Nồi chè của tuớng Lê Minh Đảo

25 Tháng Tư 20188:22 CH(Xem: 17267)

VĂN HÓA ONLINE - CỘNG ĐỒNG - THỨ TƯ 25 APRIL 2018


image045

Tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 VNCH, tay đàn tay súng.


Nồi chè của Tuớng Lê Minh Đảo


Khôi An


image046

Cần Thơ năm 1972. Photo: Richard Stayner.


Năm nay, Fathers Day của nước Mỹ là 19 tháng 6, trùng với Ngày Quân Lực VNCH trước 1975, xin mời đọc bài mới của Khôi An, chuyện ông Tướng mà cũng là chuyện Người Cha. Tác giả từng phải rời bố mẹ vượt biển năm 1983 khi còn tuổi học trò và là một kỹ sư có hơn hai mươi năm làm việc cho Intel tại miền Bắc California. Dự Viết Về Nước Mỹ từ 2008, cô đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2013. Sang năm 2015, thêm giải Việt Bút Trùng Quang, dành cho những nỗ lực bảo vệ, phát huy văn hóa Việt trên đất Mỹ.


Không hiểu chị tôi đã nghe tin về ông bằng cách nào.


Thời đó, đầu thập niên tám mươi, mọi phương tiện truyền thông đều thuộc về nhà nước Cộng Sản, quanh năm suốt tháng báo chỉ đăng tin “nước ta đang trong thời kỳ quá độ…” Kiểu dùng chữ như vậy mọi người phải chịu đựng mãi nên đỡ thấy quái đản. Người đọc cứ tự điền vào chỗ trống thành “nghèo quá độ”, “đói quá độ” hay “láo quá độ”… tùy theo câu.


Vậy mà, một buổi tối, đột nhiên chị tôi nói “Em có biết Tướng Lê Minh Đảo không? Ông tướng đánh trận Xuân Lộc đó. Nghe nói ổng mới chết trong tù rồi! Tội quá, ổng còn trẻ lắm!"


Trước ngày miền Nam thất thủ tôi không biết ông Lê Minh Đảo. Sau đó, tôi có nghe loáng thoáng người lớn rỉ tai nhau về trận đánh ác liệt bảo vệ ngõ vào Sài Gòn trong những ngày đầu tháng Tư, 1975 tại Xuân Lộc. Tôi cảm phục những người chiến đấu đến cùng, nhưng điều đó sớm chìm vào những hỗn độn của cuộc đổi đời. Vả lại tôi còn nhỏ quá, chẳng biết nghĩ gì hơn.


Cũng như thế, tối hôm đó, sau khi nghe chị tôi nói, chúng tôi chỉ biết nhìn nhau trong niềm xót thương lặng lẽ.


Một thời gian sau, tôi lại nghe một người bạn nói “Ông Lê Minh Đảo còn sống. Ổng chỉ bị mù thôi!"


Ở trong tù mà bị mù thì chắc còn khổ hơn chết. Tôi thở dài – trẻ con Việt Nam sớm biết thở dài – rồi thầm đọc một lời cầu nguyện. Cho ông và những người tù chính trị đang bị đọa đày.


Đến năm 1993, khi đang ở Mỹ, nghe tin Tướng Lê đã sang theo diện HO và mắt vẫn sáng, tôi ngạc nhiên và vui lắm. Mừng cho ông cuối cùng cũng có những ngày bình an sau gần hai thập niên tù ngục.


Nhiều năm sau, khi internet cung cấp mọi tin tức mà ngày trước không dễ kiếm, tôi đã lên mạng tìm xem mặt Tướng Lê và nghe ông nói. Tôi muốn biết về ông. Không phải qua những lời kể, mà bằng cảm nhận của chính tôi .


