"NHẬT BÁO VĂN HÓA - CALIFORNIA" THỨ HAI 20 APRIL 2015
Hồi Ức Khương Hữu Điểu
Bản đồ vùng: Dấu thập màu đỏ chỉ địa điểm nhà máy Hiệp Hòa nằm gần biên giới Cao Miên (Lằn đứt đoạn màu đen đậm)
Nhà Máy Đường Hiệp Hòa Được Hiện Đại Hóa
Là Giám đốc Kỹ thuật mới nhậm chức, nhiệm vụ đầu tiên của tôi là duyệt lại dự án hiện đại hóa trị giá hàng triệu Mỹ kim của Nhà Máy Đường Hiệp Hòa. Đơn đặt hàng đã được gửi tới công ty Pháp nổi tiếng Société Fives Lille Cail ở Ba lê. Tôi hết sức ngạc nhiên khi khám phá rằng động cơ pit-tông hơi nước cũ kỹ hiện hữu với một bánh xe trớn khổng lồ có đường kính sáu thước sẽ được thay thế bởi một dàn máy giống hệt như vậy. Đúng ra, nên thay thế bằng một máy tua-bin hơi nước/steam turbine vì nó hợp lý hơn trên phương diện kỹ thuật cũng như tài chánh. Trên thực tế, người ta đã ngưng xử dụng loại máy pit-tông hơi nước kềnh càng nầy từ lâu rồi. Không khác chi đem so sánh máy chạy bằng pit-tông/piston engine với máy chạy động cơ phản lực/jet engine vậy. Nhóm chuyên viên có trách nhiệm chọn mua máy thay thế trước đó gồm ông kỹ sư lão thành người Pháp tên là Mr. Polton xuất thân từ trường nổi tiếng École Polytechnique (Paris) cùng một số kỹ sư Việt được huấn luyện tại Nantes và Lille bên Pháp. Ông Polton còn là Phó chủ tịch Hội Đồng Quản Trị. Xét về khía cạnh chánh trị, vì xứ ta trước đó là thuộc địa của Pháp trong gần một thế kỷ nên đa số lãnh đạo người mình đã được đào tạo bên Pháp.
Sau thất bại ở Điện Biên Phủ năm 1952, ảnh hưởng của Pháp dần dần được thay thế bởi sự can thiệp của Mỹ. Tôi là người kỹ sư tốt nghiệp từ MIT đầu tiên làm việc với một nhóm chuyên viên hoàn toàn được đào tạo bên Pháp. Đương nhiên là một số vấn đề giao tế tế nhị đã được đặt ra. Tôi rất cẩn trọng khi trình bày về sự lựa chọn dàn máy thay thế đó. Câu giải thích cho tôi là nồi hơi/boiler hiện hữu không đủ suc để chạy máy tua-bin/turbine loại mới. Tôi phải đối trả với lập luận không mấy chính sác về kỹ thuật nầy. May mắn thay, khi còn ở EBASCO, New York, tôi có làm việc với những dụ án dùng máy tua-bin hơi nước/steam turbine và rất thông thạo về đề tài này. Tôi vững tin vào sự lựa chọn máy tua-bin/turbine tân tiến cho Nhà Máy Đường Hiệp Hòa.
Ông Polton sau đó yêu cầu hãng Fives Lille Cail gởi một kỹ sư lành nghề từ Ba lê qua để bàn luận và giải quyết vấn đề này với tôi. Tôi còn nhớ đã mời ông Pierre Mandois đến từ Ba lê về nhà tôi vào cuối tuần để cùng tôi tính toán cho biết thực hư. Rốt cuộc ông Mandois đồng ý là nồi hơi có đủ sức để chạy máy tua-bin/turbines. Kế đó, ông cùng tôi tới nhà máy Hiệp Hòa để kiểm chứng mọi sự cho chính sác trước khi ông trở về Pháp. Chúng tôi dùng máy bay Cessna của Hàng Không Việt Nam khi di chuyển để tránh bị Việt Cộng phục kích.
Hôm đó, chúng tôi làm tới khuya và phải ngủ tại chỗ nên cho máy bay quay trở về. Ngày hôm sau, nhân viên nhà máy gọi radio về trụ sở chánh của công ty để họ gởi máy bay tới đưa chúng tôi về lại Sài gòn. Họ báo cho trụ sở biết là: “Hãy gởi BERLIET tới Hiệp Hòa ngày mai” BERLIET là tên công ty xe vận tải của Pháp. Sau này tôi được biết là có một vài điệp viên nằm vùng của cộng sản làm tại nhà máy hiểu được mật mã đó.
Ông Mandois và tôi lấy máy bay từ nhà máy về phi trường Tân Sơn Nhứt ở Sài gòn. Chiếc Cessna cất cánh một cách an toan nhưng khi tới cuối phi đạo thì bị mấy du kích Việt Cộng núp trong cánh đồng mía cao bắn tỉa với loại đạn đầu dumdum. Chúng bắn không trúng viên phi công và hành khách. Tôi tức khắc xem đồng hồ xăng thì thấy còn đầy. Phi công gặp vài trở ngại với đuôi lái và dây cáp điều khiển cánh máy bay/wing control cables. Tôi thấy anh ta cho máy bay cat canh lên cao thật lẹ để tránh những viên đạn kế tiếp. Thượng Đế đã cứu sống chúng tôi vì phi trường Sài gòn và Hiệp Hòa cách nhau không bao xa. Nhờ chiếc Cessna nho va nhe nên dù gặp trục trặc máy móc nó cũng có thể lướt một khoảng cách dài. Viên phi công hạ cánh hoi nang/rough landing nhưng mọi người đã thoát khỏi một vụ phục kích của Việt Cộng! Ông Mandois trở về Ba lê để đảm bảo cho dàn máy loại mới được gởi qua đúng thời hạn.
Một bất ngờ khác chờ đợi tôi! Máy tua-bin/turbines do công ty Fives Lille Cail Company chế tạo nhưng việc đúc bánh xe trớn/flywheel cho máy pit-tông hơi nước/steam engine đã được hoàn tất ở bên Pháp rồi. Công ty Pháp gửi tới cho ban quản trị Hiệp Hòa một tập hồ sơ và hình chụp được thị thực để chứng minh họ đang diễn tiến với việc chế tạo dàn máy loại cũ. Nghĩa là Fives Lille ngỏ ý muốn tiếp tục thi hành giao kèo. Tôi phải tới dự một ủy ban của hội đong Tong Truong để bênh vực một lần nữa cho lý do tôi chọn dàn máy mới. Tôi nhắc lại Công Ty Đường đã chọn máy pit-tông hơi nước dựa vào hai lý do: Trước tiên vì nồi hơi củ không đủ suc mạnh để chạy dàn máy mới và sau nữa vì nhân viên ở Hiệp Hòa khong đủ khả năng để chạy máy tua-bin/turbine tân tiến. Fives Lille Cail đã đồng ý với quyết định của tôi dùng máytua-bin/turbine nhưng đòi bồi thường cho những chi phí họ đã chịu cho việc đang chế tạo máy steam engine/pit-tông hơi nước. Tôi bảo vệ lập luận của toi cho rằng lúc nầy xứ mình đang dùng lốp xe có hơi “tubeless”để đi. Muốn được an toàn chúng ta có thể mua lốp xe đặc để tránh bị nạn xẹp lốp nhưng việc đó không thể goi là hiện đại hóa được. Cách giải thích thẳng thắn của tôi dường như có hiệu nghiệm.
