Mai Thái Lĩnh: Từ Tư bản thân hữu đến Cộng sản thân hữu

31 Tháng Giêng 201610:24 CH(Xem: 13725)

"BÁO VĂN HÓA-CALIFORNIA" THỨ  HAI 01 FEB  2016

Từ  Tư bản thân hữu đến Cộng sản thân hữu

Bài 1 : Về chủ nghĩa tư bản thân hữu

image043

Mai Thái Lĩnh

Vài lời phi lộ: Mặc dù chủ đề “xã hội dân sự và chế độ dân chủ” vẫn còn nhiều điều cần bàn tiếp,  tôi xin tạm dừng lại để trình bày về “Tư bản thân hữu và Cộng sản thân hữu” – một chủ đề nóng bỏng liên quan đến cuộc đấu tranh giữa hai phái chính trị trong Đảng Cộng sản Việt Nam suốt nhiệm kỳ XI vừa qua, và trong thời gian sắp tới có lẽ vẫn còn tiếp tục nằm ở hàng đầu chương trình nghị sự của Bộ Chính trị mới ...

Bài viết của ông Vũ ngọc Hoàng (Phó ban Thường trực Ban Tuyên giáo khóa XI) nhan đề “Lợi ích nhóm và chủ nghĩa tư bản thân hữu - cảnh báo nguy cơ “ được đăng trên Tạp chí Cộng sản số 872 (tháng 6 năm 2015), trong mục “Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng”. Nhìn vào tiêu đề, độc giả có thể thấy hai cụm từ khác nhau:  “lợi ích nhóm” và “chủ nghĩa tư bản thân hữu”. Như tôi đã trình bày trong bài “Nhóm lợi ích là gì?”[i], “lợi ích nhóm” thật ra là một khái niệm hoàn toàn khác đã bị giới lý luận cộng sản và các trí thức cung đình gọi nhầm tên. Bây giờ chúng ta chuyển sang tìm hiểu cụm từ thứ hai: chủ nghĩa tư bản thân hữu.

Từ tình thân hữu thông thường đến Chủ nghĩa Thân hữu (Cronyism) trong chính trị:

Trước hết, cần phải khẳng định: tình thân hữu vốn là điều tốt đẹp. Đó là mối quan hệ đáng trân trọng giữa người và người - nhất là trong lĩnh vực xã hội dân sự. Thế nhưng một khi “tình thân hữu” được áp dụng vào lĩnh vực chính trị - nhất là công quyền, thì nó có thể trở thành một căn bệnh, một tệ nạn có khi làm băng hoại cả một chế độ.

Trong tiếng Anh, crony có nghĩa là “bạn bè thân tín”, “cộng sự lâu năm”, nói theo ngôn ngữ dân gian là “bạn bè chí cốt”, “cánh hẩu”[ii]. Nhưng cronyism (chủ nghĩa thân hữu) trong lĩnh vực chính trị lại là một thói xấu, một tập quán không lành mạnh. Đó là thói quen “trọng dụng người thân quen”, là tập quán của những người nắm quyền lực thích bổ nhiệm bạn bè, người quen biết của mình vào các chức vụ công quyền, không quan tâm gì đến phẩm chất, năng lực của người được cất nhắc. Thói xấu chính trị này hoàn toàn đi ngược lại với chế độ trọng dụng nhân tài (meritocracy). Chủ nghĩa thân hữu thu hẹp hơn một chút thì biến thành chủ nghĩa thân tộc (nepotism) - ở nước ta thường được gọi là thói gia đình trị, nghĩa là chỉ cất nhắc, trọng dụng những người bà con, thân thích trong gia đình, dòng họ.

