Nguyễn Thanh Trang: VN trước nguy cơ bị Tàu đồng hóa

17 Tháng Năm 20217:47 SA(Xem: 7407)

VĂN HÓA ONLINE – DIỄN ĐÀN CHÍNH TRỊ - THỨ TƯ 19 MAY 2021

Ý kiến-Bài vở vui lòng gởi về:  lykientrucvh@gmail.com


LỜI TÒA SOẠN: Trong số báo tháng Tư đen, tòa soạn Văn Hóa Online nhận được một số ý kiến của các vị thân hữu, học giả đề nghị tòa soạn nên đề xuất một chủ đề đặc biệt cho số báo tháng Tư.


Chúng tôi thành thật cảm tạ gợi ý của quí tôn túc học giả. Nhận thấy ý kiến về chủ đề mới phù hợp với hiện tình đất nước, với dòng chảy của thời sự và nhớ lại một “biến cố của lịch sử”.


Dù nước Việt ta đã chấm dứt 46 năm cuộc chiến Nam Bắc, máu đỏ ngập dòng xương chất thành núi, nhưng cái “bóng đè” phương Bắc vẫn không chịu buông bỏ mảnh đất chữ S mà tạo hóa vô tình đặt để vào tọa độ khắc nghiệt trên bản đồ thế giới.


Nay, chúng tôi vừa nhận được bài viết của Giáo sư Nguyễn Thanh Trang, nguyên Phụ Tá Viện Trưởng Đại Học Huế trước 1975; ông cũng là một cựu huynh trưởng Hướng Đạo, một tổ chức văn hóa-giáo dục-xã hội luôn đề cao ý thức trách nhiệm và tinh thần yêu nước của thanh niên; nguyên Chủ tịch Ban Vận Động Thành Lập Đài Á Châu Tự Do (Indochinese Committee for Radio Free Asia).


Trân trọng mời quý bạn đọc tham khảo bài viết dưới đây của Gs Nguyễn Thanh Trang. (lkt)


image003Giáo sư Nguyễn Thanh Trang đánh tiếng Chiêng đầu tiên khai mạc cuộc họp báo tại Câu Lạc Bộ Văn Hóa & Báo Chí tại Quận Cam hôm Thứ Sáu 27/9/2013. Ảnh Thanh Phong/VĐ.


Việt Nam trước nguy cơ bị Tàu đồng hóa

image004

Nguyễn Thanh Trang

(Gởi cho VHO từ San Diego)


Hơn hai ngàn năm trước người Tàu đã nhiều lần đánh chiếm nước ta và Việt Nam đã bốn lần bị Bắc thuộc, tổng cộng hơn một ngàn năm. Lần thứ nhất, từ năm 111 trước Tây lịch đến năm 39, hai Bà Trưng đã đứng lên chống lại quân Hán, giành lại độc lập được ba năm; lần thứ hai, từ năm 43 đến năm 541, Bà Triệu đã nổi dậy đánh đuổi quân Đông Ngô; lần thứ ba, từ năm 602 đến năm 939, Ngô Quyền dẹp tan quân Tàu trên sông Bạch Đằng; lần thứ tư, từ năm 1407 đến năm 1427, Lê Lợi khởi nghĩa, đuổi hết quân thù ra khỏi VN và lần cuối cùng năm 1789, vua Quang Trung đã đại thắng quân Thanh, giải trừ đại nạn vua Lê Chiêu Thống “cõng rắn cắn gà nhà” của Lê Chiêu Thống.


Trước sự kiện lịch sử sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc mà Việt Nam, một nước nhỏ so với Trung Quốc hùng mạnh, rộng lớn với dân số đông gấp trăm lần đã không bị đồng hóa mà vẫn giữ được độc lập, nên một số sử gia Việt Nam và ngoại quốc đã rất ngạc nhiên. Theo họ, có lẽ nước ta đã nhờ nhiều lý do như ngôn ngữ, tôn giáo, địa thế và dân Việt có một truyền thống và nghị lực vững mạnh, v.v. Riêng G.S. Ngô Nhân Dụng, trong tác phẩm nghiên cứu lịch sử “Đứng Vững Ngàn Năm” đã cho rằng: “Sau ngàn năm Bắc thuộc mà dân tộc Việt Nam không bị đồng hóa, sau cùng lại dựng được một quốc gia độc lập; đó là một phép lạ lịch sử”.


