếc hộp và cái nghiên này đều được thực hiện cùng năm vì có hàng chữ « Tự Đức Mậu Thân … » nơi bài minh khảm trên nắp hộp [trong bức hình ở Vietnamese Realities] hay ở cạnh dưới của chiếc nghiên [trong bức vẽ của hoạ sĩ Tôn Thất Sa trong BAVH, Juillet-Sept. 1917].[15]


image024


Hai chiếc nghiên đó khác hẳn nhau, một chiếc do Tô Thức (Đông Pha) đời Tống làm ra từ ngói ở cung Vị Ương là nghiên cổ, còn chiếc nghiên của vua Tự Đức được đục từ đá Đoan Khê năm Tự Đức nguyên niên (1848) là nghiên mới chế tác riêng cho vua Dực Tôn khi ông lên ngôi.


Nếu tính theo niên đại thì chiếc nghiên của vua Thiệu Trị đã tồn tại 700 năm trong khi chiếc nghiên của vua Tự Đức chỉ mới hơn một thế kỷ, dù có quí giá nhưng chắc cũng không diệu dụng, ly kỳ như lời cụ Vương Hồng Sển ca tụng.


Trên thị trường, nghiên bằng đá Đoan Khê nay cũng khá thông dụng, nhiều chiếc tân tạo nhưng điêu khắc rất mỹ thuật. Riêng những mắt nghiên nếu thực là cù dục nhãn thì rất hiếm, chỉ người giàu hay có duyên may mới có được.


Như vậy, việc vua Thiệu Trị và vua Tự Đức phong [hay đề cao] cái nghiên quí của mình là Tức Mặc Hầu cũng chỉ lập lại một thông tục của Trung Hoa đời trước chứ không phải chưa từng có. Tức Mặc Hầu vì thế đã trở thành một dạng “nhân cách hoá” (personification) một đồ vật thân thiết, nhất là đối với giới nho sĩ vốn coi chữ nghĩa là biểu tượng cho di sản của thánh hiền.


Không biết hai chiếc nghiên của vua Thiệu Trị và vua Tự Đức nay còn hay mất, lưu lạc về đâu ?


Nguyễn Duy Chính


9-2018


(1) Vị Ương là tên một cái cung điện nhà Hán.


Nghiễn chữ Hán là cái nghiên mực.


Vị Ương Nghiễn là tên một loại nghiên làm bằng ngói cung Vị Ương.


[1] 其色温潤, 其製古樸. 何以寘之, 石渠秘閣. 改封卽墨, 蘭臺列爵. 永宜寳之, 書香是托.

[2] Đúng ra là làm bằng ngói lợp ở gác Thạch Cừ ngày xưa. Nghiên này lấy ngói sau khi cung điện bị phá huỷ để chế thành nghiên vào đời Tống. (NDC chú thích)

[3] Vị Ương phát xuất từ Kinh Thi, Tiểu Nhã hàm nghĩa là chưa chấm dứt

[4] 金甎

[5] Đơn vị tiền ngày xưa, tương đương 5 shillings

[6]NDC dịch. Trích từ Glimpses of the Court of China, 1773[Những thoáng nhìn vào triều đình Trung Hoa, 1773] trong Historical Scenes from the Old Jesuit Missions, do giáo sĩ WM. Ingraham Kip, D.D., LL.D., hội viên của Hiệp Hội Khoa Học New York sưu tầm, Anson D. F. Randolph and Company, New York (770 Broadway) ấn hành năm 1875.


 

[7] Trong bài viết dường như cụ Vương Hồng Sển đã không phân biệt được hai chiếc nghiên, hai loại vật liệu khác nhau nên đặt nhiều câu hỏi không chính xác, nhiều đoạn tưởng như cố tình nói cà kê, nhiều lời ít ý. Xem lời bàn của cụ VHS trong Hơn Nửa Đời Hư (Văn Nghệ, 1995), trang 524-531.

[8] Tạp chí Bách Khoa thời đại, số 290-291 ngày 1 và 15-2 đặc biệt tết Kỷ Dậu 1969 tr. 14

[9] Để dễ hình dung, chúng tôi dùng mặt trên, mặt dưới và bốn cạnh theo hướng đông tây nam bắc để nói về chiếc nghiên.

[10] Vương Hồng Sển. Hơn Nửa Đời Hư. (Calif. Văn Nghệ, 1995) Chương 26 : Nghiên Mực Tức Mặc Hầu của Đức Dực Tôn hoàng đế (tr. 515-531)

[11] L’encrier de S. M. Tu-Duc : Traduction des inscriptions par Ngô-Đình-Diệm, cửu phẩm au Tân Thơ Viện. Bulletin des Amis du Vieux Hué 4e année No 3, Jullet-Sept 1917 tr. 209-212

[12] quân cũng còn nghĩa là vua nên quân tử cũng nói đến bậc vương giả

[13] L’écrin, dès l’abord, retient l’oeil. La nacre des caractères, soigneusement incrustés, s’irise comme des fragments de prisme sur le fond brillant de laque noir. BAVH, 7-8/1917, E. Gras : « Sur un encrier de Tu-Duc » tr. 207.


Ngay từ đầu, chiếc hộp đã rất bắt mắt. Những chữ bằng xà cừ, được khảm kỹ lưỡng, lóng lánh như những lăng kính nhỏ trên nn sơn đen bóng.

[14]Đang trí còn nghĩ ngợi viển vông, thoạt nghe Tổng thống đặt máy nói vào móc, tôi vừa day lại thì nghe ông nói chậm rãi nửa thân nửa chí tính : « Cách nay mấy mươi năm, tôi cũng từng làm một ngh tương tự như ngh ông (tiếng ông gọi tôi lần thứ nhứt), nhưng vẫn không phải nơi chốn nầy đâu ! ».


-               Dạ thưa Tổng thống, tôi thầm phục và thầm khen ông khéo lựa mấy lời quá êm cởi mở, dạ thưa Tổng thống, tôi đã từng đọc bài nghiên cứu của Tổng thống viết v chiếc nghiên mực « Tức mặc hầu » đăng năm xưa trong tạp san Đô thành hiếu cổ.


-                ! phải đấy. Bài ấy tôi viết đã lâu lắm rồi. Có đọc hỉ. (HNDH, tr.475)

[15] Hộp đựng nghiên thường làm theo công thức 3/5 nghĩa phần dưới dày 2 phần thì nắp trên dày 3 phần. Khi nghiên để vào hộp, phần đá trồi lên cao để dễ lấy ra chùi rửa. (Xem ảnh chụp).