Sở dĩ phải nói đến Chủ nghĩa thân hữu trong chính trị vì đây là một nguồn gốc của nạn tham nhũng và có liên hệ chặt chẽ với Chủ nghĩa Tư bản thân hữu mà chúng ta sắp bàn đến. Ở các quốc gia dân chủ, để phòng ngừa căn bệnh này, người ta thường đặt ra những nguyên tắc, những quy định rất chặt chẽ trong việc bổ nhiệm các chức vụ công quyền. Nhưng ở các nước độc tài – nhất là các nước cộng sản phương Đông, căn bệnh này thường có đất tốt để phát triển. Thường thì ở các quốc gia cộng sản phương Đông, để bảo đảm lòng trung thành của các đảng viên, người ta đặt nặng chủ nghĩa lý lịch – nhất là lý lịch gia đình, có khi đến ba đời. Vì vậy, mỗi khi một người được thông qua lý lịch để kết nạp vào đảng cầm quyền thì những người khác trong gia đình, thậm chí trong dòng họ, cũng được hưởng chút “hương thơm lý lịch”, nghĩa là dễ dàng được đưa vào diện “trung kiên”, “đối tượng đảng” và dễ dàng được kết nạp vào đảng. Vì thế, cũng tương tự như ngày xưa (một người làm quan cả họ được nhờ) ngày nay “một người vào đảng cả họ cũng được nhờ”. Do kế thừa di sản từ truyền thống làng xã (thời phong kiến và nhất là thời quân chủ tập quyền), có khi cả một xã chỉ nằm trong tay một hay vài ba họ - từ các chức vụ đảng đến các chức vụ trong chính quyền. Ở bất cứ địa phương nào, việc người thân trong gia đình phụ trách cả cơ quan thi hành quyền lực lẫn cơ quan kiểm soát quyền lực, hay chuyện chồng cấp trên vợ cấp dưới trong cùng một ngành chẳng hề là chuyện lạ ở nước “cộng hòa của các đồng chí” này. “Tình thân hữu” phát triển trong tầng lớp “ưu tú” của chế độ cộng sản mạnh đến mức ở bất cứ cấp lãnh đạo nào, chúng ta cũng thấy xuất hiện các danh xưng thân mật như Anh Hai, Chị Ba, Anh Tư, chị Năm, v.v… thể hiện “tính chất gia đình” ở mỗi đảng bộ hay mỗi cấp ủy.

Cho nên tôi hơi ngạc nhiên khi thấy gần đây các cán bộ cao cấp của Đảng và báo chí bỗng nhiên la toáng lên về chuyện lãnh đạo đưa bà con thân thích vào chức vụ này chức vụ kia, làm như chuyện này xưa nay chưa hề có trên đất nước Việt Nam “xã hội chủ nghĩa”. Có thể vì ngày nay chủ nghĩa thân hữu hay chủ nghĩa thân tộc đã trở nên quá trắng trợn, hay là vì sự phát triển của Internet và mạng xã hội khiến người ta khó lòng giấu giếm, che đậy nên mới có những tiếng kêu hốt hoảng. Nhưng làm sao có thể dẹp bỏ được thói quen sử dụng thân hữu trong chính trị hay tệ nạn gia đình trị một khi lý lịch gia đình, dòng họ vẫn được đưa lên hàng đầu? Chúng ta có thể tin rằng một khi chủ nghĩa lý lịch bị vứt vào sọt rác, và nhất là khi độc quyền lãnh đạo của một đảng chính trị mất đi, thì chủ nghĩa thân hữu và chủ nghĩa thân tộc sẽ có cơ hội chào từ giã nền văn hóa chính trị của đất nước ta.

Bản chất của nhà tư bản thân hữu:

Từ ý nghĩa ban đầu của crony (bạn bè thân tín, cộng sự lâu năm), đã phát sinh thêm một ý nghĩa mới khi crony được dùng để chỉ một nhà “tư bản thân hữu”, nghĩa là một nhà tư bản “thông đồng”, “móc ngoặt” với một quan chức trong chính quyền để tìm kiếm lợi ích cho riêng mình, bất chấp lợi ích chung của toàn xã hội. Trong tiếng Anh, không có từ nào dùng để chỉ một “nhóm tư bản thân hữu”, mà chỉ có từ cronies (số nhiều) dùng để chỉ nhiều nhà tư bản thân hữu. Hiện tượng “tư bản thân hữu” trong tiếng Anh có tên là crony capitalism (chủ nghĩa tư bản thân hữu), người Pháp dịch thành capitalisme de connivence (chủ nghĩa tư bản thông đồng).