Vấn đề kế tiếp của tôi là bảo đảm rằng nền máy bê tông đủ mạnh để chịu được sức nặng của dàn máy tua-bin/turbine mới. Trong khi đó người cộng sản lại luôn muốn gây gián đoạn trong hoạt động của nhà máy để tạo ra nạn thiếu đường ăn và nông dân biểu tình chống chánh phủ vì mía của họ bị hư hao ngoài đong mà không có máy để ep nuoc mia lam đường. Tinh thần tôi bị căng thẳng khủng khiếp vì sự đột nhập của Việt Cộng vào vùng đất bao quanh nhà máy. Chúng cố hết sức cản trở việc chuyên chở những máy móc nặng tới nhà máy. Tôi thì ráng sức làm ngược lại. Con đường chạy tử cảng Sài gòn tới nhà máy có nhiều cầu nhỏ không thể chịu nổi xe vận tải có trọng tải lớn. Tôi chọn giải pháp dùng một đoàn xa-lan để di chuyển máy móc tới nhà máy trên sông Vàm Cổ.
Khó khăn về hậu cần trong thời chiến
Tôi đương phải học hỏi phương cách làm việc trong thời chiến: làm sao chuyên chở máy móc dụng cụ tới nhà máy đường và tránh khỏi bị kẻ địch đánh chìm.
Cao Miên, vùng màu đỏ ở góc trên phía trái trong bản đồ.
Nhà máy đường Hiệp Hòa nằm trong tỉnh Hậu Nghĩa xát biên giới Cao Miên, vùng màu đỏ ở góc trên phía trái trong bản đồ. Địa điểm này trọng yếu đến độ Hải Quân Hoa Kỳ đã đặt một căn cứ Naval Advanced Tactical Support Base (ATSB) để bảo vệ an ninh trong vùng.
U.S. Naval ATSB, Nhà Máy Hiệp Hòa, “Đoàn Hải Giang/the Brown Water Navy”
Nằm cạnh sông Vàm Cổ Đông, về phía tây-bắc Sài gòn, nhà máy đường Hiệp Hòa còn được dùng làm căn cứ ATSB cho lực lượng Hải Quân Hoa Kỳ. Những đoàn tàu giang hải (Patrol Boat/River) luôn đi tuần tiễu trên đoạn sông gần nhà máy trong chiến dịch chống xâm nhập có tên là Operation GIANT SLINGSHOT. Đoàn tàu này có nhiệm vụ ngăn chặn không cho Việt Công đưa người và vũ khí vào vùng thủ đô. Trong khi lính hải quân Mỹ dùng khu nhà máy để ngủ qua đêm, lính công binh/Seabees của họ bắt đầu xây cất những công trình kiến trúc bền vững hơn, hệ thống phòng thủ, kho xăng đạn và bãi đáp cho trực thăng.
Nhóm Hoạt Động Yểm Trợ Hải quân/Naval Support Activities (NSA) là cơ cấu yểm trợ cho Hải Quân Mỹ trong cuộc chiến ở Việt Nam. Dù nằm ở đất liền hay một đơn vị phà nổi trên mặt nưóc, NSA vẫn cung cấp phương tiện chiến đấu cho các tàu chiến hay phi cơ. Nếu không có sự hiện diện của các đơn vị nầy, những tàu bè và phi cơ của Đoàn Giang Hải/Brown Water Navy sẽ không còn tiếp tục hoạt động được nữa.
Những trở ngại về kỹ thuật tôi gặp phải tuy khó khăn nhưng rõ rệt. Ngược lại, sự phà rối của cộng sản tỏ ra nghiêm trọng và nan giải hơn nhiều. Tôi liên lạc với phó đô đốc Chung Tấn Cang, vị tư lệnh Hải Quân Việt Nam, yêu cầu ông cho lính bảo vệ đoàn tàu chuyên chở của tôi từ bến cảng Sài gòn tới nhà máy đường. Vị giám đốc hải cảng Sài gòn là ông Nguyễn Văn Chiểu cung cấp cho chúng tôi một cần trục 60 tấn và chiếc xà-lan lớn nhất của ông có tới 16 ngăn biệt lập nhằm đề phòng trường hợp dù bị Việt Cộng bắn thủng vài ngăn thì chiếc xa-lan vẫn còn nổi được. Dọc hai bên bờ sông, tôi đề nghị các quận trưởng rải lính địa phương quân nằm phục kích để không cho Việt Cộng dùng súng bazooka tấn công đoàn tàu được. Mọi dụng cụ đều có phao gắn vào bởi dây nylon để phòng ngừa nếu bị chìm thì chiếc cần trục trên xà-lan vẫn có thể vớt lên được. Đương nhiên chúng tôi có tàu rà mìn mở đường. Những chìếc tàu tuần cao tốc chạy hộ tống hai bên bờ cản không cho địch tấn công. Trên không, phi cơ quan sát loại nhỏ sẵn sàng báo cáo mọi động tĩnh của địch. Sau cung nhưng không kém quan trọng, tôi hứa với các binh lính sẽ có bữa tiệc ăn mừng một khi đoàn tàu tới nơi an toàn. Ai cũng biết nhà máy Hiệp Hòa dùng mật mía để chế biến rượu rum ngon nhất Việt Nam. Đây quả là một dự án độc đáo và nhiều thử thách nhất trong đoi nghe nghiệp của tôi. Nhờ ơn Thượng Đế, đoàn tàu tới nơi an toàn. Tôi coi đó là một “chiến tích” trong giai đoạn làm việc thời đó. Binh lính và nhân viên nhà máy đã cùng nhau ăn mừng thỏa thích ngày đáng ghi nhớ nầy.
Mỗi năm, nhà máy đường ép mía trong vòng sáu tháng. Đến cuối mùa, nhân viên nhà máy chuyển qua sửa sang, bảo trì hay hiện đại hóa máy móc để sửa soạn cho mùa mía năm tới. Năm 1963 khác hẳn các năm trước ở chỗ công ty quyết định thay thế toàn thể máy móc trong nhà máy đã trở nên cũ kỹ lỗi thời. Công việc kế tiếp của tôi nhằm xây xong nền máy, đặt máy mới và sau cung là chạy thử.