Và tôi đã gặp được đoạn phim buổi nói chuyện của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo với Việt Dzũng. Buổi phỏng vấn khá dài nhưng tôi nhớ nhất là khi ông nói về sự hy sinh của người lính. Giọng ông hơi lạc đi khi nhắc đến tình bạn của hai người lính trẻ và sự đơn sơ, không hận thù trước bờ sinh tử của họ.


Phút nghẹn ngào của Tướng Lê đã làm tôi bồi hồi. Tôi ngỡ tim ông đã cứng và nước mắt ông đã kiệt sau mấy chục năm ngang dọc trên chiến trường và mười bảy năm trong tù. Tôi ngỡ ông sẽ nói nhiều về những chiến công và những đóng góp của ông trong hai mươi năm gìn giữ miền Nam. Nhưng ông nói về các điều khác, như cái chết của người lính trẻ và sự hy sinh của chiến binh. Hơn hai mươi năm đã qua, ông vẫn tự trách mình, môi ông run run khi nói “…chúng tôi cũng không lo được cho họ một cách đầy đủ..."


Có lẽ chưa bao giờ ông ngưng buồn về chuyện đó. Tài làm tướng của ông đã làm tôi phục. Nhưng vết thương mấy chục năm trong lòng ông mà tôi vừa chứng kiến đã làm tôi quý mến ông.


Đầu tháng Tư, 2015 tôi viết lại chuyện của những sinh viên Việt Nam du học ở Mỹ bốn mươi năm trước. Họ tụ tập tại một chung cư cũ kỹ ở Houston, khắc khoải nhìn về miền Nam đang vuột mất. Người sinh viên năm xưa cứ nhắc đi nhắc lại niềm hy vọng bùng lên khi đám người Việt trẻ theo dõi sự anh dũng của những chiến sĩ Xuân Lộc, dù bị dồn tới chân tường.


Vì thế, tôi tìm xem lại những khúc phim của tháng Tư xưa. Tôi thấy lại khói lửa điêu tàn. Tôi gặp lại các chiến sĩ anh hùng. Và Tướng Lê Minh Đảo, mắt nảy lửa, nghiến răng thề quyết chiến.


Rồi tôi giật mình, nhận ra rằng những người trai dũng mãnh ấy nay đã già, và tôi cũng đang già. Mai này khi chúng tôi ra đi, đàn con gốc Việt còn biết gì về quê cha đất tổ? Phải chăng điều đó tùy thuộc vào những gì chúng tôi làm hôm nay?


Thế hệ trẻ cần nghe những điều thật từ những người thật. Sẽ tốt biết bao nếu họ được gặp gỡ những nhân vật lịch sử như Tướng Lê Minh Đảo.


Thế là tôi lần mò đi tìm Tướng Lê.


Tôi không có mối quen biết xa gần nào với ông, cũng chẳng có chức tước ở bất cứ hội đoàn nào. Vậy mà tôi thấy chuyện mời ông đến vùng Thung Lũng Điện Tử thật tự nhiên, nhẹ nhàng. Có lẽ tôi linh cảm rằng vị tướng, người sau hơn hai mươi năm vẫn khóc cho lính, rất quan tâm tới lớp trẻ.


Sau hai tuần hỏi thăm nhiều người, cuối cùng tôi may mắn có được sự giúp đỡ tận tình của một người chị làm báo. Tôi được một cái hẹn nói chuyện với Tướng Lê. Mười giờ sáng, một ngày đầu tháng Tư, 2015.


Gần tới giờ hẹn, tôi thấy hơi hồi hộp. Thật tình tôi sẽ buồn chút thôi nếu Tướng Lê từ chối sang California nói chuyện. Nhưng tôi sẽ buồn nhiều nếu thực tế quá khác với những cảm nghĩ ở trong lòng.


Ông đến San Jose chiều 27 tháng Tư, 2015 trên chuyến bay từ Arizona. Từ xa, tôi thấy ông trong chiếc áo sơ mi kiểu Hawaii màu vàng nhạt có hoa xám, đang dáo dác nhìn quanh.