Ý kiến của GS Ngô Nhân Dụng rất hữu lý, nhưng chúng tôi cũng muốn nêu thêm một số yếu tố quan trọng đã giúp dân tộc Việt Nam không bị người Tàu đồng hóa, đó là hoàn cảnh, thời thế và trình độ văn minh thời xưa khác xa với ngày nay. Đặc biệt là các điểm sau đây:


(1) Ngày xưa sau khi Trung Quốc đã chiếm được Việt Nam và đặt nền đô hộ, họ chỉ để lại một Thái Thú và vài viên chức quân sự và hành chánh để điều hành guồng máy cai trị. Đại đa số nhân viên thuộc cấp đều là người Việt chỉ cộng tác với Tàu vì bị cưỡng bách hoặc vì miếng cơm, manh áo.


(2) Thời nào người Tàu cũng có tham vọng đồng hóa dân Việt, nhưng hoàn cảnh thời xưa không thể thực hiện được. Trước hết, vấn đề di chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam rất khó khăn vì phải vượt qua vùng biên giới toàn núi rừng hiểm trở và hệ thống đường sá còn rất thô sơ, chưa có những phương tiện di chuyển nhanh chóng, thuận tiện như xe hơi, tàu thủy và phi cơ. Ngôn ngữ bất đồng và liên lạc từ nơi nầy đến nơi khác cũng rất khó khăn, vì chưa có điện thoại, Cell phone và Internet. Quan trọng nhất là vào thời đó, Việt Nam không có một nhóm người hay tổ chức nào làm tay sai đắc lực cho Tàu như Đảng CSVN hiện nay.


(3) Chỉ có một số nhỏ người Hoa đã chạy sang Việt Nam để tị nạn vì nhiều lý do, thì hầu hết chỉ muốn sống an thân, lo làm ăn buôn bán và hòa đồng vào cộng đồng địa phương. Con cháu họ cũng lập gia đình với người Việt và dần dần tất cả đều trở thành dân Việt.


(4) Kiến thức và trình độ văn minh của con người thời xưa kém xa ngày nay.  Đa số dân chúng thời xưa không muốn rời bỏ quê cha đất tổ, ngay cả việc di chuyển từ làng nầy sang làng khác. Không hề có hiện tượng hàng vạn người Hoa tràn sang biên giới Việt Nam là một nơi xa lạ và bất đồng ngôn ngữ để mưu sinh


(5) Việt Nam là một xứ nông nghiệp, nơi nào cũng là làng xóm. Mỗi làng thường có chừng trên dưới một một trăm người, hầu hết là bà con thân thích hoặc quen biết nhau. Mỗi làng đều có lũy tre xanh bao bọc và có tổ chức, đứng đầu là một Lý Trưởng. Làng nào cũng thường có một số tục lệ dân làng phải tôn trọng. Các bô lão thời đó thường nói: “Phép vua thua lệ làng!”. Vì vậy, bất cứ người lạ nào muốn vào ở trong làng đều phải xin phép và chỉ được tạm trú như “dân tá túc”, chứ không  phải là “dân làng”. Đó cũng là một trong những lý do khiến người Tàu không thể đồng hóa dân Việt.


Đến đây có người sẽ nêu lên một câu hỏi: “Như vậy, tại sao ngày nay Việt Nam lại có nguy cơ bị người Tàu đồng hóa?”


Nguy cơ bị người Tàu đồng hóa


Nguy cơ nầy đã hiện rõ do kết quả của Hội Nghị bí mật tại Thành Đô giữa CSVN và Trung Cộng ngày 2/9/1990. Ngoài những cam kết giữa hai bên rất bất lợi cho nước ta, Trung Cộng còn buộc Việt Nam phải chấm dứt chủ trương xem Trung Quốc là kẽ thù không đội trời chung, và đặc biệt đòi Việt Nam phải xóa bỏ ngay việc lên án Trung Quốc trong Lời Nói Nói Đầu của bản Hiến Pháp Việt Nam năm 1980, trong đó có câu: “Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam”.


Mối liên hệ giữa CSVN và Trung Cộng đã được thể hiện qua phương châm “16 chữ vàng”: “Láng Giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Ngoại Trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã thấy rõ âm mưu thâm độc của Trung Cộng nên đã ra mặt chống Tàu và cảnh giác các lãnh tụ CSVN, nhưng chính vì thế ông đã bị nhà cầm quyền Hà Nội phải cách chức Ngoại Trưởng vì áp lực của Trung Cộng. Trước nguy cơ đó, chính ông Nguyễn Cơ Thạch đã cay đắng thốt lên: ”Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu!


