VĂN HÓA ONLINE - ĐỊA LÝ NHÂN VĂN - THỨ TƯ 04 DEC 2024
Tây Ninh trong trái tim ta
Kiều Mỹ Duyên
VĂN HÓA ONLINE
Tòa Thánh Tây Ninh
Tây Ninh trong trí nhớ, Tây Ninh trong trái tim của những cô gái Tây Ninh và chàng trai lính chiến đến rồi đi để lại đau đớn trong lòng cô con gái nhỏ. Tây Ninh với thánh thất Cao Đài hùng tráng uy nghi. Tây Ninh trong lòng người mộ đạo đi đâu cũng thành lập thánh thất Cao Đài, mô hình giống như tòa thánh Tây Ninh. Người xa Tây Ninh tìm về thăm lại quê cha đất tổ, thăm thánh thất Cao Đài, núi Bà Đen, thăm lại làng Từ Bi.
Năm 1832, vua Minh mạng đã chia Nam Kỳ thành 6 tỉnh, Tây Ninh lúc này thuộc trấn Phiên An. Đến 1836, tỉnh Phiên An được đổi thành Gia Định, phủ mới được thành lập và lấy tên Tây Ninh như hiện nay. Tây Ninh thuộc vùng Đông Nam Bộ của miền Nam, tiếp giáp với nhiều địa phương khác như: giáp với Bình Dương về phía Đông, giáp với Campuchia về phía Bắc, giáp với Sài Gòn và Long An về phía Nam. Về ý nghĩa tên gọi, Tây Ninh có nghĩa là vùng đất yên ổn về chính trị phía Tây. Ngày trước, nơi này còn có tên là Romdum Ray mang ý nghĩa chuồng voi vì khu vực này chỉ có các loài thú dữ như beo, rắn, voi, cọp, v.v.
Thánh thất Tây Ninh
Đến với Tây Ninh thì không thể không ghé qua tòa thánh Tây Ninh, đây là một công trình của đạo Cao Đài, đây là nơi thờ Thiên Nhãn- biểu tượng thiêng liêng của đạo Cao Đài. Tòa thánh được xây dựng từ năm 1933, tới năm 1955 mới hoàn thành, trên diện tích gần 12 km2, có hàng rào bao bọc xung quanh và bao gồm tòa thánh, đền thờ Phật mẫu, bửu tháp. Tòa thánh dài khoảng 100 mét, với 12 cửa, cửa Chánh Môn là cửa lớn nhất. Mặt ngoài có 2 tháp cao 36 mét, được xây dựng bằng xi măng cốt tre.
Phía sau tòa thánh.
Phía bên trong tòa thánh có kiến trúc vô cùng độc đáo. Hai hàng cột phía trong tòa được trạm trổ hình rồng với nhiều màu sắc rực rỡ. Nền tòa thánh có 9 cấp được gọi là “Cửu phẩm thần tiên”, mỗi cấp tương đương với một phẩm cấp. Ở giữa có quả cầu lớn tượng trưng cho vũ trụ với Thiên Nhãn nằm phía trước.
Phía trước tòa tháp có hình Thiên Nhãn- một con mắt tỏa hào quang, đây chính là biểu tượng của đạo Cao Đài.
Từ bao đời nay, người dân xã Thạnh Tân, Tây Ninh vẫn truyền tai nhau về sự tích kỳ bí của núi Bà Đen, về người con gái chết oan, 3 lần quay về báo mộng, hiển linh. Núi nằm tại xã Thạnh Tân, cách trung tâm thành phố Tây Ninh khoảng 11km. Núi Bà Đen có một sức hấp dẫn con người kỳ lạ đến như thế, không chỉ bởi đây là ngọn núi cao nhất miền Nam Việt Nam, với nhiều cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp mà còn bởi nhiều huyền thoại kỳ bí, được người dân lưu truyền bao đời nay, từ chuyện rắn thần hiển linh, thần núi cho đến câu chuyện về người con gái chết oan, quay về báo mộng, cứu nhân độ thế và đem lại nhiều may mắn, tài lộc cho chúng sinh.
Núi Bà Đen trải rộng trên diện tích 24km², gồm 3 ngọn núi tạo thành: núi Heo, núi Phụng và núi Bà Đen. Với độ cao 986m, nhìn từ xa, núi Bà Đen như một chiếc nón úp trên đồng bằng. Nằm rải rác từ chân núi lên đến đỉnh núi Bà Đen là một quần thể kiến trúc gồm chùa Phật với tượng Phật nhập Niết bàn, chùa Hang (Linh Sơn An Phước tự), chùa Hạ, chùa Trung (Linh Sơn Phước Trung tự), chùa Vân Sơn. Đan xen với hệ thống chùa là rất nhiều hang động được các tăng ni, Phật tử sửa chữa làm nơi thờ tự như: động Thanh Long, động Ông Hổ, động Ba Cô, động Ba Tuần, động Thiên Thai, động Ông Tà, hang Gió, ... Người hành hương về núi Bà thường xin những gói lộc (bên trong đựng một nhúm gạo hoặc hoa quả nhỏ xinh) để cầu may.
Núi Bà Đen, ngọn núi cao nhất miền Nam Việt Nam.
Câu chuyện huyền thoại luôn lôi cuốn du khách khi đến với địa danh tâm linh này, đó chính là sự tích về Bà Đen, nàng Lý Thị Thiên Hương con gái của ông Lý Thiện, quan trấn nhậm Trảng Bàng triều Nguyễn và bà Đặng Ngọc Phụng, một người phụ nữ gốc Bình Định. Truyền thuyết kể rằng, nàng vốn là người con gái xinh đẹp, hiền lương, là con của một nhà gia giáo, nên được rất nhiều người để ý. Trong làng có chàng tên Lê Sĩ Triệt, mồ côi cả cha lẫn mẹ, được nhà sư Trí Tân nuôi dưỡng nên văn hay võ giỏi và cũng tỏ lòng cảm mến nàng.