"Thưa Bác! Con là Kh.A".


Ông cười. Chúng tôi bắt tay nhau. Giản dị như đã quen từ trước. Ông cho biết đã lên máy bay ngay sau khi dự buổi lễ kỷ niệm bốn mươi năm miền Nam bị cưỡng chiếm với cộng đồng Việt-Mỹ ở Pheonix, Arizona.


Tôi hỏi ông có mệt không, ông nói “Không sao đâu. Bác giờ như một kho sách cũ, chỉ lo không đủ giờ để trao lại kiến thức cho những người đi sau..."


Tối hôm đó, chúng tôi mời ông ghé chơi nhà một người bạn. Khi bước vào nhà, trên salon có một cây đàn guitar kiểu mới, chỉ có khung sắt mà không có thùng đàn. Tôi thấy mắt ông ngời lên một sự thích thú gần như trẻ thơ. Ông bước nhanh tới, nâng cây đàn lạ mắt, vuốt nhẹ lên những sợi dây.


Khi chúng tôi mời ông đánh một bài, ông xòe bàn tay ra nhìn, cười nhẹ rồi nói: Ở tù bị thương, hư tay rồi. Giờ lại già nữa, đánh kém lắm.


Chúng tôi không nài ép, chỉ lẳng lặng nhìn ông vừa nói chuyện vừa lơ đãng lướt tay trên cần đàn. Một lúc sau, như hứng khởi, ông hát: “Trùng dương dâng sóng, biển khơi như thét gào, cuốn đi cánh hoa đào dạt trôi nơi nao..."


Bài hát đó ông sáng tác trong tù, ngày nghe tin người bạn cùng trại mất hết vợ con trên đường vượt biển.


"Còn sống tôi còn khóc, tôi còn thương quê hương tôi..." (*)


Giọng ông nhẹ và buồn. Tôi nghe, và nghĩ rằng ông đang nói những điều tận đáy lòng.


Sáng 29 tháng Tư, Tướng Lê bắt tay vào chuẩn bị cho buổi nói chuyện ngay sau ly cà phê sớm. Ông sắp xếp ý nghĩ, soạn phần trả lời cho các câu hỏi các sinh viên đã gởi đến, và ghi xuống một loạt các quyển sách nói về chiến tranh Việt Nam để giới thiệu đến các sinh viên.


Mãi tới giờ ăn trưa tôi mới có dịp nói chuyện với ông. Vì có quá nhiều điều muốn hỏi, tôi buột miệng:


Bác ơi, có bao giờ Bác hối hận đã làm cho các con Bác kẹt lại với Cộng Sản sau ngày mất miền Nam không? Các con Bác có bao giờ trách Bác không?


Nói xong, tôi hơi bối rối vì đã hỏi một câu khá nặng nề trong lúc ông đang nghỉ ngợi??


Nhưng ông trả lời ngay:


- Đó là một quyết định rất đau lòng, nhưng Bác chưa bao giờ hối hận. Bác ra lệnh cho anh em binh sĩ quyết đánh, gia đình của họ đều ở lại, có lẽ nào Bác lo cho con Bác ra đi? Bác có thể thu xếp cho gia đình mình, nhưng làm sao thu xếp được cho mọi gia đình của những người đang tin vào Bác? Nếu Bác cho vợ con đi trước, lính của Bác biết là giờ chót Bác có thể lên máy bay đi bất cứ lúc nào? Như vậy họ còn tin tưởng để đánh hay không? Như vậy Bác có công bằng với họ hay không? Bác chấp nhận định mệnh của Bác và gia đình, nếu có phải chết thì chết cùng nhau. Bác muốn đối xử công bằng để sau này con bác không phải xấu hổ với con em của những người từng nghe lời Bác mà liều chết. Bác muốn con bác sau này không phải nhìn Bác mà nghĩ ông già mình ngày xưa từng gạt lính.