Tôi đâu ngờ rằng mình đang dẵm vào một bãi mìn chánh trị, kỹ thuật và tài chánh với bao hiểm nghèo. Sanh mạng của chính tôi bị đe dọa bởi chánh sách của Việt Cộng muốn cản trở hay phá hủy những nhà máy của chánh phủ nhằm gây ra cảnh thiếu hụt sản phẩm cũng như ngưng trệ phát triển kinh tế. Nếu nhà máy đường ngưng hoạt động thì cả ngàn nông dân sẽ mất công ăn việc làm dễ bề cho chúng lợi dụng thua nước đục thả câu. Chúng muốn đưa nền kinh tế trong nước vào chỗ rối loạn. Qua công việc này tôi rút tỉa được bài học là công việc của một kỹ sư trong thời chiến không chỉ giới hạn trong khía cạnh kỹ thuật mà còn phức tạp hơn nhiều vì phải lo cho an ninh của bản thân va cua du an nữa.
Tôi còn phải đương đầu với một rắc rối chánh trị khác. Đa số những kỹ sư được đào tạo bên Pháp thích làm việc với đồng nghiệp trong nhóm của họ. Vào thời điểm 1958, tôi thuộc thế hệ đầu tiên tốt nghiệp từ Mỹ về làm việc ở Sài gòn. Thật đáng buồn đã có tình trạng ganh đua giữa hai nhóm này trong một xứ cựu thuộc địa Pháp. Tôi cảm thấy bị cô lập ở sở làm. Lúc đó hầu như có một định luật bất thành văn là ai xuất thân từ những trường nổi tiếng”Grandes Écoles” ở Ba lê sẽ nắm địa vi then chốt trong guồng máy chánh quyền ở Sài gòn. Là người kỹ sư đầu tiên từ MIT về làm việc với nhóm đồng nghiệp như vậy không phải dễ dàng đâu. Tôi thường phải tiếp xúc với nhân viên của Nhà Máy Đường Hiệp Hòa hay Nhà Máy Lọc Đường ở Khánh Hội gần thương cảng Sài gòn. Toàn thể nhóm lãnh đạo tại hai nơi đó đều tốt nghiệp từ các đại học Pháp còn ông Polton, Phó chủ tịch Hội Đồng Quản Trị, là cựu sinh viên của trường nổi tiếng École Polytechnique ở Ba lê. Làm việc trong một môi trường nhiều ganh đua như vậy, tôi phải rất cẩn trọng khi quyết định việc gì để tránh bị xa lầy trong khi làm việc. Ngược lại, nhìn qua ống kính tích cực hơn, sự ganh đua nầy lại giúp tôi trở thành một kỹ sư giỏi va ben nhon hon.
Cảnh chụp nhà máy đường
Trong bức không ảnh trên, Nhà Máy Đường Hiệp Hòa là những căn có mái nhà hình chữ nhật màu trắng ở giữa tấm hình. Nhà máy nằm phía bắc con sông Vàm Cỏ. Khối màu xanh đậm có cây bao bọc là khu gia cư của nhân viên. Con kinh thẳng đường chảy kế bên còn phần màu xám nằm ngang là sông Vàm Cỏ - loai nầy được coi là những “xa lộ” của miền Nam. Những đường thủy được dùng làm đường chuyên chở rẻ tiền đem mía tới nhà máy. Trong mùa mía, kéo dài từ tháng 11 tới tháng 5, lượng mía thâu được lên tới 400,000 tấn đủ để sản xuất khoảng 40,000 tấn đường thô. Cả ngàn mẫu ruộng mía bao quanh nhà máy. Vùng nầy chỉ cách biên giới với Cao Miên 16 cây số và bị Việt Cộng xâm nhập nghiêm trọng.
Máy tua-bin/turbine tân tiến thay thế cho máy pit-tôn hơi nước cổ với bánh xe tron khổng lồ
Máy ep mía với tua-bin/turbines và hộp số
Mía được đưa vào nhà máy
Sông Vàm Co gần Nhà Máy Đường Hiệp Hòa. Những làng nơi đây bị Việt Cộng xâm nhập trong những năm 1960-75
Sông Vàm Cổ Tây gần Nhà Máy Hiệp Hòa với những hố bom do máy bay B-52 rải khap đong
Bom nổ gần nhà máy
Đoàn tầu tiếp liệu từ bến cảng Sài gòn tới nhà máy được quân đội hộ tống
Đồn điền mía ở Hiệp Hòa
Cây mía cao từ 2.4 tới 3 thước. Máy bay Cessna tôi đi bị bắn từ một ruộng mía như vầy
Con sông Vàm Cổ uốn lượn từ Sài gòn tới Nhà Máy Hiệp Hòa
Như đã nói ở trên, chỉ có thể dùng xà-lan để chuyên chở các máy móc của nhà máy trên sông Vàm Cổ vì các chiếc cầu từ bến cảng Sài gòn tới Nhà Máy Đường Hiệp Hòa không chịu nổi sức nặng của chúng. Đây là cơ hội tốt cho Việt Cộng nup hai bên bờ sông dùng Bazooka hay rốc kết bắn chìm xà-lan. Chúng cũng có thể đặt mìn gần những làng mạc do chúng kiểm soát lúc ban đêm. Mỗi ngày mạng sống của tôi thường bị đe dọa. Nhờ tài liệu của CIA được giải mật, rõ ràng là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã đặt bản doanh của họ trên phần đất Cao Miên bên bờ sông Vàm Cổ đối diện với Nhà Máy Đường Hiệp Hòa. Chúng được chánh phủ Cao Miên che chở.
Là Giám đốc Kỹ thuật, tôi thường phải đi từ văn phòng ở Sài gòn tới thăm nhà máy. Mỗi lần đi như vậy, tôi cảm thấy không an toàn chút nào.
Giang thuyền của Hải Quân Hoa Kỳ bảo vệ nhà máy Hiệp Hòa
Giang thuyền của Hải Quân Hoa Kỳ
U.S. Naval ATSB [Advanced Tactical Support Base] bảo vệ nhà máy Hiệp Hòa
(Lấy từ US ARMY NEWS: Tháng mười 1963)
Tài liệu của Quân đội Mỹ dưới đây cho thấy một cách trung thực tình trạng an ninh trong vùng “nóng bỏng” nầy.
“……Vùng khuếch trương kỹ nghệ nầy chẳng bao lâu sau biến thành vùng hành quân tác chiến. Và vào cuối tháng 10, 1963, hệ thống nhận thêm trách nhiệm kiểm soát vùng biên giới [với Cao Miên]...“
“…Căn cứ Lực Lượng Đặc Biệt Hiệp Hòa nằm ở địa điểm chiến lược ngay phía bắc của Highway TL7A và đông của sông Vàm Cỏ Đông trong khu đông dân cư và vùng sôi bỏng Đồng Tháp Mười cách Sài gòn hơn 35 cây số về phía tây-tây bắc và cách Tây Ninh gần 39 cây số về phía nam-đông nam. Nó cũng cách biên giới Việt/Miên khoảng 18 cây số về phía đông và vùng tập họp quân nổi tiếng “Mỏ Vẹt” của Việt Cộng. Căn cứ này đo hai chiều 125 X 100 thước được xây trên một bờ sông có dây kẻm gai bao quanh. Nó được bảo vệ bằng đại liên 30 ly đặt tại bốn góc và hai khẩu súng cối 81 ly bố trí gần các cửa chánh. Có làng mạc, đồn điền mía và ruộng lúa nằm chung quanh.