Trong một lần nọ Thiên Hương lên núi cúng chùa liền bị một đám côn đồ vây bắt. Giữa lúc nguy khốn, chàng Lê Sĩ Triệt đã xông gia đánh đuổi và cứu được nàng. Để đáp ơn chàng, cha mẹ nàng Thiên Hương hứa gả nàng cho Lê Sĩ Triệt. Nhưng giữa buổi loạn ly, hai người chưa kịp lấy nhau, chành trai Lê Sĩ Triệt đã phải tòng quân ra trận, đánh đuổi Tây Sơn. Nàng hứa sẽ ở nhà, giữ trọn danh tiết chờ chồng.
Khi Lê Sĩ Triệt tòng quân, ở nhà trong một lần lên núi lạy Phật và thăm dưỡng nhà sư Trí Tân, thì bị nhóm kẻ xấu trước đó vây bắt, toan làm nhục. Để giữ lòng trung trinh, nàng đã nhảy xuống khe núi tử tiết.
Núi Bà Đen cao 986 mét.
Trong lần báo mộng thứ nhất: nàng hiện về gặp nhà sư Trí Tân, trong hình dạng một người phụ nữ đen đúa và kể lại hết sự tình. Sau khi nghe hết câu chuyện, nhà sư bèn tỉnh dậy và cho người đi tìm thi thể nàng, đem về mai táng. Vì vậy nhà sư gọi nàng là nàng Đen và người đời sau gọi nàng là Bà Đen để bày tỏ lòng tôn kính của mình.
Lần báo mộng thứ hai, là khi chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đánh đuổi, chạy đến núi Bà Đen lẩn tránh. Thiếu lương thực, từ chúa đến lính đều đói lả. Nghe nhân dân nơi đây, đồn về sự linh thiêng của bà Đen, trong cơn tuyệt vọng, chúa Nguyễn Ánh đã cầu khẩn xin phò trợ. Đêm đó, bà Đen xuất hiện trong mộng, chỉ đường thoát thân và khuyên chúa Nguyễn Ánh nên qua Xiêm tá binh để chờ thời cơ khôi phục cơ đồ, thống nhất giang sơn.
Lần nhập xác hiển linh khi gặp gỡ Thượng Quốc Công – Lê Văn Duyệt. Chuyện chẳng là vị quan này có nghe đến sự linh thiêng của bà Đen nên đã quyết tâm tìm hiểu và hứa rằng, sẽ dâng sớ vua và phong chức cho cô nàng họ Lý này nếu cô hiển linh. Vào một ngày nọ nàng Lý Thị Thiên Hương quả thực đã nhập vào xác của một cô gái để trò chuyện với Quốc Công về tương lai của vị quan tài giỏi này và nỗi oan khuất của mình, chưa được gặp lại và chung sống với chồng, đã được trở thành tiên thánh và được cử xuống phàm trần để cứu nhân độ thế. Ngay sau đó, Quốc Công Lê Văn Duyệt đã thay mặt vua phong cho nàng Thiên Hương làm “Linh Sơn Thánh Mẫu”, tạc tượng để thờ và ngụ ở núi Một, nay đổi tên thành núi Bà Đen.
Sự tích 3 lần báo mộng hiển linh của nàng Lý Thị Thiên Hương được lan truyền khắp mọi nơi, cùng với tín ngưỡng tâm linh của người Việt: thường những người chết oan, họ rất linh thiêng nên tiếng lành đồn xa, dân chúng ở khắp các nơi đã về với Tây Ninh để vừa vãn cảnh, vừa cúng bái, cầu tài lộc và bày tỏ lòng tôn kính với vị Thánh Bà này.
Đền thờ Linh Sơn Thánh Mẫu, trên núi Bà Đen
Hồi nhỏ, tôi dẫn em trai út của tôi về thăm Tây Ninh, ở nhà người cậu của tôi ở làng Từ Bi, gần tòa thánh Tây Ninh. Cậu tôi lấy vợ ở Tây Ninh, về ở bên gia đình vợ. Nhà không đóng cổng, cửa cũng không khóa, mảnh vườn cây cỏ xanh tươi quanh năm suốt tháng, đời sống ở đây rất thanh bình, không trộm cắp, không ai vào vườn hái trái cây. Mọi người đi ngang tòa thánh dù đi xe đạp, đi xe gắn máy đều giở nón chào.
Trong tòa thánh rất sạch, đẹp, gạch bóng loáng, một bên dành cho phụ nữ, một bên dành cho nam. Người nào vào tòa thánh đều hiền lành, yên lặng, quỳ lạy, giày dép bỏ bên ngoài cửa, trật tự, nhường nhịn từ cửa vào, người già thường được mời đi trước, trước tòa thánh là rừng cây với những cây cổ thụ, với chim hót líu lo suốt ngày.
Du khách khắp nơi trên thế giới về thăm tòa thánh, chụp hình lia lịa, ngày nào tôi cũng dẫn cậu em dưới 10 tuổi vào thăm tòa thánh, rồi lên núi, chúng tôi nghe kể lại vua Gia Long lúc bôn đào chạy lên Tây Ninh, lên núi được Phật Bà báo mộng chỉ đường chạy sang Miên, sau này ông trở về Việt Nam và lên ngôi vua, ông nhớ ơn Phật Bà trên núi.
Tượng Phật Bà Tây Bổ Đà Sơn tại Tây Ninh có tổng chiều cao 72 mét và được đúc bởi hơn 170 tấn đồng đỏ- Tượng Phật Bà bằng đồng cao nhất Châu Á.