Sự khác nhau căn bản giữa các nhà tư bản thông thường và các nhà tư bản thân hữu là ở chỗ: trong khi nhà tư bản thông thường là người tìm kiếm lợi nhuận (profit-seeking) thì nhà tư bản thân hữu là người tìm kiếm đặc lợi (rent-seeking). Lợi nhuận (profit) là đồng tiền kiếm được bằng cách sản xuất, kinh doanh thật sự: nhà tư bản làm ăn chân chính tìm lợi nhuận bằng cách làm cho của cải tăng lên hoặc làm cho dịch vụ có phẩm chất cao hơn. Còn các nhà tư bản thân hữu thì không làm như thế (không làm cho của cải tăng lên, cũng không làm cho dịch vụ tốt hơn) mà trái lại, dựa vào mối quan hệ “thân hữu”, “nồng ấm” với các quan chức trong chính quyền để tìm kiếm “đặc lợi” – tức là cái mà hiện nay báo chí thường gọi là “siêu lợi nhuận”.

Theo David R. Henderson, từ “rent” do nhà kinh tế học David Ricardo (1772 – 1823) đưa vào kinh tế học, dùng để chỉ “khoản tiền phải trả cho một yếu tố của sản xuất nhiều hơn so với yêu cầu nhằm giữ cho yếu tố đó được sử dụng trong hiện tại”. Thuật ngữ này thường được dùng để chỉ tiền thuê đất (“land rent” hay “ground rent”, địa tô), về sau được dùng rộng hơn cho cả tiền thuê bất động sản. Nhưng ngày nay, “rent-seeking” không có nghĩa là là tìm kiếm một thứ tiền thuê. Các nhà kinh tế học thời nay sử dụng thuật ngữ này để mô tả việc các nhà tư bản thân hữu thông đồng với các quan chức trong chính phủ để tìm kiếm những “đặc lợi” như : miễn giảm thuế, vay vốn ưu đãi, nhận tài trợ của chính phủ hay các hình thức ưu đãi, khuyến khích khác, … Như vậy, nghĩa hiện đại của “rent-seeking” là “tìm kiếm đặc lợi”, “tìm kiếm đặc ân” (privilege seeking).[iii] Và lẽ dĩ nhiên, muốn làm được điều đó, nhà tư bản thân hữu phải tìm đến người có “đặc quyền”. Đó chính là nguồn gốc của nạn tham nhũng.

Nói một cách dễ hiểu, thực chất của tìm kiếm đặc lợi là “tự cắt cho mình một lát bánh lớn hơn thay vì làm cho cái bánh lớn hơn” hoặc “tìm mọi cách để có nhiều tiền hơn mà không sản xuất nhiều hơn cho khách hàng.” Cho dù là hợp pháp hay bất hợp pháp, các hoạt động tìm kiếm đặc lợi có thể đem lại những tổn thất lớn cho một nền kinh tế bởi vì chúng không tạo ra bất kỳ giá trị nào mà ngược lại, các hoạt động đó gây thiệt hại cho người tiêu dùng và cho toàn xã hội, chỉ có lợi cho một nhóm nhỏ những nhà tư bản thân hữu và những quan chức chính quyền tiếp tay cho họ.

Tóm lại, tư bản thân hữu không phải là một tư tưởng hay một học thuyết, cũng không phải là một hình thái kinh tế-xã hội, mà là một hiện tượng tiêu cực, một căn bệnh xảy ra trong nền kinh tế thị trường có liên quan đến tệ nạn tham nhũng, hối lộ. Hiện tượng tư bản thân hữu có thể xảy ra ở bất cứ quốc gia nào, kể cả những quốc gia có chế độ dân chủ thành thục, bền vững. Nhưng tư bản thân hữu chỉ được gọi tên là chủ nghĩa tư bản thân hữu (crony capitalism) một khi nó trở thành một tệ nạn quốc gia – nghĩa là chi phối cả một nền kinh tế hay ít nhất là chi phối một số ngành kinh tế trọng điểm.