Trầm ngâm vài giây, rồi ông tiếp:


- Năm 1979, lúc Bác đang bị Cộng Sản đày đọa, nghe tin gia đình đi thoát hết sau năm lần vượt biên bị tù, Bác trút được gánh nặng khủng khiếp trong lòng, Bác tạ ơn trời đã cho Bác ân huệ được lương tâm yên ổn, được trọn vẹn mọi bề. Từ đó, Bác không còn phải lo lắng, đau khổ cho số phận của vợ con trong nanh vuốt của kẻ thù nữa. Bác không sợ kẻ thù dùng các con thơ để khống chế mình nữa. Bác được tự do. Còn các con Bác, tụi nó cũng hiểu và không trách Bác. Trong bốn năm kẹt lại, tụi nó đã học được rất nhiều. Những kinh nghiệm sống đó làm cho chúng biết thương người, biết khiêm nhường, biết quý những điều tưởng như là tầm thường. Các con của Bác có thể tự hào rằng mình đã hiểu biết về Cộng Sản và đã vượt thoát khỏi ngục tù của họ. Đó là một tài sản mà Bác nghĩ các con Bác nên hãnh diện đã có được.


Tôi uống một ngụm trà, nuốt xuống cái nghèn nghẹn ở cổ. Tôi nghĩ, trước khi tử chiến ở Xuân Lộc, nếu ông lo cho gia đình đi thì đó cũng là chuyện thường tình. Không ai trách được ông. Nhưng Tướng Lê không phải là người làm những chuyện thường tình...


Thời vừa bị chiếm, mạng sống của người miền Nam rất nhỏ, thêm dịch bệnh hoành hành làm trẻ con chết rất nhiều. Nếu chỉ một trong chín người con ông có mệnh hệ nào, nỗi dằn vặt sẽ ám ảnh ông suốt đời. Nhưng Thượng Đế đã gìn giữ gia đình ông vẹn toàn. Cám ơn Thượng Đế, Tướng Lê cần và xứng đáng với ơn huệ của ngài.


Hôm sau, ngày 30 tháng 4, 2015, ông và người thông dịch miệt mài chuẩn bị cho buổi nói chuyện lúc 6 giờ chiều. Trưa đến, tôi nhắc ông đi ăn nhưng ông dùng dằng mãi vẫn chưa đứng lên được. vậy tôi đành khuân về mấy ổ bánh mì thịt nguội. Thấy ông gặm bánh mì, uống beer và cười nói vui vẻ, hài lòng vì buổi nói chuyện được chuẩn bị chu đáo.


Cuôc gặp gỡ với sinh viên diễn ra thành công và cảm động. Tướng Lê đã nhắn nhủ lớp trẻ bằng những điều ông đúc kết suốt nửa cuộc đời trong chiến tranh cộng với mười bảy năm trong tù ngục. Những chia sẻ của ông thiết tha, sâu sắc nhưng cũng rất thực tế, phù hợp với tâm hồn và đời sống của giới trẻ.


Buổi họp kết thúc khá trễ nên chúng tôi chỉ ghé tiệm kem ăn tráng miệng rồi về. Mãi đến đêm, tôi mới chợt nhận ra rằng bữa ăn “đàng hoàng” nhất của Tướng Lê ngày hôm đó là ổ bánh mì. Vì ông đã không đụng đến đĩa thức ăn do các em sinh viên mời lúc chiều, ông nói muốn tập trung để nói chuyện với các em.


"Con gián làm mồi câu tốt lắm, con à".


Buổi chuyện trò của tôi và Tướng Lê ngày hôm sau bắt đầu bằng câu chuyện đời thường như thế.


Ông kể thời ông ở Cần Thơ, ông thường bắt gián ở đằng sau một tiệm ăn ở gần nhà rồi đem ra bến Ninh Kiều câu cá.