“…HIỆP HÒA - Từ ngày di chuyển tới vùng Hiệp Hòa gần Nhà Máy Đường, lực lượng phối hợp gồm 2nd Battalion, 27th Infantry, Wolfhounds, tiểu đội trinh sát và Địa Phương Quân của họ (Phía Việt Nam) chứng tôi đã là cái gai góc đối với kẻ thù trong nỗ lực di chuyển người và tiếp liệu của chúng từ các địa điểm tập họp quân của chúng nằm sâu bên Cao Miên. Trong hoạt động gần đây tại miền tây-nam của Fire Support Base Dixon, lực lượng phối hợp đã hạ bốn lính NVA (chính quy Bắc Việt) và khám phá một kho súng ống nhỏ dường như chúng có nhiệm vụ canh gác. Dựa vào tin tình báo có bảy lính NVA ở trong vùng, quân đồng minh bắt đầu lùng xét ở phía nam của FSB Dixon. "Chúng tôi chưa di chuyển được bao xa thì lính đi tiên phong đã nhận ra hai người biến mất vào một cái hố,” Trung úy Robert Barclay of Chamblee, Ga. nhớ lại "Trong lúc chúng tôi đang tiến gần tới vị trí của họ thì một trong hai người đó ném một trái lựu đạn từ trong hố ra.” “Tôi la lớn “lựu đạn” và mọi người nằm xuống. May mắn thay, trái lựu đạn không nổ. Trong khi binh lính của tôi dùng súng nhỏ giữ không cho chúng nhô lên, tôi bò tới và ném một trái lựu đạn vào trong hố.” Chúng tôi kiếm được, ngoài hai xác ra, còn có hai khẩu AK-47, một súng phóng lựu B-40 và sáu rốc kết, một lựu đạn loại Chicom, vài đạn AK và một số thực phẩm. Sau khi nghỉ để ăn, quân lính tiếp tục di chuyển. Lần này chúng tôi nhận ra một lỗ thông hơi nhô trên mặt dất. “Sau khi thấy cái lỗ thông hơi, chúng tôi ném vào đó một trái lựu đạn khói để coi xem còn một lỗ nào khác không,” Trung úy Mark Davis từ San Antonio, Tex. giải thích "Khi thấy khói thoát ra từ lỗ thông hơi khác, chúng tôi khởi sự tiến tới gần thì hai tên NVA ló lên và khai hỏa với súng AK." Cũng như lần trước, quân địch bị loại bằng một trái lựu đạn. Lần này chúng tôi lấy được hai khẩu AK, một số đạn dược súng nhỏ và băng đạn…”
Vào năm 1963, ông Trương văn Tố, Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị, và tôi đi thăm các nhà máy để quan sát những công trình xây cất mới nhất của dự án hiện đại hóa. Chúng tôi đi trên chiếc xe Peugeot 403 bốn cửa do Pháp chế tạo và tin chắc Việt Cộng sẽ cố gắng ám hại chúng tôi để gây tiếng vang trong giới báo chí và chánh trị. Để được an toàn, chúng tôi tới gặp viên đại tá tỉnh trưởng tỉnh Đức Hòa tại văn phòng của ông để xin hộ tống trong chặng nguy hiểm của cuộc hành trình. Ông tỉnh trưởng cho một chiếc xe ngụy trang xe buýt dân sự chở lính mang đầy đủ súng ống để bảo vệ chúng tôi. Khi chúng tôi ra khỏi thành phố, con đường đá ong đỏ bị Việt Cộng đào tại nhiều nơi trong đêm trước. Một dấu hiệu không mấy tốt! Chúng tôi phải chạy chậm lại với tốc độ 8 cây số một giờ. Tại một khúc quanh, cách chúng tôi khoảng 6 thước, ba nông dân mặc bà ba đen thinh linh đứng thẳng lên từ ruộng mía và xả súng vào chúng tôi. Nhờ Thượng Đế, họ bắn trat và liền sau đó bị binh lính trong đoàn hộ tống bắn trả và loại ra khỏi vòng chiến. Tôi thực sự bị mất hồn khi thấy mình gần kề với sự chết như vậy. Đó cũng là lần đầu trong đời tôi chứng kiến tận mắt cảnh giết chóc thế đó. Tôi đi theo lính để lục soát ba người Việt Cộng và chúng tôi thấy được những hình chụp của Hồ Chí Minh, gia đình họ, và tài liệu tuyên truyền trong túi của họ.
Hình chụp một binh lính xét thẻ kiểm tra của nông dân mặc bà ba đen
Vần đề là bất cứ nông dân nào cũng có thể là Việt Cộng ngụy trang. Đoàn xe nhỏ của chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình tới nhà máy an toàn. Trên đường về, tôi rất lo sợ bị Việt Cộng trả thù. Sau vụ phục kích đó, tôi quyết định cho xây một phi đạo dài 800 thước bên cạnh nhà máy để cho nhân viên di chuyển an toàn. Phi đạo được xây bằng đá ong nện. Tất cả các cấp chỉ huy đều phải di chuyển bằng phi cơ nhằm tránh bị bắt cóc. Máy bay cánh quạt bốn chỗ ngối hiệu Cessna của Hàng Không Việt Nam được dùng để chuyên chở họ. Vào ngày trả lương, trụ sở ở Sài gòn chỉ cần cho ném một bọc đựng đầy tiền xuống phi đạo để khỏi lo bị phục kích nếu dùng đường bộ.
Con sông Vàm Cổ, gần nhà máy.
Dân địa phương giả bộ đi câu tập thể để tiếp tế cho Việt Cộng
Con sông Vàm Cổ gần Hiệp Hòa
Cảnh yên bình này lại là nơi sảy ra nhiều phục kích thảm khốc dọc hai bên bờ sông
Nơi sảy ra nhiều phục kích thảm khốc dọc hai bên bờ sông
Ghe chở mía tới nhà máy Hiệp Hòa trên sông Vàm Cổ
Sau ba năm làm việc ở Công Ty Đường Hiệp Hòa tôi học hỏi được gì?