Một trong những người đấu tranh quyết liệt chống lại chủ nghĩa tư bản thân hữu là nhà kinh tế học người Mỹ gốc Ý tên là Luigi Zingales – hiện là giáo sư tại Trường Kinh doanh Chicago Booth (Chicago Booth School of Business) thuộc Đại học Chicago. Di dân sang Hoa Kỳ từ năm 1988, ông đã từng chứng kiến quê hương ông (nước Ý) trở thành nạn nhân của chủ nghĩa tư bản thân hữu, dẫn đến tình trạng đình đốn kinh tế và nạn tham nhũng trầm trọng – đặc biệt là dưới thời trị vì của cựu Thủ tướng Silvio Berlusconi. Lo ngại Hoa Kỳ sẽ dẫm vào bước chân của nước Ý, ông đã công bố hai tác phẩm quan trọng: Saving Capitalism from the Capitalists (Cứu chủ nghĩa tư bản từ tay các nhà tư bản, 2003) và A Capitalism for People: Recapturing the Lost Genius of American Prosperity (Một chủ nghĩa tư bản vì nhân dân: Phục hồi thiên tài đã mất của sự thịnh vượng Mỹ, 2012).

Về lý do đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản thân hữu, Zingales nói: “Chủ nghĩa thân hữu (cronyism) đã cướp đoạt của quê hương tôi phần lớn tiềm năng để tăng trưởng kinh tế. Tôi không muốn nó lại ăn cướp của Hoa Kỳ.” Nhưng không phải chỉ vì lý do kinh tế. Ông nói tiếp : “Còn tệ hơn mất tiền, là việc mất tự do: bởi vì chủ nghĩa thân hữu đàn áp tự do ngôn luận, loại bỏ động cơ nghiên cứu và  gây nguy hiểm cho các cơ hội về nghề nghiệp.”[iv] (Trong các câu nói này, Zingales dùng thuật ngữ “chủ nghĩa thân hữu” với ý nghĩa tương tự như “chủ nghĩa tư bản thân hữu”)

Mặc dù hiện tượng “tư bản thân hữu” có thể hình thành ở bất cứ quốc gia nào, nhưng tại các nước đã phát triển (developed countries) – nghĩa là các nước tiên tiến (advanced countries), nó ít có cơ hội để trở thành một thứ tệ nạn quốc gia, vì các thiết chế dân chủ có khả năng kiềm chế các hoạt động của các nhà tư bản thân hữu, đồng thời ngăn ngừa nạn tham nhũng. Nhưng tại các nước thường được gọi là “đang phát triển” (developing countries) – và đặc biệt là tại các nước kém phát triển, tư bản thân hữu có nhiều cơ hội để trở thành một căn bệnh nan y khó chữa trị, nhờ dựa vào sự yếu kém trong quản lý nhà nước hay các tệ nạn như : lạm dụng quyền lực, tham nhũng, hối lộ, v.v… Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thân hữu có thể dẫn đến chế độ đạo tặc (kleptocracy) – nghĩa là một chế độ trong đó các nhà lãnh đạo thường coi ngân khố quốc gia như một nguồn làm giàu cho bản thân và gia đình, chi tiêu ngân quỹ một cách vô tội vạ để mua các hàng hóa xa xỉ và phục vụ các sở thích ngông cuồng của cá nhân và gia đình. Các nhà lãnh đạo kiểu đạo tặc này thường bí mật chuyển lậu các quỹ ăn cắp vào các tài khoản ngân hàng ở ngoại quốc – nhất là tại các “cảng trú ẩn thuế” (tax haven)[v] để phòng khi bị mất chức vẫn duy trì được tài sản cho cá nhân và gia đình.

“Tại Đông Nam Á, hai ví dụ tiêu biểu của chế độ đạo tặc có nguồn gốc từ chủ nghĩa tư bản thân hữu là Ferdinand Marcos (tổng thống của Philippines trong thời gian từ 1965 đến 1986) và Mohamed Suharto (tổng thống của Indonesia từ 1967 đến 1998).”