Biết rằng lúc đó ông đã lên tới cấp Tá, tôi hỏi:


- Chắc Bác câu cá cho vui hả Bác?


- Câu cá về ăn chớ!


Bác đông con, lương của Bác thì khá so với lính, nhưng chẳng dư dả gì đâu, con à! Lính mình hồi đó cực lắm con à, một tháng lương mua được một tạ gạo, còn lương Bác cũng chỉ tạm đủ lo cho vợ con. Hoàn cảnh lính và những hy sinh của gia đình lính thì không nói sao cho xiết, con à. Gần một triệu người đã chết và bị thương trong cuộc chiến, còn số người chịu mất mát sau lưng họ thì không biết đếm bằng cách nào! Bác cứ nghĩ con người ta ai cũng bằng xương bằng thịt, nếu Bác chết trận, mười người trong gia đình Bác đau đớn bao nhiêu thì những cái chết trong gia đình lính cũng đau bấy nhiêu. Hồi ở Chương Thiện, có một người lính đi phục kích, vợ con bị địch câu pháo trúng vô nhà, chết hết. Anh ta về, ngồi gục mặt trước đống gạch nát, Bác đứng đó mà chỉ biết đặt tay lên vai anh ta, không tìm được lời nào an ủi. Vậy mà hai bữa sau, anh ta trở lại đơn vị, tiếp tục đánh giặc.


Cái nhíu mày của ông làm tôi nghĩ ruột ông đang thắt lại, nên tôi chuyển qua đề tài khác:


- Thời Bác ở trong quân đội, di chuyển nhiều nơi, cả nhà đều đi theo hả Bác?


Nụ cười nhẹ làm những vết nhăn trên trán ông dãn ra:


- Ờ! Bác bận rộn quá nên đi đâu Bác cũng cố gắng đem gia đình theo để được ở gần càng nhiều càng tốt. Khi nào có dịp nghỉ, Bác dắt vợ con đi chơi, nhưng sau này, Bác ở đóng quân ở Long Bình thì tụi nhỏ đi học ở Sài Gòn, cuối tuần nếu Bác không đi hành quân thì mới được gặp. Có một lần Bác dắt tụi nhỏ đi coi chiếu bóng về, tụi nó than đói bụng, ở tỉnh lỵ đâu có hàng quán ban đêm, Bác lại không muốn sai lính nên tự nấu chè cho tụi nó ăn. Nấu nước sôi, đập vô một củ gừng, quậy đường cát, rồi xé bánh tráng bỏ vô.... Bánh tráng mà mình hay ăn đồ cuốn đó. Bánh tráng coi mặn mặn vậy mà nấu chè ngon lắm! Bữa nào con làm thử đi! Ông vừa nói vừa gật đầu để thêm phần… thuyết phục.


Tôi tròn mắt nhìn ông. Chỉ là một kỷ niệm vui, không màu mè, bóng bẩy, nhưng ông làm tôi cảm động lẫn ngạc nhiên. Một vị Tư Lệnh tự nấu chè cho con ăn khuya? Nồi chè mà tôi không cần thử cũng biết là không thể ngon. Nhưng nó làm tôi thương người cha ở trong ông, và tự hào vì quân lực VNCH đã có một vị chỉ huy như ông. Ôi, nồi chè của ông Tướng!


Càng nói chuyện với ông, tôi càng thấy ông rất “không thuờng tình”. Ông không dè dặt, thận trọng như thường thấy ở những người từng chứng kiến nhiều mưu mô, tráo trở.


Ông không có cái trầm ngâm, chán chường của một người nếm quá nhiều đau thương. Ông nhiệt tình, hăng hái, và thật. Như thể cuộc đời ông chưa từng bị dập vùi, như thể ông còn rất trẻ và còn tin tưởng rất nhiều vào con người. Và, ông hoàn toàn không có cái xa cách của người xem mình là quan trọng. Vì thế, tôi đã hỏi ông một câu mà trước khi gặp ông tôi không nghĩ là mình dám hỏi:


- Bác ơi, ngày 30 tháng Tư 1975, sau khi miền Nam thất thủ, Bác có bao giờ nghĩ đến chuyện tự sát hay không?