Em trai tôi, gầy nhưng leo núi rất giỏi, rất nhanh. Sau này, em tôi tình nguyện vào binh chủng Không Quân, rồi du học ở Hoa Kỳ 2 lần. Có lẽ nhờ leo núi bà cho nên đi rất nhanh, có lẽ được Phật Bà phù hộ.
Sau này, tôi trở lại thăm thánh thất Tây Ninh cũng nhiều lần, mỗi lần đến Tây Ninh, hay sang chiến trường Cao Miên, sau năm 1975, định cư ở Hoa Kỳ, tôi trở về thăm Tây Ninh, thăm thánh thất Cao Đài năm 2005. Tây Ninh khác xa ngày xưa, rừng cây trước thánh thất hình như bớt xanh, xung quanh thánh thất có nhiều tiệm ăn, chủ nhân đa số người Bắc sau năm 1975, nghe giọng nói thì biết ngay, đa số là tiệm chay, bên lề đường cũng có tiệm ăn, tiệm ăn nhỏ có vài cái bàn, cái ghế. Ngoài đường, xe chạy cát bụi mịt mù, vậy mà du khách hay người dân địa phương ngồi ăn tỉnh bơ. Tôi gặp nhiều du khách đến từ các quốc gia trên thế giới nói tiếng Pháp, Anh, Tàu, Bồ Đào Nha, v.v.
Khách sạn nhiều tầng mọc ra gần tòa thánh, để cho du khách đến thăm và ở lại. Làng Từ Bi gần tòa thánh gần như biến mất, những ngôi nhà nhỏ với mảnh vườn rộng biến mất, bán cho người ở xa tới để làm quán ăn, nhà trọ.
Hộ pháp Phạm Công Tắc, giáo chủ đạo Cao Đài
Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh được lập thành sau đại lễ Khai Đạo ngày19/11/ 1926. Hộ Pháp Phạm Công Tắc (1890-1959), tự là Ái Dân, biệt hiệu Tây Sơn Đạo, là một trong những lãnh đạo trong việc hình thành, xây dựng, phát triển và kiện toàn hệ thống tôn giáo của đạo Cao Đài. Ngài được chư đạo hữu tại thánh địa Tây Ninh kính trọng vào hàng bậc nhất do đạo đức của ngài và công lao xây dựng nên tòa thánh Tây Ninh. Cha ngài, ông Phạm Công Thiền người gốc Trảng Bàng, Tây Ninh, làm công chức; mẹ ngài là bà La Thị Đường.
Sau khi mẹ qua đời, ông Phạm Công Tắc bắt đầu quan tâm đến cuộc sống tâm linh nhiều hơn. Đầu thập niên 1920, phong trào Thông linh học bắt đầu phổ biến tại Nam Kỳ. Vào khoảng tháng 7/1925, ông cùng với các bạn hữu công chức gốc Tây Ninh cùng thử nghiệm lập bàn tại nhà ông Cao Hoài Sang. Nhóm được cho là tiếp xúc với Thượng Đế qua danh hiệu vào khoảng tháng 7/1925. Đến khoảng tháng 9/1925, nhóm chuyển sang dùng đại ngọc cơ để cầu cơ. Theo các tài liệu đạo Cao Đài, giữa tháng 12 năm đó, nhóm được Thượng Đế xưng danh Cao Đài lần đầu tiên.
Hộ pháp Phạm Công Tắc, giáo chủ đạo Cao Đài
Năm 1941, chánh quyền Pháp đưa Đức Phạm Hộ Pháp và 5 vị chức sắc lưu đày ở hải đảo Madagascar bên Phi Châu. Trong những ngày đi đày lao khổ nơi viễn xứ. Ngài đã được Đức Chí Tôn che chở nên bao tai nạn đều qua khỏi.
Một lần, xe ô tô chở Ngài cùng mấy chục người tù đày, qua chiếc cầu bắc ngang sông. Xe đang đi trên cầu cao, thì cầu gãy, đâm xuống sông, đem theo cả bao nhiêu người, thế mà không ai bị chết hoặc bị thương.
Một lần nữa, chiếc xe chở tù trong đó có Ngài, đang leo lên dốc núi, thì bị thụt lùi, lăn từ trên cao xuống. Chỉ một chút nữa là lao xuống vực thẳm tan tành cả người lẫn xe. May sao, một gốc cây bên bờ vực thẳm đã đón lấy và ngăn lại kịp.
Cả hai lần mọi người trong xe đều sung sướng, chỉ Ngài mà xưng tụng: “Chúng ta thoát chết đều là nhờ ông lão này”. Rồi họ cười ầm ĩ, hồn nhiên vui vẻ và từ đấy ai cũng có cảm tình với Ngài.
Về đến nước vào cuối năm 1946, Đức Hộ Pháp lại phải đối phó với bọn vô thần có chủ trương diệt các tôn giáo. Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc qui Thiên ngày 17/5/1959 tại Chùa Tual Svay Prey (Cao Miên).
Trong nội ô tòa thánh, cũng như trong khắp Châu Thành thánh địa Tây Ninh, từ những đền thờ đến các dinh thự, từ những con đường lớn nhỏ đến các cây cầu, từ những ngôi chợ đến các khu nhà ở trật tự khang trang, từ những ngôi trường dạy trẻ em nhà đạo cho đến các y viện, dưỡng lão, cô nhi viện, v.v., đâu đâu cũng đều thấy có những dấu tích nhắc nhở công nghiệp vĩ đại của Đức Ngài.
Thể xác của Đức Ngài tuy đã mất, hình bóng của Đức Ngài tuy đã khuất, nhưng trong lòng của mỗi tín đồ Cao Đài trong nhiều thế hệ vẫn ghi khắc hình ảnh sống động của Đức Ngài.
Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh
Tín đồ của đạo Cao Đài vẫn mặc áo dài tiếp khách trong tòa thánh, có những quyển sách để trên bàn tặng, ai muốn cúng dường thì để tiền vào trong cái thùng nhỏ, không khí vẫn yên lặng như ngày xưa. Du khách thập phương đến thăm không phân biệt tôn giáo, đặc biệt có sự yên lặng một cách tuyệt đối, người già, người trẻ yên lặng.