Vào tháng 3 năm 2004, tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International) đã công bố bản báo cáo về nạn tham nhũng trên toàn cầu, qua đó đánh giá Mohamed Suharto đã ăn cắp của công từ 15 đến 35 tỷ đô-la Mỹ, còn Ferdinand Marcos đã ẵm của công quỹ từ 5 đến 10 tỷ đô-la Mỹ.[vi] Không những thế, hai nhà lãnh đạo kiểu đạo tặc này đã để lại cho đất nước của họ những món nợ khổng lồ. Hơn hai thập niên lãnh đạo của Marcos đã làm cho nợ quốc gia của Philippines tăng từ 7 tỷ (năm 1965) lên đến 27 tỷ đô-la Mỹ (năm 1986).[vii] Còn tại Indonesia, vào giữa năm 1997, tổng số nợ phải trả cho các ngân hàng thương mại ngoại quốc lên đến 59 tỷ đô-la.[viii]

Vận dụng khái niệm “tư bản thân hữu” vào chế độ cộng sản:

Mặc dù ông Vũ Ngọc Hoàng đã mạnh dạn sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản thân hữu” để nói về nguồn gốc của nạn tham nhũng ở Việt Nam, nhưng trong thực tế khái niệm này thật ra chỉ phù hợp với các nước “tư bản” hay các nước đang phát triển không thuộc hệ thống cộng sản, chứ không thể áp dụng nguyên xi vào các nước cộng sản – dù đã chuyển sang con đường kinh tế thị trường như Trung Quốc và Việt Nam.

Một ví dụ điển hình là sự kiện tờ Economist ở Anh cố gắng thiết lập “Chỉ số chủ nghĩa tư bản thân hữu” (Crony-Capitalism Index) để đo lường ảnh hưởng của hiện tượng “tư bản thân hữu” đối với một số nền kinh tế. Vào tháng 3 năm 2014, tờ báo này công bố bảng đánh giá xếp loại 23 quốc gia và vùng lãnh thổ. Một trong những điều nghịch lý nổi bật là trường hợp của Trung Quốc: trong bảng xếp loại này, Trung Hoa lục địa được xếp thứ 19 về chỉ số tư bản thân hữu, cao hơn so với Hoa Kỳ (xếp thứ 17) và nước Anh (xếp thứ 15).[ix] Điều đó có nghĩa là Trung Quốc ít bị ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản thân hữu so với hơn Hoa Kỳ và Anh!

Thực là một điều nghịch lý, vì nếu dựa theo bảng xếp loại về “Chỉ số nhận thức tham nhũng (Corruption Perception Index) của tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency Internationale) thì vào năm 2014 Trung Quốc  ghi điểm rất kém (36/100 điểm, xếp thứ 100/175 nước), trong khi Anh đạt 78 điểm (xếp hạng 14/100) và Hoa Kỳ đạt 74 điểm (xếp hạng 17/100). Làm thế nào mà hai nước ít tham nhũng (Hoa Kỳ và Anh) lại bị ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản thân hữu nhiều hơn so với một nước tham nhũng nặng nề như Trung Quốc?

Chỉ có  thế lý giải nghịch lý nói trên bằng một số lý do sau đây:

- Mặc dù Trung Quốc đã từ bỏ con đường kinh tế tập trung chỉ huy và tiến khá xa trên con đường kinh tế thị trường, nhiều ngành công nghiệp đem lại nhiều “đặc lợi” vẫn còn bị khống chế bởi các doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước. Các doanh nghiệp  đó vẫn nhận được nhiều “ân huệ”, được ưu đãi tương đương hoặc cao hơn so với các doanh nghiệp tư nhân, nhưng các chuyên gia của Economist đã không tính (hoặc không thể đo lường) yếu tố này. Chính khu vực kinh tế “quốc doanh” còn sót lại – luôn được sự bảo trợ, ưu ái của nhà nước, cũng là một nơi phát sinh nạn “tìm kiếm đặc lợi” và đẻ ra nạn tham nhũng.

- Tài sản của các nhà “tư bản đỏ” và các quan chức ở Trung Quốc thường bị che giấu hoặc phân tán cho nhiều thành viên trong gia đình. Chính tờ Economist trong bài báo đã dẫn cũng thừa nhận rằng Trung Quốc là “nơi mà các bài báo phanh phui gần đây cho thấy nhiều chính trị gia có thế lực đã ngụy trang tài sản của họ bằng cách thuyết phục các bạn bè và gia đình giữ tài sản nhân danh họ” và “các ghi chép tài sản không đáng tin cậy cũng giúp che giấu ai sở hữu cái gì”.