- Lúc đó, mỗi người có một quyết định riêng, không ai đúng ai sai. Riêng Bác, Bác không có ý định tự tử. Các con Bác đã mất quá nhiều, Bác không muốn chúng phải mất cha. Nếu bị giặc Cộng giết, Bác chấp nhận nhưng Bác không tự mình làm điều đó với các con. Hơn nữa, Bác không có cái uất ức, đau khổ của một bại tướng vì Bác chưa bao giờ nghĩ là mình thua. Mình chỉ tạm thời khó khăn vì những thế lực quốc tế đẩy mình tới đó, nhưng Bác muốn sống để xem mọi sự xoay vần tới đâu.


Nếu chỉ được dùng một từ để diễn tả Tướng Lê, tôi sẽ chọn “lãng mạn". Những quyết định cực kỳ cứng rắn, những hành động hết sức can đảm của ông đều bắt nguồn từ những tình cảm sâu xa. Chỉ có người rất lãng mạn mới đủ tin yêu để làm những điều phi thường như ông đã làm. Ông để vợ con cùng ở lại đương đầu với Cộng quân là vì ông yêu sự “công bằng” mà ông đã nhắc đến mấy lần trong câu trả lời ngắn. Ông tử chiến vì ông hết lòng tin vào sứ mạng gìn giữ miền Nam. Ông không sợ chết vì ông không muốn phụ lòng những người lính đã nằm xuống và những người lính đã dựa vào ông mà đứng lên từ những căn nhà cháy ra tro của họ. Cống hiến của ông cho đời giống như những viên kim cương, tuyệt sáng và tuyệt cứng. Nhưng chúng đã được hun đúc từ phần lõi là những tình cảm tinh tuyền, và những giọt nước mắt. Sẽ không có kim cương nếu không có phần lõi đó.


Lịch sử Việt Nam có Tướng Phạm Ngũ Lão gạt nước mắt, chia tay mẹ già đi đánh giặc. Có Tướng Trần Khánh Giư bỏ gánh than, từ giã đời ở ẩn để trở về cứu nước. Có biết bao chuyện nhờ dân gian ghi lại mà ngày nay chúng ta được biết. Cho nên, tôi muốn ghi lại nồi chè bánh tráng của Tướng Lê Minh Đảo. Ghi lại lúc ông chấp nhận để các con ông cùng chung số phận với gia đình lính. Ghi lại lòng thương yêu và quý trọng vô bờ của ông với binh sĩ và vợ con của họ. Về lời ông nói, đùa mà rất thật “nếu trời cho sống đến hơn trăm tuổi, tôi vẫn muốn cống hiến thời giờ và sức lực cho Việt Nam tới phút cuối.


Năm nay Tướng Lê đã tám mươi ba. Vinh, nhục, yêu, ghét, thăng hoa, đày đọa … ông đều đã trải. Vì thế, tôi viết bài này không phải cho ông, mà để lưu lại vài mẩu chuyện về Ông Tướng Lãng Mạn cho mai sau để góp một chút tin yêu bởi vì làm người Việt Nam rất buồn, để cho chính tôi nhớ gương của Tướng Lê, lạc quan trong khó khăn và cố gắng làm những điều tốt đẹp nhất trong khả năng của mình, hầu mong mai sau con cháu không phải ngần ngại nhận mình là Việt.


Khôi An


(*) Lưu Đày – Nhạc và lời của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo.


https://www.youtube.com/watch?v=IwvAHxa25Ek


Lưu Đày -Tác Giả: Lê Minh Đảo - Ca sĩ : Lê Tâm- Video by UL


image047

Tướng Lê Minh Đảo và cây đàn Guitar.