Hằng năm, đạo Cao Đài ở Tây Ninh tổ chức nhiều ngày lễ trong đó 2 lễ lớn nhất là Lễ Vía Đức Chí Tôn (diễn ra vào ngày mùng 8 tháng giêng) và Hội Yến Diêu Trì Cung (diễn ra vào rằm tháng 8). Bên cạnh những nghi thức dâng hương, cúng lễ, đọc kinh theo nghi thức của đạo Cao Đài, trong những ngày lễ lớn tại đây còn diễn ra các chương trình biểu diễn nghệ thuật, múa hát, đưa rước như: cộ tiên, múa rồng nhang, lân mã, nghệ thuật múa tứ linh (long, lân, quy, phụng). Những ngày lễ trọng đại này không chỉ quy tụ tín đồ đạo Cao Đài và người dân Tây Ninh, mà còn thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước về dự lễ.
Đến một nơi linh thiêng, không có trộm cướp. Trước tòa thánh, những hàng cây cổ thụ hình như mất đi nhiều. Có nhiều người quỳ trong tòa thánh cầu nguyện, có người quỳ trước các tượng lộ thiên trước tòa thánh.
Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh
Đến nơi linh thiêng, người nào cũng cầu nguyện. Hàng năm, hàng triệu du khách từ khắp nơi trên thế giới đến thánh thất Cao Đài, họ cầu nguyện việc gì không ai biết, nhưng chắc chắn là việc lành, cho gia đình, cho người thân, cho bằng hữu. Ơn Trên sẽ phù hộ cho họ.
Không có sức mạnh ban niềm tin tôn giáo, người nào có niềm tin tôn giáo thì có sức sống mạnh mẽ hơn, sống lạc quan hơn, dù hạnh phúc hay lúc lâm nguy, sự cầu nguyện vẫn đem đến niềm vui, hạnh phúc cho mọi người. Cầu nguyện điều lành, tránh điều dữ, cầu nguyện chân thành hết lòng với trái tim của mình, sự cầu nguyện sẽ linh nghiệm, sẽ được kết quả tốt đẹp.
Orange County, 12/2024
KIỀU MỸ DUYÊN
(kieumyduyen1@yahoo.com)
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
XEM THÊM:
Hộ pháp Phạm Công Tắc
Sinh21 tháng 6, 1890
làng Bình Lập, tỉnh Tân AnMất17 tháng 5, 1959 (68 tuổi)
Phnôm Pênh, CampuchiaNơi an nghỉBửu tháp Đức Hộ pháp, nội ô Tòa Thánh Tây Ninh thuộc thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh
11,303842°B 106,13009°ĐĐài tưởng niệmHộ pháp Đường, Nội ô Tòa Thánh Tây NinhQuốc tịchViệt NamHọc vịThành ChungTrường lớpLycée Chasseloup Laubat Sài GònNhiệm kỳ25/04/1926 - 17/05/1959Tiền nhiệmkhông có - người đầu tiênKế nhiệmkhông có - để trống ngôi vịTôn giáoCao ĐàiCha mẹPhạm Công Thiện, La Thị ĐườngPhạm Công Tắc (1890-1959), tự là Ái Dân, biệt hiệu Tây Sơn Đạo, là một trong những lãnh đạo trong việc hình thành, xây dựng, phát triển và kiện toàn hệ thống tôn giáo của đạo Cao Đài. Ông còn là một nhân sĩ trí thức dấn thân nổi tiếng ở Việt Nam thế kỷ 20.Cuộc đờiThân thếPhạm Công Tắc sinh ngày 21 tháng 6 năm 1890 (tức mùng 5 tháng 5 năm Canh Dần) tại làng Bình Lập, quận Châu Thành, tỉnh Tân An (nay thuộc thành phố Tân An, tỉnh Long An). Ông là người con thứ 7 trong gia đình 8 người con.Cha của ông là ông Phạm Công Thiện, là một công chức chính quyền thuộc địa, quê quán ở làng An Hòa, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Mẹ ông là bà La Thị Đường, cũng là người làng An Hòa.Năm 1896, ông bắt đầu đi học tiểu học tại Tân An, nơi cha ông công tác, nhưng sau đó cha ông nghỉ việc, đưa cả gia đình về nguyên quán. Ông được rửa tội tại nhà thờ Tây Ninh vào năm 1900.[1] Hai năm sau, cha ông qua đời.[2] Dù gia cảnh rất khó khăn, năm 1906, Phạm Công Tắc vẫn tiếp tục theo học ở trường Chasseloup-Laubat tại Sài Gòn.[3] Năm 1907, ông đậu bằng Thành chung.[2]Hoạt động xã hộiThời gian học trung học, Phạm Công Tắc tham gia tích cực trong phong trào Đông Du tại Sài Gòn do hai ông Gilbert Trần Chánh Chiếu và Dương Khắc Ninh lãnh đạo. Năm 1908, ông được Hội Minh Tân, một tổ chức con của phong trào Đông Du, chuẩn bị đưa đi nước ngoài; nhưng sau đó, bị bại lộ không đi được. Do bị chính quyền chú ý theo dõi, ông phải bỏ học.Do có trình độ Thành chung, Phạm Công Tắc được nhận vào một hãng buôn làm công. Thời gian này, ông tham gia cộng tác với các báo như Công luận, La Cloche Fêlée (Chuông rè) của Nguyễn An Ninh, La Voix Libre (Tiếng nói tự do), Lục Tỉnh Tân Văn của ông Pierre Jeantet, ông Gilbert Chiếu làm chủ bút... với bút danh Ái Dân. Đây là những tờ báo ít nhiều cổ vũ tinh thần dân tộc nên trở thành những cái gai trong mắt chính quyền thực dân. Sau khi ông Gilbert Chiếu bị bắt, tờ báo đình bản, ông lại về quê.