Theo điều tra của ICIJ (The International Consortium of Investigative Journalists) – một mạng lưới quốc tế với hơn 190 nhà báo điều tra của hơn 65 nước, các quan chức và các nhà tư bản đỏ ở Trung Quốc thường tìm cách ngụy trang tài sản của họ bằng cách mở các công ty bí mật ở các “cảng trú ẩn thuế” (tax haven) như Quần đảo Virgin thuộc Anh, quần đảo Cook hay Samoa. Trong số những nhân vật che giấu tài sản, có cả con trai của cựu Thủ tướng Ôn Gia Bảo và Deng Jiagui (鄧家貴 Đặng Gia Quý) - anh rể của đương kim Chủ tịch Nước kiêm Tổng bí thư Tập Cận Bình. Ngoài ra, còn có bà con họ hàng của các quan chức cao cấp như cựu Chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào, cựu Thủ tướng Lý Bằng, và cố lãnh tụ tối cao Đặng Tiểu Bình, v.v…[x]

Như vậy, khi áp dụng khái niệm “tư bản thân hữu” vào trường hợp của Trung Quốc, cần phải xét đến những đặc điểm riêng biệt của nền kinh tế của nước này – một nền kinh tế chưa hoàn toàn thị trường hóa, còn chịu sự điều chỉnh nặng nề của nhà nước. Mặt khác, cần phải xem xét cả hệ thống chính trị tại đây, một chế độ chính trị chưa hoàn toàn thoát ra khỏi khuôn khổ của một chế độ độc tài-hậu toàn trị (post-totalitarian regime).

Mặc dù có những điểm khác biệt, kể từ đầu thập niên 1990 đến nay, mô hình kinh tế-chính trị của Việt Nam ngày càng giống với mô hình của Trung Hoa lục địa. Vì vậy, để có thể hiểu được trường hợp của Việt Nam, thiết tưởng không có gì tốt hơn là tìm hiểu trường hợp của Trung Quốc. Đó là điều chúng ta sẽ đề cập trong bài sau./