Khi coi một dự án trong thời chiến đã hai lần tôi gần mất mạng: một lần trên không và một lần trên đường bộ. Thành công của tôi tùy thuộc rất nhiều vào sự cộng tác của quân đội và có quá nhiều trở ngại vượt khỏi tầm kiểm soát của tôi. Tôi may mắn gặp nhiều người trở thành bạn tốt cho suốt đời mình. Họ giúp đỡ tôi trong lãnh vực về điện vì tôi chỉ quen thuộc với khía cạnh kỹ thuật co khi mà thôi. Ông Hồ Tấn Phát tổng giám đốc Công Ty Điện Lực Việt Nam và ông Nguyễn Văn Dậu, người cộng tác rất giỏi, đã giúp tôi giải quyết những khúc mắc về điện. Một trong những phần thưởng quý đẹp nhất của tôi là toàn thể các kỹ sư đào tạo ở Pháp tại công ty Đường sau đó đã trở thành bạn lâu dài của tôi mặc dầu có sự ganh đua lúc ban đầu. Thành quả này tùy thuộc phần lớn vào việc giao tế cũng như là tinh thần làm việc đồng đội.
Kinh nghiệm ở Công Ty Đường Hiệp Hòa là một cảnh giác giúp tôi thấy rõ khía cạnh phức tạp và tầm vóc trọng đại của những thử thách miền Nam gặp phải trong lãnh vực kỹ nghệ hóa giữa cuộc chiến điêu tàn. Khi đó, tôi thấu hiểu được là cuộc sống thoải mái và vô tư tôi có khi làm việc với công ty khổng lồ Mỹ ESSO đúng là hời hợt đối với một chuyên viên được đào tạo lành nghề như tôi sống giữa một đất nước đang chìm đắm trong khói lửa tàn khốc. Đó chính là lý do khiến tôi rời bỏ Công Ty Đường Việt Nam để phục vụ chánh phủ đặng có thể trở nên hữu ích hơn cho xứ sở với kiến thức chuyên môn tôi học hỏi ở MIT. Tôi thực sự đã dốc hết sức lực làm việc trong mười năm sau đó trong các chức vụ Giám đốc Trung Tâm Khuếch Trương Kỹ Nghệ, Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Phát Triển Kỹ Nghệ, và Thứ Trưởng Thương Mại và Kỹ Nghệ. Câu chuyện “Đông gặp Tây” của tôi tiếp tục diễn tiến trong chiến tranh tại miền Nam Việt Nam để rồi đột ngột chuyển qua tiểu bang thanh bình Golden State bên Hoa Kỳ./
Còn tiếp
Hồi Ức Khương Hữu Điểu
CHƯƠNG 12
Những Nguy Nan Của Chương Trình Kỹ Nghệ Hóa Trong Thời Chiến
Ở đâu cũng có Việt Cộng!
Vào năm 1961, cộng sản miền Bắc bắt đầu gia tăng cường độ chiến tranh sau khi họ công khai tuyên bố “sẽ giải phóng Miền Nam bằng quân sự cũng như chánh trị.” Vấn đề an ninh vùng thôn quê đã trở thành một nan đề đối với chánh phủ. Sau ba năm làm việc với ESSO, tôi đã học được một mớ kiến thức tốt về quản trị đủ dùng trong suốt đời làm việc của tôi. Tuy nhiên, việc phân phối sản phẩm xăng nhớt từ Sài gòn đi các tỉnh không hề tạo ra thách đố nào cả đối với tôi. Công việc trở nên nhàm chán đối với một kỹ sư đang đi tìm một việc làm có nhiều thử thách trong nghành của mình. Trong khi đó, chánh phủ bắt đầu thi hành chánh sách động viên một cách gay gắt hơn. Những kỹ sư như tôi phải làm cho chánh phủ nếu muốn được hoãn dịch. Tôi quyết định bỏ việc với ESSO trong lãnh vực tư để nhận làm Giám đốc Kỹ thuật với Công Ty Đường Việt Nam, một công ty liên doanh giữa chánh phủ và một số nhà đầu tư Pháp. Công ty nầy nằm ở Hiệp Hòa và là một trong những công ty đường lâu đời và được nhiều người biết đến nhất. Nó cách Sài gòn 50 cây số và chỉ cách biên giới với Cao Miên có 15 cây số thôi. Vùng nầy bị tràn ngập bởi Việt Cộng. Họ có một mật khu an toàn bên bờ sông nằm trên lãnh thổ Cao Miên. Vào ban đêm họ thường pháo kích vào nhà máy hay khu gia cư của nhân viên nhà máy. Mỗi ngày, nhân viên phải đương đầu với các hiểm họa như bắt cóc, ám sát, mìn chôn dọc theo con đường dẫn tới nhà máy hay phục kích các đoàn xe tiếp tế tới nhà máy…quân đôi Mỹ gọi vùng này là “Khu Mỏ Vẹt /Parrot's Beak,” một vùng tập họp quân quan trọng của Việt Cộng. Bản đồ vùng: Dấu thập màu đỏ chỉ địa điểm nhà máy Hiệp Hòa nằm gần biên giới Cao Miên (Lằn đứt đoạn màu đen đậm)
Nhà Máy Đường Hiệp Hòa Được Hiện Đại Hóa
Là Giám đốc Kỹ thuật mới nhậm chức, nhiệm vụ đầu tiên của tôi là duyệt lại dự án hiện đại hóa trị giá hàng triệu Mỹ kim của Nhà Máy Đường Hiệp Hòa. Đơn đặt hàng đã được gửi tới công ty Pháp nổi tiếng Société Fives Lille Cail ở Ba lê. Tôi hết sức ngạc nhiên khi khám phá rằng động cơ pit-tông hơi nước cũ kỹ hiện hữu với một bánh xe trớn khổng lồ có đường kính sáu thước sẽ được thay thế bởi một dàn máy giống hệt như vậy. Đúng ra, nên thay thế bằng một máy tua-bin hơi nước/steam turbine vì nó hợp lý hơn trên phương diện kỹ thuật cũng như tài chánh. Trên thực tế, người ta đã ngưng xử dụng loại máy pit-tông hơi nước kềnh càng nầy từ lâu rồi. Không khác chi đem so sánh máy chạy bằng pit-tông/piston engine với máy chạy động cơ phản lực/jet engine vậy. Nhóm chuyên viên có trách nhiệm chọn mua máy thay thế trước đó gồm ông kỹ sư lão thành người Pháp tên là Mr. Polton xuất thân từ trường nổi tiếng École Polytechnique (Paris) cùng một số kỹ sư Việt được huấn luyện tại Nantes và Lille bên Pháp. Ông Polton còn là Phó chủ tịch Hội Đồng Quản Trị. Xét về khía cạnh chánh trị, vì xứ ta trước đó là thuộc địa của Pháp trong gần một thế kỷ nên đa số lãnh đạo người mình đã được đào tạo bên Pháp.