11 Tháng Tám 2013(Xem: 19350)
Ông Trương Tấn Sang tới Hoa Kỳ gặp những cuộc biểu tình lớn. Hàng trăm người Mỹ gốc Việt đã tụ tập trước Toà Bạch Ốc để đòi hỏi trả tự do cho những nhà đối kháng như luật sư Lê Quốc Quân, nhạc sĩ Việt Khang...
11 Tháng Tám 2013(Xem: 20745)
Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn chỉ trích cách giật tít của BBC Tiếng Việt và nói nó 'không đúng với mục đích trả lời phỏng vấn' của ông trên Phố Bolsa TV.
11 Tháng Tám 2013(Xem: 20742)
Nhiều cư dân mạng tức giận khi thứ trưởng ngoại giao nói Việt kiều đi biểu tình vì vẫn còn hận thù và muốn có tiền thù lao.
28 Tháng Bảy 2013(Xem: 18186)
Một thanh niên biểu tình cầm biểu ngữ với hàng chữ kêu gọi Chủ tịch Sang hãy hành động để đánh đuổi Trung Quốc xâm lược ra khỏi Việt Nam.
28 Tháng Bảy 2013(Xem: 17653)
Tại Tòa Bạch Ốc hôm 25/7, Tổng thống Barack Obama và Chủ tịch Trương Tấn Sang đánh giá cao vai trò của Việt Kiều tại Mỹ trong mối quan hệ song phương.
28 Tháng Bảy 2013(Xem: 22807)
Tuyên bố chung, được đăng trên trang web Nhà Trắng, nói ông Obama và Trương Tấn Sang "quyết định xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ để đem lại khuôn khổ tổng thể cho việc thúc đẩy quan hệ".
03 Tháng Bảy 2013(Xem: 20104)
Tướng Đính: “…Có lẽ, ai cũng đều thất bại và phạm tội đối với lịch sử Việt Nam, kể cả Hoa Kỳ là nước đồng minh…”, Lời TT Diệm & Cố vấn Nhu: “...Vì thế Việt Nam có thể là một chiến trường tương lai, để Mỹ ngăn chận sự bành trướng của Bắc Kinh…”
26 Tháng Sáu 2013(Xem: 18387)
Vâng! Sừng thỏ vốn không có, trăng đáy nước như có mà cũng là không nên không thể dùng sừng thỏ khều trăng đáy nước được. Lông rùa vốn không có, gió trên đầu cây như có mà cũng là không nên không thể dùng lông rùa để buộc gió trên đầu ngọn cây được.
26 Tháng Sáu 2013(Xem: 17860)
Bài nói chuyện tại chùa Bát Nhã, CA, USA, ngày 23 tháng 06 năm 2013 nhân ngày lễ 50 năm cuộc tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức.)
26 Tháng Sáu 2013(Xem: 18298)
Trước hết, tôi xin cám ơn Ban Tổ Chức đã cho tôi cơ hội phát biểu hôm nay, nhân dịp kỷ niệm 50 năm Bồ Tát Thích Quảng Đức “Vị Pháp Thiêu Thân” vào ngày 11 tháng 6 năm 1963. Tôi xin nói lên những lời chân thật qua tâm sự chắt chiu ngày đó, đứng ở vị trí một quân nhân Phật tử nhìn biến cố “Phật Giáo - 63” trên lập trường Dân Tộc như một chứng nhân thời đại.
26 Tháng Sáu 2013(Xem: 17180)
Trước hết tôi xin cám ơn Tiến sĩ Huỳnh Tấn Lê và Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ đã cho tôi một cơ hội thuận tiện để có đôi lời trình bày trước một cử tọa gồm những nhân sĩ trí thức Phật giáo đã từng có một quá khứ tu tập, nghiên cứu, đã từng có những nỗ lực phổ biến Phật học, đã từng trình bày những luận cứ uyên bác trong những tác phẩm, những bài lai cảo viết về Phật giáo cũng như về một biến chuyển cách đây nửa thế kỷ: ngày Hòa Thượng Thích Quảng Đức dùng ngọn lửa của trái tim mình, biến thân xác Ngài thành một ngọn đuốc để xua hết những bóng tối của cường quyền đang trùm phủ lên Phật giáo Việt Nam mùa Pháp nạn 1963.