Mối liên hệ Việt-Trung không những chỉ là đồng chí, đồng Đảng, mà nguy hiểm nhất ở điểm Đảng CSVN hiện nay đã biến chất và trở thành một Đảng cướp,  sẵn sàng làm tay sai đắc lực cho Trung Cộng. Sau đây là một số dữ kiện quan trọng đã và đang xảy ra.


1. Trong 54 năm từ ngày ra đời năm 1930 cho đến năm 1984, Đảng CSVN đã tồn tại và lớn mạnh nhờ sự giúp đỡ dồi dào về vũ khí và hậu thuẩn tối đa của hai cường quốc Cộng Sản Liên Bang Sô Viết và Trung Cộng. Nhưng đến năm 1984, Trung Cộng đã đưa quân sang đánh nước ta và gây nên một cuộc chiến khốc liệt tại các tỉnh vùng biên giới Việt Hoa, kéo dài hơn bốn năm trời. Từ ngày đó, CSVN đã xem Trung Quốc là kẽ thù không đội trời chung. Nhưng chỉ sáu năm sau, vào năm 1990 khi các nước Cộng Sản Đông Âu bắt đầu sụp đổ và Liên Bang Xô Viết cũng đang bị lung lay, nhà cầm quyền Hà Nội đã phải vội vàng tìm cách nối lại bang giao với Trung Cộng, đó là nguyên nhân đưa đến Hội Nghị giữa CSVN và Trung Cộng tại Thành Đô.

2. Tại Hội Nghị đó, hai bên đã có những mật ước xác nhận hai nước Việt-Trung là đồng minh và trong vòng 30 năm, từ 1990 đến 2020, Việt Nam sẽ cố gắng vượt qua các khó khăn để sắp xếp gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc. Việt Nam sẽ trở thành một khu vực tự trị trực thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh, cũng như Trung Quốc đã dành cho các xứ Nội Mông, Tây Tạng và Quảng Tây. Những điều nầy hai bên đã cam kết phải tuyệt đối giữ kín, nhưng ngay sau đó, vì âm mưu muốn công khai hóa nên Trung Quốc đã tiết lộ cho hai cơ quan ngôn luận của Trung Cộng là Toàn Cầu Thời Báo và Tân Hoa Xã loan tin. Về phía VN, chính cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng và các nhân vật cao cấp CSVN đã tham dự Hội Nghị cũng đã tỏ ra rất hối tiếc là vì áp lực của Trung Quốc quá nặng nề nên phái đoàn Việt Nam quá vội vàng và sơ suất nên họ đã bị mắc phải âm mưu thâm độc của người Tàu.

3. Ngày 30/12/1999 CSVN đã ký kết Hiệp Ước Biên Giới Trên Đất Liền với Tàu, để mất của VN thác Bản Giốc và trên 700 cây số vuông lãnh thổ. Rồi đến tháng 12 năm 2000, CSVN lại ký kết với Trung Cộng Hiệp Ước Phân Định Vịnh Bắc Bộ, lần nầy đã để mất thêm của VN hơn 10 ngàn cây số vuông hải phận.

4. CSVN đã ký hợp đồng cho người Tàu khai thác bauxite tại Cao Nguyên Trung phần, cũng như khu công nghệ tại Mông Cái và khu công nghệ Formosa tại cảng Vũng Áng.

5. CSVN còn cho Trung Cộng thuê dài hạn 50 năm để khai thác 400 ngàn ha rừng đầu nguồn tại vùng biên giới Việt-Trung, để Trung Cộng chiếm đóng một vị trí chiến lược quan trọng ảnh hưởng lớn lâu dài đến an ninh của nước ta.

6. CSVN còn cho phép người Tàu tự do ra vào Việt Nam không cần hộ chiếu, nên hàng năm đã có khoảng trên dưới 50 ngàn dân lao động Tàu vào Việt Nam để đi làm lậu. Nhà cầm quyền Hà Nội biết rõ nhưng họ không có biện pháp ngăn cấm.

7. Hải Quân Trung Cộng thường xuyên ngăn cản, quấy phá ngư thuyền, bắt bớ ngư dân Việt Nam và tịch thu hải sản của họ đã đánh được trong hải phận nước nhà tại Biển Đông. Cộng Sản VN không có biện pháp bảo vệ ngư dân và cũng không dám công khai lên tiếng phản đối những hành động ngang ngược đó của Hải Quân Trung Cộng.

8. Vào tháng 3 năm 1988 Trung Cộng đã đánh chiếm một số đảo vùng Tây Bắc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Sau đó họ đã bồi đắp, nới rộng các đảo để xây dựng những công thự và phi trường cho hải quân Trung Cộng xử dụng. CSVN không có biện pháp chống giữ và chỉ lên tiếng phản đối một cách yếu ớt cho có lệ và không hề lên án những hành động xâm lăng trắng trợn đó của Trung Cộng trước công luận quốc tế.