Sau thất bại ở Điện Biên Phủ năm 1952, ảnh hưởng của Pháp dần dần được thay thế bởi sự can thiệp của Mỹ. Tôi là người kỹ sư tốt nghiệp từ MIT đầu tiên làm việc với một nhóm chuyên viên hoàn toàn được đào tạo bên Pháp. Đương nhiên là một số vấn đề giao tế tế nhị đã được đặt ra. Tôi rất cẩn trọng khi trình bày về sự lựa chọn dàn máy thay thế đó. Câu giải thích cho tôi là nồi hơi/boiler hiện hữu không đủ suc để chạy máy tua-bin/turbine loại mới. Tôi phải đối trả với lập luận không mấy chính sác về kỹ thuật nầy. May mắn thay, khi còn ở EBASCO, New York, tôi có làm việc với những dụ án dùng máy tua-bin hơi nước/steam turbine và rất thông thạo về đề tài này. Tôi vững tin vào sự lựa chọn máy tua-bin/turbine tân tiến cho Nhà Máy Đường Hiệp Hòa.
Ông Polton sau đó yêu cầu hãng Fives Lille Cail gởi một kỹ sư lành nghề từ Ba lê qua để bàn luận và giải quyết vấn đề này với tôi. Tôi còn nhớ đã mời ông Pierre Mandois đến từ Ba lê về nhà tôi vào cuối tuần để cùng tôi tính toán cho biết thực hư. Rốt cuộc ông Mandois đồng ý là nồi hơi có đủ sức để chạy máy tua-bin/turbines. Kế đó, ông cùng tôi tới nhà máy Hiệp Hòa để kiểm chứng mọi sự cho chính sác trước khi ông trở về Pháp. Chúng tôi dùng máy bay Cessna của Hàng Không Việt Nam khi di chuyển để tránh bị Việt Cộng phục kích.
Hôm đó, chúng tôi làm tới khuya và phải ngủ tại chỗ nên cho máy bay quay trở về. Ngày hôm sau, nhân viên nhà máy gọi radio về trụ sở chánh của công ty để họ gởi máy bay tới đưa chúng tôi về lại Sài gòn. Họ báo cho trụ sở biết là: “Hãy gởi BERLIET tới Hiệp Hòa ngày mai” BERLIET là tên công ty xe vận tải của Pháp. Sau này tôi được biết là có một vài điệp viên nằm vùng của cộng sản làm tại nhà máy hiểu được mật mã đó.
Ông Mandois và tôi lấy máy bay từ nhà máy về phi trường Tân Sơn Nhứt ở Sài gòn. Chiếc Cessna cất cánh một cách an toan nhưng khi tới cuối phi đạo thì bị mấy du kích Việt Cộng núp trong cánh đồng mía cao bắn tỉa với loại đạn đầu dumdum. Chúng bắn không trúng viên phi công và hành khách. Tôi tức khắc xem đồng hồ xăng thì thấy còn đầy. Phi công gặp vài trở ngại với đuôi lái và dây cáp điều khiển cánh máy bay/wing control cables. Tôi thấy anh ta cho máy bay cat canh lên cao thật lẹ để tránh những viên đạn kế tiếp. Thượng Đế đã cứu sống chúng tôi vì phi trường Sài gòn và Hiệp Hòa cách nhau không bao xa. Nhờ chiếc Cessna nho va nhe nên dù gặp trục trặc máy móc nó cũng có thể lướt một khoảng cách dài. Viên phi công hạ cánh hoi nang/rough landing nhưng mọi người đã thoát khỏi một vụ phục kích của Việt Cộng! Ông Mandois trở về Ba lê để đảm bảo cho dàn máy loại mới được gởi qua đúng thời hạn.
Một bất ngờ khác chờ đợi tôi! Máy tua-bin/turbines do công ty Fives Lille Cail Company chế tạo nhưng việc đúc bánh xe trớn/flywheel cho máy pit-tông hơi nước/steam engine đã được hoàn tất ở bên Pháp rồi. Công ty Pháp gửi tới cho ban quản trị Hiệp Hòa một tập hồ sơ và hình chụp được thị thực để chứng minh họ đang diễn tiến với việc chế tạo dàn máy loại cũ. Nghĩa là Fives Lille ngỏ ý muốn tiếp tục thi hành giao kèo. Tôi phải tới dự một ủy ban của hội đong Tong Truong để bênh vực một lần nữa cho lý do tôi chọn dàn máy mới. Tôi nhắc lại Công Ty Đường đã chọn máy pit-tông hơi nước dựa vào hai lý do: Trước tiên vì nồi hơi củ không đủ suc mạnh để chạy dàn máy mới và sau nữa vì nhân viên ở Hiệp Hòa khong đủ khả năng để chạy máy tua-bin/turbine tân tiến. Fives Lille Cail đã đồng ý với quyết định của tôi dùng máytua-bin/turbine nhưng đòi bồi thường cho những chi phí họ đã chịu cho việc đang chế tạo máy steam engine/pit-tông hơi nước. Tôi bảo vệ lập luận của toi cho rằng lúc nầy xứ mình đang dùng lốp xe có hơi “tubeless”để đi. Muốn được an toàn chúng ta có thể mua lốp xe đặc để tránh bị nạn xẹp lốp nhưng việc đó không thể goi là hiện đại hóa được. Cách giải thích thẳng thắn của tôi dường như có hiệu nghiệm.
Vấn đề kế tiếp của tôi là bảo đảm rằng nền máy bê tông đủ mạnh để chịu được sức nặng của dàn máy tua-bin/turbine mới. Trong khi đó người cộng sản lại luôn muốn gây gián đoạn trong hoạt động của nhà máy để tạo ra nạn thiếu đường ăn và nông dân biểu tình chống chánh phủ vì mía của họ bị hư hao ngoài đong mà không có máy để ep nuoc mia lam đường. Tinh thần tôi bị căng thẳng khủng khiếp vì sự đột nhập của Việt Cộng vào vùng đất bao quanh nhà máy. Chúng cố hết sức cản trở việc chuyên chở những máy móc nặng tới nhà máy. Tôi thì ráng sức làm ngược lại. Con đường chạy tử cảng Sài gòn tới nhà máy có nhiều cầu nhỏ không thể chịu nổi xe vận tải có trọng tải lớn. Tôi chọn giải pháp dùng một đoàn xa-lan để di chuyển máy móc tới nhà máy trên sông Vàm Cổ.
Khó khăn về hậu cần trong thời chiến
Tôi đương phải học hỏi phương cách làm việc trong thời chiến: làm sao chuyên chở máy móc dụng cụ tới nhà máy đường và tránh khỏi bị kẻ địch đánh chìm.
Cao Miên, vùng màu đỏ ở góc trên phía trái trong bản đồ.
Nhà máy đường Hiệp Hòa nằm trong tỉnh Hậu Nghĩa xát biên giới Cao Miên, vùng màu đỏ ở góc trên phía trái trong bản đồ. Địa điểm này trọng yếu đến độ Hải Quân Hoa Kỳ đã đặt một căn cứ Naval Advanced Tactical Support Base (ATSB) để bảo vệ an ninh trong vùng.