Đến năm 1910, gia đình lâm vào cảnh túng thiếu, nên Phạm Công Tắc phải xin vào làm tại Sở Thương Chánh Sài Gòn. Sau khi có việc làm, ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Nhiều. Ông bà có với nhau 3 người con (1 trai, 2 gái) nhưng người con trai mất sớm khi mới 4 tuổi. Tuy là công chức, nhưng gia cảnh của ông vẫn rất chật vật vì nếp sống thanh bần.Vì là công chức, Phạm Công Tắc được chuyển công tác đi nhiều nơi, đầu tiên là Cái Nhum (Vĩnh Long), Quy Nhơn rồi lại chuyển về Sài Gòn, cuối cùng là chuyển sang Nam Vang (Phnom Penh). Suốt thời gian làm công chức cho chính quyền thuộc địa Pháp, ông chỉ giữ một chức vụ cấp thấp là thư ký sở Thương Chánh.Đạo nghiệp sơ khaiSau khi mẹ qua đời, Phạm Công Tắc bắt đầu quan tâm đến cuộc sống tâm linh nhiều hơn. Đầu thập niên 1920, phong trào Thông linh học (Spiritisme) bắt đầu phổ biến tại Nam Kỳ.[4] Vào khoảng tháng 7 năm 1925, ông cùng với các bạn hữu công chức gốc Tây Ninh là Cao Quỳnh Cư và Cao Hoài Sang cùng thử nghiệm lập bàn tại nhà ông Cao Hoài Sang ở đường Arras.[5] Do các thành viên ban đầu mang họ Cao và họ Phạm, nên còn được gọi là nhóm Cao - Phạm. Nhóm còn có một thành viên nữ là bà Nguyễn Thị Hiếu, vợ ông Cao Quỳnh Cư.Nhóm được cho là tiếp xúc với Thượng đế qua danh hiệu AĂÂ vào khoảng tháng 7 năm 1925.[6] Đến khoảng trung tuần tháng 9 năm 1925, nhóm chuyển sang dùng đại ngọc cơ để cầu cơ. Theo các tài liệu đạo Cao Đài, thì giữa tháng 12 năm đó, nhóm được Thượng đế xưng danh Cao Đài lần đầu tiên.Nhóm này về sau phát triển thêm nhiều người, quan trọng nhất là việc thu nhận thêm Lê Văn Trung, cựu Nghị viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ, người về sau giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển đạo Cao Đài.Xây dựng Hội ThánhVới sự liên hệ của ông Vương Quang Kỳ, giữa các nhóm hầu cơ bắt đầu có sự liên hệ qua lại. Ngày 21 tháng 2 năm 1926 (tức ngày 9 tháng 1 năm Bính Dần, trong một buổi cầu cơ tại nhà ông Kỳ, có mời các nhân vật có danh tiếng của các nhóm cầu cơ cùng đến dự, một bài thơ được lưu truyền là cơ giáng của Thượng đế, trong đó có tên của 13 người, về sau được tín đồ Cao Đài xưng tụng là những tín đồ đầu tiên của đạo, với ông Ngô Văn Chiêu được tôn xưng Anh Cả. Tên ông được xướng ở vị trí thứ 11.Trong một buổi hầu cơ ngày 17 tháng 4[7] năm 1926 (tức 6 tháng 3 năm Bính Dần) tại Từ Lâm Tự, Phạm Công Tắc cùng với các ông Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư và bà Nguyễn Thị Hiếu, đã nhận cơ giáng chuẩn bị đạo phục Giáo tông để phong cho ông Ngô Văn Chiêu.[8] Tuy nhiên, ông Chiêu đã từ chối và trả lại tiền may bộ đạo phục này.[9] từ đó không tham gia vào hoạt động phổ độ nào nữa, mà chỉ tuyển chọn một số ít tín đồ riêng để tu tập theo lối Nội giáo tâm truyền.[10] tách ra thành một hệ phái tu riêng, hình thành hệ phái Cao Đài Chiếu Minh.Việc hình thành Hội Thánh không vì thế mà dừng lại. Từ ngày 22 đến ngày 26 tháng 4 năm 1926, trong các buổi cầu cơ, các tín đồ chủ chốt đã được cơ giáng phong chức phẩm cao cấp để hình thành Hội Thánh, gồm:
- Ông Lê Văn Trung phong Đầu sư Thượng Trung Nhựt.
- Ông Lê Văn Lịch phong Đầu sư Ngọc Lịch Nguyệt.
- Ông Phạm Công Tắc phong Hộ giá Tiên đồng Tá cơ Đạo sĩ
- Ông Cao Quỳnh Cư phong Tiên Hạc Tá cơ Đạo sĩ[11]
- Các ông Trương Hữu Đức và Nguyễn Trung Hậu phong Tiên Hạc Phò cơ Đạo sĩ
- Ông Vương Quang Kỳ phong Tiên Sắc Lang Quân nhậm Thuyết Đạo Giáo sư
- Ông Đoàn Văn Bản phong Tiên Đạo Công Thần nhậm Thuyết Đạo Giáo sư.