Đà Lạt 28-1-2016

MAI THÁI LĨNH

02 Tháng Mười 2014(Xem: 27794)
Anh Gs. Phạm Cao Dương mới gửi đăng trên Việt Thức một bài viết với rất nhiều sai lầm. Em đã định góp ý, nêu ra những chỗ sai ấy ngay trên Việt Thức (dù em không nói ra cũng sẽ có người khác nhận thấy và sẽ nặng lời chỉ trích). Nhưng vì những chỗ sai ấy quá trầm trọng trong khi anh ấy lại ký là "Tiến sĩ" (Phạm Cao Dương, TS), nên nếu viết một cách công khai sẽ rất hại cho uy tín của anh ấy (liên quan tới uy tín của Hội Bưởi-CVA chúng ta). Em chỉ muốn viết riêng ít dòng, gửi anh ấy đọc để anh ấy tự ý sửa thì tốt hơn.
30 Tháng Chín 2014(Xem: 21786)
Thời gian trước, trên diễn đàn của người Việt ở Ukraine, có tin chính quyền một thành phố ở xứ này quyết định hạ tất cả tượng đài Lenin ở địa phương để tránh những vụ phá phách của những kẻ không ưa vị lãnh tụ vô sản. Và sau mẩu tin, có nhiều ý kiến thương khóc, trách móc của độc giả Việt, cho rằng hành động trên là 'phản bội quá khứ', 'tráo trở', 'ăn cháo đá bát'...
23 Tháng Chín 2014(Xem: 22211)
Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ hiện là ba cường quốc vùng Châu Á Thái Bình Dương có một mẫu số chung : Được một nhân vật dân tộc chủ nghĩa lãnh đạo. Theo nhận định của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế IISS trong bản « Khảo sát Chiến lược 2014 / Strategic Survey 2014 » công bố hôm qua 18/09/2014 tại Luân Đôn, thì cục diện Châu Á, vốn đang bị cuộc cạnh tranh Trung-Nhật tác động, sắp tới đây sẽ tiếp tục bị hai đại cường này cùng với Ấn Độ nhào nặn.
16 Tháng Chín 2014(Xem: 24828)
Muốn blog cháy hãy viết về chiến tranh Nam Bắc, về cải cách ruộng đất với khẩu hiệu “Trí, phú, cường, hào.. đào tận gốc, trốc tận rễ”, “Nhân văn Giai phẩm”, những chuyện quá khứ đi vào lịch sử đầy máu, nước mắt, và chia rẽ dân tộc. Nhưng né tránh, câu chuyện sẽ còn âm ỷ khôn nguôi, dù thế giới đã sang thế kỷ 21. Lãnh đạo quốc gia có tầm, có tâm, nên bạch hóa sai lầm quá khứ, lấy đó làm bài học cho hiện tại và hướng tới tương lai. Đó là một trong những chìa khóa cho phát triển đất nước.
14 Tháng Chín 2014(Xem: 22059)
Vua Bảo Đại tuyên bố độc lập ngày 11 tháng 3 năm 1945, thu hồi chủ quyền trên danh nghĩa ở ba kỳ, tiếp sau đó là Campuchia ngày 13 tháng 3 và Lào ngày 8 tháng 4. Trong tuyên bố của Bảo Đại thì Việt Nam hủy bỏ các Hiệp ước Bảo hộ trước kia với Pháp.
09 Tháng Chín 2014(Xem: 20458)
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh, vừa có bài viết đăng trên mạng internet, cảnh báo giới lãnh đạo Việt Nam không nên lơ là cảnh giác trước Trung Quốc khi mà nước này đang tiến hành xây dựng trên bãi Gạc Ma trên Biển Đông.
31 Tháng Tám 2014(Xem: 19875)
Trái với dự đoán của người quan tâm, nhận định các cuộc biểu tình của phe ủng hộ cựu thủ tướng Yingluck Shinawatra sẽ bùng phát trên cả nước sau cuộc đảo chính quân sự ngày 22/05/2014 do quân đội Hoàng Gia Thái Lan thực hiện, nhưng cho đến nay, khi thủ lĩnh đảo chính – tướng Prayuth Chan-ocha lên làm thủ tướng, đất nước Thái vẫn khá bình yên.
26 Tháng Tám 2014(Xem: 20182)
Tôi đọc bài “Nhìn lại 45 năm để soi chính mình”. Đây là bài tường thuật của Mai Hương trên báo Tuổi Trẻ (TP. HCM) về hai ý kiến của hai Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương trong Hội nghị toàn quốc hướng dẫn kỷ niệm 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (đúng ra nên nói là cố chủ tịch).
25 Tháng Tám 2014(Xem: 21111)
Sách Cổ Học Tinh Hoa kể chuyện: “Ông Tăng Sâm ở đất Phi, ở đấy có kẻ trùng danh với ông giết chết người. Một người hớt hải chạy đến báo mẹ ông Tăng Sâm rằng: ‘Tăng Sâm giết người’. Bà mẹ nói : ‘Chẳng khi nào con ta lại giết người’. Rồi bà điềm nhiên ngồi dệt cửi. Một lúc lại có người đến bảo: ‘Tăng Sâm giết người’. Bà mẹ không nói gì, cứ điềm nhiên dệt cửi .