U.S. Naval ATSB, Nhà Máy Hiệp Hòa, “Đoàn Hải Giang/the Brown Water Navy”
Nằm cạnh sông Vàm Cổ Đông, về phía tây-bắc Sài gòn, nhà máy đường Hiệp Hòa còn được dùng làm căn cứ ATSB cho lực lượng Hải Quân Hoa Kỳ. Những đoàn tàu giang hải (Patrol Boat/River) luôn đi tuần tiễu trên đoạn sông gần nhà máy trong chiến dịch chống xâm nhập có tên là Operation GIANT SLINGSHOT. Đoàn tàu này có nhiệm vụ ngăn chặn không cho Việt Công đưa người và vũ khí vào vùng thủ đô. Trong khi lính hải quân Mỹ dùng khu nhà máy để ngủ qua đêm, lính công binh/Seabees của họ bắt đầu xây cất những công trình kiến trúc bền vững hơn, hệ thống phòng thủ, kho xăng đạn và bãi đáp cho trực thăng.
Nhóm Hoạt Động Yểm Trợ Hải quân/Naval Support Activities (NSA) là cơ cấu yểm trợ cho Hải Quân Mỹ trong cuộc chiến ở Việt Nam. Dù nằm ở đất liền hay một đơn vị phà nổi trên mặt nưóc, NSA vẫn cung cấp phương tiện chiến đấu cho các tàu chiến hay phi cơ. Nếu không có sự hiện diện của các đơn vị nầy, những tàu bè và phi cơ của Đoàn Giang Hải/Brown Water Navy sẽ không còn tiếp tục hoạt động được nữa.
Những trở ngại về kỹ thuật tôi gặp phải tuy khó khăn nhưng rõ rệt. Ngược lại, sự phà rối của cộng sản tỏ ra nghiêm trọng và nan giải hơn nhiều. Tôi liên lạc với phó đô đốc Chung Tấn Cang, vị tư lệnh Hải Quân Việt Nam, yêu cầu ông cho lính bảo vệ đoàn tàu chuyên chở của tôi từ bến cảng Sài gòn tới nhà máy đường. Vị giám đốc hải cảng Sài gòn là ông Nguyễn Văn Chiểu cung cấp cho chúng tôi một cần trục 60 tấn và chiếc xà-lan lớn nhất của ông có tới 16 ngăn biệt lập nhằm đề phòng trường hợp dù bị Việt Cộng bắn thủng vài ngăn thì chiếc xa-lan vẫn còn nổi được. Dọc hai bên bờ sông, tôi đề nghị các quận trưởng rải lính địa phương quân nằm phục kích để không cho Việt Cộng dùng súng bazooka tấn công đoàn tàu được. Mọi dụng cụ đều có phao gắn vào bởi dây nylon để phòng ngừa nếu bị chìm thì chiếc cần trục trên xà-lan vẫn có thể vớt lên được. Đương nhiên chúng tôi có tàu rà mìn mở đường. Những chìếc tàu tuần cao tốc chạy hộ tống hai bên bờ cản không cho địch tấn công. Trên không, phi cơ quan sát loại nhỏ sẵn sàng báo cáo mọi động tĩnh của địch. Sau cung nhưng không kém quan trọng, tôi hứa với các binh lính sẽ có bữa tiệc ăn mừng một khi đoàn tàu tới nơi an toàn. Ai cũng biết nhà máy Hiệp Hòa dùng mật mía để chế biến rượu rum ngon nhất Việt Nam. Đây quả là một dự án độc đáo và nhiều thử thách nhất trong đoi nghe nghiệp của tôi. Nhờ ơn Thượng Đế, đoàn tàu tới nơi an toàn. Tôi coi đó là một “chiến tích” trong giai đoạn làm việc thời đó. Binh lính và nhân viên nhà máy đã cùng nhau ăn mừng thỏa thích ngày đáng ghi nhớ nầy.
Mỗi năm, nhà máy đường ép mía trong vòng sáu tháng. Đến cuối mùa, nhân viên nhà máy chuyển qua sửa sang, bảo trì hay hiện đại hóa máy móc để sửa soạn cho mùa mía năm tới. Năm 1963 khác hẳn các năm trước ở chỗ công ty quyết định thay thế toàn thể máy móc trong nhà máy đã trở nên cũ kỹ lỗi thời. Công việc kế tiếp của tôi nhằm xây xong nền máy, đặt máy mới và sau cung là chạy thử.
Tôi đâu ngờ rằng mình đang dẵm vào một bãi mìn chánh trị, kỹ thuật và tài chánh với bao hiểm nghèo. Sanh mạng của chính tôi bị đe dọa bởi chánh sách của Việt Cộng muốn cản trở hay phá hủy những nhà máy của chánh phủ nhằm gây ra cảnh thiếu hụt sản phẩm cũng như ngưng trệ phát triển kinh tế. Nếu nhà máy đường ngưng hoạt động thì cả ngàn nông dân sẽ mất công ăn việc làm dễ bề cho chúng lợi dụng thua nước đục thả câu. Chúng muốn đưa nền kinh tế trong nước vào chỗ rối loạn. Qua công việc này tôi rút tỉa được bài học là công việc của một kỹ sư trong thời chiến không chỉ giới hạn trong khía cạnh kỹ thuật mà còn phức tạp hơn nhiều vì phải lo cho an ninh của bản thân va cua du an nữa.
Tôi còn phải đương đầu với một rắc rối chánh trị khác. Đa số những kỹ sư được đào tạo bên Pháp thích làm việc với đồng nghiệp trong nhóm của họ. Vào thời điểm 1958, tôi thuộc thế hệ đầu tiên tốt nghiệp từ Mỹ về làm việc ở Sài gòn. Thật đáng buồn đã có tình trạng ganh đua giữa hai nhóm này trong một xứ cựu thuộc địa Pháp. Tôi cảm thấy bị cô lập ở sở làm. Lúc đó hầu như có một định luật bất thành văn là ai xuất thân từ những trường nổi tiếng”Grandes Écoles” ở Ba lê sẽ nắm địa vi then chốt trong guồng máy chánh quyền ở Sài gòn. Là người kỹ sư đầu tiên từ MIT về làm việc với nhóm đồng nghiệp như vậy không phải dễ dàng đâu. Tôi thường phải tiếp xúc với nhân viên của Nhà Máy Đường Hiệp Hòa hay Nhà Máy Lọc Đường ở Khánh Hội gần thương cảng Sài gòn. Toàn thể nhóm lãnh đạo tại hai nơi đó đều tốt nghiệp từ các đại học Pháp còn ông Polton, Phó chủ tịch Hội Đồng Quản Trị, là cựu sinh viên của trường nổi tiếng École Polytechnique ở Ba lê. Làm việc trong một môi trường nhiều ganh đua như vậy, tôi phải rất cẩn trọng khi quyết định việc gì để tránh bị xa lầy trong khi làm việc. Ngược lại, nhìn qua ống kính tích cực hơn, sự ganh đua nầy lại giúp tôi trở thành một kỹ sư giỏi va ben nhon hon.