Bửu tháp Đức Hộ pháp (nơi đặt kim thân của Hộ pháp Phạm Công Tắc sau khi được đưa về từ Campuchia năm 2006) trong khuôn viên Tòa Thánh Tây NinhNăm 1940, quân Nhật thâm nhập Đông Dương. Để hỗ trợ Chính sách Đại Đông Á, người Nhật đã bí mật khuyến khích và hỗ trợ cho nhiều tổ chức chống Pháp không Cộng sản, với mục đích xây dựng những lực lượng hậu thuẫn về sau này. Trước tình hình phong trào chống thực dân Pháp trong nước Việt Nam nổi lên khắp nơi từ năm 1941, chính quyền Pháp đã đàn áp thẳng tay bằng cách giam giữ tất cả những ai bị tình nghi là chống lại họ. Lúc bấy giờ Cao Đài là một tôn giáo có tổ chức chặt chẽ và phát triển rất nhanh, nên người Pháp rất lấy làm nghi ngại. Sau nhiều lần đe dọa, Pháp vào tận Nội ô Toà Thánh Tây Ninh bắt Phạm Công Tắc và 5 chức sắc khác đày sang đảo Madagascar. Họ cũng thực hiện việc chiếm đóng hầu như tất cả các cơ sở của đạo Cao Đài ở Đông Dương.Mãi sau khi tái chiếm Đông Dương, trước làn sóng phản đối chống Pháp đòi độc lập cho Việt Nam cũng như việc lưu đày Hộ pháp Phạm Công Tắc của tín đồ Cao Đài nên năm 1946, người Pháp trả tự do cho Phạm Công Tắc, đổi lại việc các tín đồ Cao Đài sẽ không tấn công người Pháp. Với quan điểm chống vô thần của Việt Minh, trên danh nghĩa ông đã chấp thuận điều kiện này và từ đó trở lại cầm quyền tôn giáo Cao Đài, thực hiện kiện toàn tất cả các cơ sở tôn giáo này. Nhưng thực tế dưới sự lãnh đạo của ông, tín đồ Cao Đài vẫn tiếp tục chống Pháp lẫn Việt Minh.Xung đột và lưu vongSau khi về nước nắm quyền chấp chính, quyền tự trị của Tòa Thánh Tây Ninh là một trở ngại trong tiến trình Thủ tướngNgô Đình Diệm thâu tóm quyền lực. Tháng Ba năm 1955, lực lượng Cao Đài liên kết với Phật giáo Hòa Hảo, lực lượng Bình Xuyên lập ra Mặt trận Thống nhứt Toàn lực Quốc gia ra tối hậu thư đòi cải tổ chính phủ và chấm dứt sự đàn áp. Phạm Công Tắc là chủ tịch Mặt trận. Chính phủ Quốc gia không nhượng bộ; Lê Văn Viễn ra lệnh tấn công Quân đội Quốc gia nhưng bị đánh bại và truy nã trong khi các thành phần khác trong Mặt trận quay súng quy thuận.[15] Ngày 5 tháng 10 năm 1955, tướng Nguyễn Thành Phương đem quân bản bộ về bao vây Hộ pháp Đường tại Tòa Thánh Tây Ninh.Chiến dịch thanh trừng này có mục đích là loại bỏ những ai không đồng tình với chế độ lúc bấy giờ. Dưới sự đàn áp của chính phủ Diệm, ngày 16 tháng 2 năm 1956, lúc 3 giờ sáng, ông rời Tòa Thánh theo quốc lộ 22 sang Nam Vang (Campuchia) qua ngã Gò Dầu.Phạm Công Tắc tiếp tục hành đạo và phát triển đạo ở ngoại quốc. Tại Nam Vang, ngày 26 tháng 3, ông công bố "Cương lĩnh Hòa Bình Chung Sống", với tiêu chí là: Do Dân; Phục Vụ Dân; Lập Quyền Dân. Ông kêu gọi hai miền Nam và Bắc thi đua nhân nghĩa không để cảnh nồi da xáo thịt diễn tiến... Tuyên bố Hòa bình chung sống của Hộ pháp Phạm Công Tắc là cơ sở của Ban Củng cố hòa bình chung sống (3/1963). Đây là một tổ chức yêu nước và tiến bộ của chức sắc và tín đồ Tòa Thánh Tây Ninh. Ban thật sự đã trở thành tiếng nói chung, khắc phục kịp thời những xung đột, phức tạp về tư tưởng, là trung tâm để hội tụ đông đảo các tầng lớp chức sắc và tín đồ toàn đạo đấu tranh vì hoà bình. Với Đường lối "Hòa bình chung sống" của đạo Cao Đài, đồng bào Cao Đài đã chung sức, chung lòng, luôn đồng hành cùng dân tộc đấu tranh vì lý tưởng "Nước Vinh, Đạo Sáng". Đó cũng là tiền đề vững chắc cho đạo Cao Đài tiếp nối đường hướng "Nước Vinh, Đạo Sáng" trong những thời kỳ tiếp theo.Cũng trong thời gian này Phạm Công Tắc gởi thư cho Hồ Chí Minh, Chủ tịch Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kêu gọi hòa bình với miền Nam nhằm tiến tới thành lập một chính phủ liên hiệp và thống nhất tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gởi điện văn hoan nghênh lời đề nghị của ông. Và Tôn Đức Thắng, lúc bấy giờ là Chủ tịch trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã gởi thư sang Campuchia mời ông ra thăm Hà Nội và tín đồ Cao Đài miền Bắc.Vì tuổi già sức yếu, ông làm một văn thư gởi Hoàng Thân Sihanouk, thỉnh cầu cho ông tạm gởi thi hài nơi đất Campuchia dưới sự bảo vệ của Hoàng gia Campuchia, đồng thời, ông gọi các Chức sắc và bổn đạo tới bên giường bịnh để di chúc:"Bần đạo qui Thiên, tạm gởi thể xác nơi đất Cao Miên một thời gian. Ngày nào nước nhà độc lập thống nhất hoặc thực hiện đúng theo đường lối Hòa bình Trung lập, sẽ di liên đài về Tòa Thánh Tây Ninh."