26 Tháng Sáu 2013(Xem: 16746)
Để cúng dường và tưởng niệm 50 năm ngày Bồ Tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân và để góp phần soi sáng lịch sử về biến cố pháp nạn năm 1963, con xin trích thuật một số đoạn từ các tài liệu mật của Bộ Ngoại Giao, Bộ Quốc Phòng, và Cơ Quan Tình Báo Trung Ương CIA của Hoa Kỳ đã được bạch hóa vài năm gần đây và được Cư Sĩ Nguyên Giác dịch ra tiếng Việt. Các bản dịch của cư sĩ Nguyên Giác đã được nhiều trang web Phật Giáo Việt Nam đăng tải như trang nhà Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức, v.v…
26 Tháng Sáu 2013(Xem: 19633)
Đại nguyện của Bồ Tát Thích Quảng Đức đã thắp sáng ngọn lửa Từ Bi của Phật Giáo đồng thời cũng tràn đầy tình thương và hy vọng trong sứ mạng bảo vệ Đạo pháp và dân tộc.
26 Tháng Sáu 2013(Xem: 17077)
Tụng cho nhân loại hòa bình. Trước sau bền vững tình huynh đệ này. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
26 Tháng Sáu 2013(Xem: 17042)
Thay mặt Tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ, chúng tôi xin phép chư liệt vị được thưa trình về quá trình hành hoạt và tham dự vào giòng lịch sử của Dân tộc và Đạo pháp trong 50 năm qua.
26 Tháng Sáu 2013(Xem: 19847)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà, thuộc miền Trung Việt Nam, trong một gia đình có bảy anh chị em, thân phụ là cụ Lâm Hữu Ứng và mẫu thân là cụ bà Nguyễn thị Nương.
26 Tháng Sáu 2013(Xem: 21093)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm với tinh thần biết ơn, nhớ ơn và báo ơn của người con Phật trong ngày Lễ Kỷ Niệm lần thứ 50 Bồ Tát THÍCH QUẢNG ĐỨC vị pháp thiêu thân cùng chư Thánh tử Đạo PGVN đã hy sinh cho sự trường tồn của Đạo Pháp và Dân Tộc, chúng tôi, Phật Tử Quảng Uy Tôn Thất Đính, tướng lãnh chỉ huy cuộc Cách Mạng Tháng 11 năm 1963 xin có đôi dòng tưởng niệm.
26 Tháng Sáu 2013(Xem: 17565)
LTS: Dưới đây là nguyên văn tất cả các bài tham luận, phát biểu đọc trong buổi lễ tại hội trường Jerome Center 726 S.Center St, Santa Ana, do Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ long trọng tổ chức.
23 Tháng Sáu 2013(Xem: 23197)
WESTMINSTER, California (NV) - “Chúng ta tiếp tục cuộc chiến đấu cho chính nghĩa.” Đó là lời phát biểu của vị chủ tọa Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu năm nay, do các hội đoàn Cựu Quân Nhân QLVNCH tại Nam California tổ chức trọng thể tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, Westminster, hôm Chủ Nhật, 16 Tháng Sáu.
23 Tháng Sáu 2013(Xem: 17320)
Cuộc tuyệt thực ở Houston, Texas để phản đối sự bất công đối xử của nhà cầm quyền Hà Nội với tù nhân lương tâm Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, ngày 14/06/2013 (từ trái cư sĩ Võ Nghiệp và anh Kim Long, ông Đào văn Thảo và ông Phạm Tố Thư.