9. Năm 2012 CSVN đã tuyên bố chính sách về quốc phòng là “Ba không”, nghĩa là: (1) Không liên minh với bất cứ nước nào; (2) Không tham gia đồng minh quân sự với lực lượng nào; và (3) Không cho phép bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam. Đó là một sách lược “tự trói tay mình”, vì như thế Trung Cộng tha hồ lấn lướt CSVN mà không sợ Việt Nam sẽ có một nước đồng minh nào giúp đỡ để chống lại Trung Cộng.


Ngoài những dữ kiện nói trên, Trung Cộng còn thực hiện những âm mưu sau đây:

  1. Ngoài việc thường xuyên đưa vào Việt Nam nhiều sách báo, video, ca nhạc phẩm và các đoàn văn nghệ đi khắp Việt Nam từ Bắc và Nam để trình diễn, họ còn xây cất nhiều viện Khổng Tử và mở nhiều lớp dạy chữ Hán tại nhiều nơi để quảng bá rộng rãi văn hóa Tàu.
  2. Họ đưa vào Việt Nam nhiều mặt hàng sản xuất từ Trung Quốc và bán thật rẽ để cạnh tranh nhằm giết chết những ngành nghề tiểu công nghệ tại nước ta đang chế tạo các món hàng đó.
  3. Bất cứ những nơi nào có các dự án xây cất to lớn và béo bỡ, các công ty của người Tàu thường được trúng thầu vì họ dễ dàng hối lộ vì quen biết thân tình với các giới chức có thẩm quyền cùa CSVN từ trung ương đến địa phương.
  4. Việt Nam đã bán hoặc cho người Tàu thuê dài hạn nhiều lô đất dọc bờ biển Việt Nam từ Bắc vào Nam với diện tích khá lớn để xây dựng những khu vực kinh doanh, nghỉ mát và cư trú. Có vùng họ đã xây tường cao hoặc rào kín để sinh hoạt biệt lập dành cho người Tàu và không cho người Việt xâm nhập, kể cả công an, cảnh sát nếu không có sự đồng ý của họ.
  5. Ngoài ra họ còn thực hiện kế hoạch cấy người dài hạn bằng cách tuyển mộ nhiều thanh niên độc thân từ Trung Quốc để đưa sang nước ta làm việc cho các hảng xưởng của Tàu. Trước hết là để làm giảm bớt nạn thất nghiệp và nạn trai thừa gái thiếu tại Trung Quốc, đồng thời đó cũng là mưu chước nhằm cấy giống Tàu trong dài hạn. Các thanh niên lao động Tàu sẽ tiếp xúc thân tình với nhiều phụ nữ Việt Nam và sẽ có con với họ. Như thế, chỉ vài chục năm sau, vùng nào nước ta cũng sẽ có những đám trẻ con gốc Tàu lai Việt!

Kết Luận


Khác với thời xưa, ngày nay Trung Quốc không cần phải xâm lăng Việt Nam bằng quân sự để biến nước ta thành Bắc thuộc, mà họ chỉ cần xử dụng Đảng CSVN làm tay sai đắc lực cho họ rồi dùng chính trị, thương mãi, kinh tế và văn hóa để biến Việt Nam thành một vùng tự trị của Trung Quốc và dần dần đồng hóa dân Việt. Đó là một mối nguy rất lớn mà dân tộc Việt Nam sẽ rất khó thoát được trước âm mưu thâm độc của Cộng Sản Tàu. 


Hầu hết mọi người đều thấy rõ trong hoàn cảnh hiện nay, nước ta chỉ có thể thóat Trung một cách nhanh chóng và hữu hiệu  khi nào Việt Nam sớm có một nhóm đảng viên Cộng Sản cao cấp nhiệt tình yêu nước và thiết tha với tiền đồ của dân tộc, can đảm đứng lên dành thế chủ động bằng cách loại bỏ những phần tử chóp bu trong Đảng CSVN đang làm tay sai đắc lực cho Trung Cộng, để cùng với toàn dân quyết tâm chống lại âm mưu thâm độc của người Tàu và xây dựng một nước Việt Nam độc lập trong Tự Do và Dân Chủ thật sự. Đó là hoài bảo và cũng là đại phước cho dân tộc Việt Nam.


Nguyễn Thanh Trang
(bổ túc 18/05/2021)