[2]Ông qua đời vào ngày mùng 10 tháng 4 năm Kỷ Hợi (dl ngày 17 tháng 5 năm 1959) hưởng thọ 70 tuổi tại Nam Vang.Năm 2006, Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh đã đưa hài cốt của ông về Tòa Thánh Tây Ninh theo ý nguyện của toàn Đạo và Thánh ý trước khi mất của ông.Hằng năm ngày quy Thiên của ông (ngày 10 tháng 4 năm Kỷ Hợi) được cử hành long trọng và thành kính... nhiều người Việt ở nước ngoài cũng cử hành lễ nầy nơi họ sinh sống và coi đây như là một trong những cột mốc kết hợp để bay về Việt Nam...Đạo nghiệpTrong số mười hai tín đồ đầu tiên của Cao Đài, Phạm Công Tắc là người có sự nghiệp ngoài đời khiêm tốn hơn, nhưng trong Tôn Giáo Cao Đài, ông là một trong những người quan trọng nhất trong việc xây dựng và kiện toàn tổ chức của tôn giáo này. Lập Cơ quan truyền giáo Hải ngoạiĐàn cơ ngày 27 tháng 7 năm 1927, tại Campuchia, Đức Cao Đài ân phong các vị sau đây vào hàng chức sắc:- Giáo Hữu: Thượng Bảy Thanh (Lê Văn Bảy).- Giáo Hữu: Thượng Lắm Thanh (Nguyễn Văn Lắm).- Giáo Hữu: Ngọc Sự Thanh (Võ Văn Sự).- Lễ Sanh: Thượng Chữ Thanh (Đặng Trung Chữ).- Lễ Sanh: Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh).- Lễ Sanh: Thái Của Thanh (Phạm Kim Của).- Nữ Giáo Hữu: Hương Phụng (Bà Batrya Trần Kim Phụng).- Nữ Giáo Hữu: Hương Huê (vợ của Ông Lê Văn Bảy).- Tiếp Đạo: Cao Đức Trọng.Với số chức sắc đầu tiên này, ông thành lập Cơ quan truyền giáo Hải ngoại, thường gọi là Hội Thánh Ngoại Giáo tại Nam Vang, có nhiệm vụ truyền đạo cho người ngoại quốc tại đây gồm: Việt kiều, Hoa kiều, người Pháp và người Campuchia.Cất Tòa Thánh Tây NinhNgày 14 tháng 2 năm 1936, Hộ pháp Phạm Công Tắc, bấy giờ là Chưởng quản Nhị Hữu hình Đài, nắm quyền lãnh đạo Hội Thánh Cao Đài, đã huy động 500 vị Phạm Môn (tiền thân của Cơ quan Phước Thiện) tiếp tục khởi công xây cất Tòa Thánh Tây Ninh. Bên cạnh đó, ông cũng yêu cầu các tín đồ khác quyên góp tiền bạc, vật liệu, lương thực, gởi về Thánh địa để việc xây dựng tạo tác Tòa Thánh không bị gián đoạn.Việc xây dựng được tiến hành liên tục trong hơn 4 năm và hầu như hoàn thành căn bản, chỉ còn phần tạo tác trang trí. Tuy nhiên, ngày 28 tháng 6 năm 1941, chính quyền thực dân Pháp lo ngại trước các hoạt động của đạo Cao Đài, nên đã cho bắt giữ Hộ pháp Phạm Công Tắc, Khai pháp Trần Duy Nghĩa và một số chức sắc cao cấp khác đày đi Madagascar. Họ cũng cho quân lính chiếm đóng chiếm đóng Tòa Thánh làm nhà xe và chỗ ở cho lính Pháp, đuổi các chức sắc và công thợ ra khỏi Tòa Thánh.Mãi đến ngày 30 tháng 8 năm 1946, để tranh thủ thêm đồng minh trong cuộc chiến chống Việt Minh, chính quyền Pháp cho phép Hộ pháp Phạm Công Tắc trở về Tòa Thánh. Sau khi trở về Tòa Thánh, ông đã huy động số thợ trở lại để sửa chữa những chỗ hư hỏng của Tòa Thánh do lính Pháp gây ra, rồi tiếp tục tạo tác cho đến ngày 24 tháng 1 năm 1947 thì Tòa Thánh được hoàn thành. Ngày 27 tháng 1, Hộ pháp Phạm Công Tắc làm lễ Trấn Thần Tòa Thánh. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh, mãi 8 năm sau, Đại lễ Khánh thành Tòa Thánh và các cơ sở Đạo trong vùng Thánh địa mới được tổ chức vào ngày 1 tháng 2 năm 1955.[16]Lập các phẩm Chức sắc HTĐ dưới Thập nhị Thời QuânNăm 1935, ông lập ra 7 phẩm Chức sắc dưới Thập nhị Thời Quân, để làm nhân viên giúp cho các vị Thời Quân hành quyền tư pháp của Hiệp Thiên Đài.Bảy phẩm chức sắc đó là:1. Tiếp Dẫn Đạo Nhơn.2. Chưởng Ấn.3. Cải Trạng.4. Giám Đạo.5. Thừa Sử.6. Truyền Trạng.7. Sĩ Tải.Dưới phẩm Sĩ Tải, ông lập một phẩm thứ 8 nữa là Luật Sự.Lập Cơ quan Phước ThiệnNgày 10 tháng 12-năm 1938, ông cùng Giáo Tông Lý Thái Bạch ban hành Đạo Nghị Định số 48/PT thành lập Cơ quan Phước Thiện với 12 phẩm cấp chức sắc gọi là Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng. Cơ quan Phước Thiện này là cơ quan tạo lập các cơ sở kinh tế và làm ra của cải vật chất cho đạo Cao Đài nhằm hỗ trợ các việc sinh hoạt trong đạo và cứu trợ từ thiện xã hội đối với trẻ em mồ côi, người già cả neo đơn. Và tổ chức các cuộc cứu trợ nạn nhân bị chiến tranh, thiên tai. Xây dựng 3 Cung 3 ĐộngÔng còn cho xây dựng 3 Cung 3 Động, làm Tịnh thất truyền Bí pháp luyện đạo cho các vị tín đồ tu chơn.Năm 1947, ông cho xây cất Trí Huệ Cung - Thiên Hỷ động làm tịnh thất cho nữ phái và hoàn thành ngày 22 tháng 1 năm 1951.Ngày 29 tháng 12 năm 1954, ông ban hành Huấn lịnh số 285/VP-HP, xây dựng Trí Giác cung - Địa Linh động làm tịnh thất cho cả nam và nữ.