21 Tháng Tám 2014(Xem: 19094)
Thượng Nghị sĩ John McCain của đảng Cộng Hòa và Thượng Nghị sĩ Sheldon Whitehouse của đảng Dân Chủ đã vào tận Việt Nam, tổ chức cuộc họp báo tại Hà Nội vào ngày 8/8 vừa qua để nói về viễn cảnh mới của quan hệ Mỹ Việt chuẩn bị đánh dấu 20 năm (1995-2015) bình thường hóa quan hệ ngoại giao.
17 Tháng Tám 2014(Xem: 20256)
Văn Hóa Magazine Online nhận được E-mail từ bạn đọc và từ Viet Art Center vietartcenter@aol.com, một thư ngỏ của Ô. Phan Kỳ Nhơn, Chủ tịch Liên Ủy Ban Chống CS & Tay Sai và một của Đức Cha Dominic Mai Thanh Lương, Giám mục Phụ tá Giáo phận Orange.
15 Tháng Tám 2014(Xem: 17375)
Sự kiện hai Thượng nghị sĩ Mỹ là John McCain (đảng Cộng hòa, bang Arizona) và Sheldon Whitehouse (đảng Dân chủ, bang Rhode Island) đến thăm Việt Nam một cách khá bất ngờ, trong ba ngày kể từ 08/08/2014 đã gây chú ý trong dư luận.
12 Tháng Tám 2014(Xem: 19361)
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry tại Hội nghị Ngoại trưởng khối 10 nước ASEAN lần thứ 47-AMM47. Đề nghị của phía Mỹ là phải ngưng tất cả mọi hoạt động, mọi leo thang trên Biển Đông.
07 Tháng Tám 2014(Xem: 17515)
Trong một cuộc họp khẩn cấp kéo dài đến tối khuya Chủ Nhật hôm trước, Hội Đồng này đã thông qua một lời nhận định mạnh mẽ nhất về cuộc chiến này, dưới hình thức “một bản thông báo cấp tổng thống” (presidential statement) lên tiếng yêu cầu đôi bên hãy tức thời ngưng bắn để có thể thực hiện được một cuộc trợ giúp và cứu trợ cần thiết cho khối dân Palestine khốn khổ đang nằm trong hai lằn lửa đạn.
04 Tháng Tám 2014(Xem: 19707)
Nhưng tôi không khỏi có cảm giác đó chính là những gì ông muốn nói khi được hỏi về sự phát triển của vùng cao nguyên ở Việt Nam trong cuộc gặp tình cờ tại miền nam nước Pháp. Chính xác hơn ông Nguyên Ngọc nói về "lời nguyền tài nguyên".
31 Tháng Bảy 2014(Xem: 19629)
Ngoại trừ các đảng viên nắm quyền, đa số các đảng viên đã không còn tin vào chủ nghĩa xã hội? Đa số các đảng viên về hưu ‘không còn tha thiết với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội nữa’, một đảng viên kỳ cựu tham gia ký tên vào thư ngỏ gửi Ban chấp hành Trung ương Đảng nói với BBC.
28 Tháng Bảy 2014(Xem: 20652)
Đã hơn một tuần kể từ khi Trung Quốc di chuyển giàn khoan 981, dù có một vài nghi ngại nhưng nhìn chung dư luận Việt Nam đã tương đối lắng dịu, đặc biệt với sự xuất hiện của siêu bão Ramasun và vụ tai nạn máy bay MH17.
25 Tháng Bảy 2014(Xem: 17785)
Giáo sư Tương Lai cho biết sáng qua, khi đọc nội dung tuyên bố của tổ chức Diễn đàn Xã hội Dân sự (một tổ chức phản động chống Nhà nước) đã lên tiếng quyết liệt phản đối âm mưu lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông hiện nay để thực hiện mưu đồ chính trị của tổ chức này.
22 Tháng Bảy 2014(Xem: 18183)
“Trong tình hình đất nước Việt Nam chúng ta ngày nay, những người tham gia đấu tranh – qua hình thức xã hội dân sự (XHDS) hay đảng chính trị (ĐCT) – hầu hết là những người lý tưởng, sẵn sàng hy sinh hạnh phúc cá nhân cho đại nghĩa. Lãnh đạo Hà Nội sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để triệt tiêu các đoàn thể không nằm trong khuôn khổ của chế độ, nên những người có lòng đối với dân tộc và đất nước càng phải đoàn kết, gắn bó với nhau hơn bất kể phương thức đóng góp cho đại cuộc là XHDS hay ĐCT.
21 Tháng Bảy 2014(Xem: 19024)
Thế là chuyện lạ đã xảy ra...Quốc Hội Hoa Kỳ đã nhất trí thông qua Nghị Quyết về biển Đông, yêu cầu Trung Quốc quay về nguyên trạng trước ngày 1/5/2014, tức là yêu cầu TC rút giàn khoan 981, một việc mà Quốc Hội Việt Nam đã không dám làm, đã không thể làm và thực sự đã không làm...