[17]Ngày 23 tháng 11 năm 1954, ông đích thân lên núi Bà Đen để định chỗ xây dựng cơ sở tịnh thất lấy tên là Vạn Pháp Cung - Nhơn Hòa động dùng làm tịnh thất cho nam phái. Đến tháng 3 năm 1955, chính thức khởi công xây dựng.[18]Cất Chợ Long HoaKể từ năm 1947 trở về sau, chiến tranh giành độc lập của Việt Minh chống lại quân đội Pháp lan rộng khắp nơi, khiến cho các tín đồ Cao Đài từ khắp các nơi đổ dồn về vùng Thánh địa Tây Ninh lập nghiệp càng lúc càng đông. Nên ngày 12 tháng 11 năm Nhâm Thìn (dl 28 tháng 12 năm 1952), ông cho khởi công xây dựng chợ Long Hoa theo vị trí và bản vẽ của ông để tín đồ Cao Đài có nơi buôn bán làm ăn. Ngày nay, đây là ngôi chợ lớn nhất của tỉnh Tây Ninh và được dổi tên lại là Trung tâm thương mại Long Hoa. Chợ nằm tại Thị xã Hòa Thành, cách Tòa Thánh Tây Ninh khoảng 1 km.[19]Một giáo sĩ nhiệt thànhNgoài nhiệm vụ lãnh đạo Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh, ông còn là một nhà tu hành. Đối với các tín đồ Cao Đài, ông nhân danh Thượng đế rao giảng chân lý trong nhân gian. Chưa kể đến những bài diễn văn trong các buổi lễ tôn giáo, những bài giảng đạo của ông về Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống và Bí Pháp đã được Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh ghi lại và phát hành. Tín đồ Cao Đài xem tài liệu này là rất quan trọng bởi vì nội dung của những bài thuyết giảng này chứa đựng triết lý và các phương cách tu tập chính thức rất đặc trưng của Đạo Cao Đài.Một nhà quy hoạch xây dựngChính ông là người khởi công xây dựng Tòa Thánh vào năm 1936 và tổ chức lễ khánh thành Tòa Thánh Tây Ninh vào năm 1955. Toà Thánh là cơ ngơi quan trọng nhất của tôn giáo Cao Đài (Thể pháp quan trọng nhất).Thiếu thể pháp này, đạo Cao Đài không thể nào phát triển thành một tôn giáo có qui củ được.Điều quan trọng là toàn bộ công thức và phương án xây dựng một thế giới mới "trong Bác ái và Công Bằng" đã được ông ký gởi vào các công trình kiến trúc để làm mô hình cho phần văn bút của ông...Triết lý của Đạo Cao Đài do Thượng đế mà có.Triết học của Đạo Cao Đài do Hộ pháp Phạm Công Tắc mà nên hình.Ngoài ra, nhiều cơ sở vật chất khác cũng được xây dựng trong thời gian ông cầm quyền Giáo chủ Cao Đài, như: Trí Huệ Cung, Trí Giác Cung, chợ Long Hoa, Báo Ân Từ (Điện thờ Phật Mẫu tạm), v.v...Cũng còn một số cơ sở khác đã được quy hoạch sẵn cho hậu tấn thực thi.Đến nay những cơ sở này vẫn chưa được khởi công xây dựng. Trong số này có thể kể ra Vạn Pháp Cung, Điện thờ Phật Mẫu chính thức; sân bay Trí Huệ Cung. Và chính ông đã lập ra Tịnh thất đầu tiên của tôn giáo Cao Đài là Trí Huệ Cung.Ông nắm quyền Chí Tôn tại thế để ban hành: Luật Lệ chung các Hội; Nội Luật Hội Nhơn Sanh; Nội Luật Hội Thánh; trong 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh. (Không có ba luật nầy thì không có quyền Vạn Linh trong Đạo Cao Đài). Đặc biệt là Đạo Luật Mậu Dần "1938" đề lập ra tứ trụ của hành chính Tôn giáo Cao Đài là: Hành Chánh, Phước Thiện, Phổ Tế và Toà Đạo.Thể pháp Tôn giáo "như ăn chay - thực hành nhân nghĩa" đã được ông đưa vào xã hội và hoà tan vào lòng cư dân Thánh địa Cao Đài tạo nên nết sống văn hóa trong xã hội và con người Tây Ninh nói riêng và toàn thể tín đồ Cao Đài trên thế giới nói chung cho đến ngày hôm nay.Dấu ấn rõ nhất là:- Bố trí hạ tầng ở Thánh Địa Tây Ninh. (Tỷ lệ đường giao thông cao nhất Việt Nam hiện nay)- Hai thực tế được kiểm chứng chính xác là:
- Hiện nay Thánh Địa là nơi có nhiều người làm việc nghĩa " Tự nguyện giúp đỡ người khác mà không nhận tiền" không nơi nào có được " Tang lễ được cử hành long trọng và hoàn toàn miễn phí....."
- Hiện nay là nơi có tỉ lệ người ăn chay cao nhất Việt Nam và cả thế giới...
- Phương Tu Đại Đạo – với bút danh Ái Dân – 1928.
- Thiên Thai Kiến Diện – 1927.
- Phương Luyện Kỷ đặng vào con đường thứ ba Đại Đạo – 1947.
- Mười bài kinh Thế Đạo.