Cảnh chụp nhà máy đường
Trong bức không ảnh trên, Nhà Máy Đường Hiệp Hòa là những căn có mái nhà hình chữ nhật màu trắng ở giữa tấm hình. Nhà máy nằm phía bắc con sông Vàm Cỏ. Khối màu xanh đậm có cây bao bọc là khu gia cư của nhân viên. Con kinh thẳng đường chảy kế bên còn phần màu xám nằm ngang là sông Vàm Cỏ - loai nầy được coi là những “xa lộ” của miền Nam. Những đường thủy được dùng làm đường chuyên chở rẻ tiền đem mía tới nhà máy. Trong mùa mía, kéo dài từ tháng 11 tới tháng 5, lượng mía thâu được lên tới 400,000 tấn đủ để sản xuất khoảng 40,000 tấn đường thô. Cả ngàn mẫu ruộng mía bao quanh nhà máy. Vùng nầy chỉ cách biên giới với Cao Miên 16 cây số và bị Việt Cộng xâm nhập nghiêm trọng.
Máy tua-bin/turbine tân tiến thay thế cho máy pit-tôn hơi nước cổ với bánh xe tron khổng lồ
Máy ep mía với tua-bin/turbines và hộp số
Mía được đưa vào nhà máy
Sông Vàm Co gần Nhà Máy Đường Hiệp Hòa. Những làng nơi đây bị Việt Cộng xâm nhập trong những năm 1960-75
Sông Vàm Cổ Tây gần Nhà Máy Hiệp Hòa với những hố bom do máy bay B-52 rải khap đong
Bom nổ gần nhà máy
Đoàn tầu tiếp liệu từ bến cảng Sài gòn tới nhà máy được quân đội hộ tống
Đồn điền mía ở Hiệp Hòa
Cây mía cao từ 2.4 tới 3 thước. Máy bay Cessna tôi đi bị bắn từ một ruộng mía như vầy
Con sông Vàm Cổ uốn lượn từ Sài gòn tới Nhà Máy Hiệp Hòa
Như đã nói ở trên, chỉ có thể dùng xà-lan để chuyên chở các máy móc của nhà máy trên sông Vàm Cổ vì các chiếc cầu từ bến cảng Sài gòn tới Nhà Máy Đường Hiệp Hòa không chịu nổi sức nặng của chúng. Đây là cơ hội tốt cho Việt Cộng nup hai bên bờ sông dùng Bazooka hay rốc kết bắn chìm xà-lan. Chúng cũng có thể đặt mìn gần những làng mạc do chúng kiểm soát lúc ban đêm. Mỗi ngày mạng sống của tôi thường bị đe dọa. Nhờ tài liệu của CIA được giải mật, rõ ràng là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã đặt bản doanh của họ trên phần đất Cao Miên bên bờ sông Vàm Cổ đối diện với Nhà Máy Đường Hiệp Hòa. Chúng được chánh phủ Cao Miên che chở.
Là Giám đốc Kỹ thuật, tôi thường phải đi từ văn phòng ở Sài gòn tới thăm nhà máy. Mỗi lần đi như vậy, tôi cảm thấy không an toàn chút nào.
Giang thuyền của Hải Quân Hoa Kỳ bảo vệ nhà máy Hiệp Hòa
Giang thuyền của Hải Quân Hoa Kỳ
U.S. Naval ATSB [Advanced Tactical Support Base] bảo vệ nhà máy Hiệp Hòa
(Lấy từ US ARMY NEWS: Tháng mười 1963)
Tài liệu của Quân đội Mỹ dưới đây cho thấy một cách trung thực tình trạng an ninh trong vùng “nóng bỏng” nầy.
HIỆP HÒA
“……Vùng khuếch trương kỹ nghệ nầy chẳng bao lâu sau biến thành vùng hành quân tác chiến. Và vào cuối tháng 10, 1963, hệ thống nhận thêm trách nhiệm kiểm soát vùng biên giới [với Cao Miên]...“
“…Căn cứ Lực Lượng Đặc Biệt Hiệp Hòa nằm ở địa điểm chiến lược ngay phía bắc của Highway TL7A và đông của sông Vàm Cỏ Đông trong khu đông dân cư và vùng sôi bỏng Đồng Tháp Mười cách Sài gòn hơn 35 cây số về phía tây-tây bắc và cách Tây Ninh gần 39 cây số về phía nam-đông nam. Nó cũng cách biên giới Việt/Miên khoảng 18 cây số về phía đông và vùng tập họp quân nổi tiếng “Mỏ Vẹt” của Việt Cộng. Căn cứ này đo hai chiều 125 X 100 thước được xây trên một bờ sông có dây kẻm gai bao quanh. Nó được bảo vệ bằng đại liên 30 ly đặt tại bốn góc và hai khẩu súng cối 81 ly bố trí gần các cửa chánh. Có làng mạc, đồn điền mía và ruộng lúa nằm chung quanh.
“…HIỆP HÒA - Từ ngày di chuyển tới vùng Hiệp Hòa gần Nhà Máy Đường, lực lượng phối hợp gồm 2nd Battalion, 27th Infantry, Wolfhounds, tiểu đội trinh sát và Địa Phương Quân của họ (Phía Việt Nam) chứng tôi đã là cái gai góc đối với kẻ thù trong nỗ lực di chuyển người và tiếp liệu của chúng từ các địa điểm tập họp quân của chúng nằm sâu bên Cao Miên. Trong hoạt động gần đây tại miền tây-nam của Fire Support Base Dixon, lực lượng phối hợp đã hạ bốn lính NVA (chính quy Bắc Việt) và khám phá một kho súng ống nhỏ dường như chúng có nhiệm vụ canh gác. Dựa vào tin tình báo có bảy lính NVA ở trong vùng, quân đồng minh bắt đầu lùng xét ở phía nam của FSB Dixon. "Chúng tôi chưa di chuyển được bao xa thì lính đi tiên phong đã nhận ra hai người biến mất vào một cái hố,” Trung úy Robert Barclay of Chamblee, Ga. nhớ lại "Trong lúc chúng tôi đang tiến gần tới vị trí của họ thì một trong hai người đó ném một trái lựu đạn từ trong hố ra.” “Tôi la lớn “lựu đạn” và mọi người nằm xuống. May mắn thay, trái lựu đạn không nổ. Trong khi binh lính của tôi dùng súng nhỏ giữ không cho chúng nhô lên, tôi bò tới và ném một trái lựu đạn vào trong hố.” Chúng tôi kiếm được, ngoài hai xác ra, còn có hai khẩu AK-47, một súng phóng lựu B-40 và sáu rốc kết, một lựu đạn loại Chicom, vài đạn AK và một số thực phẩm. Sau khi nghỉ để ăn, quân lính tiếp tục di chuyển. Lần này chúng tôi nhận ra một lỗ thông hơi nhô trên mặt dất. “Sau khi thấy cái lỗ thông hơi, chúng tôi ném vào đó một trái lựu đạn khói để coi xem còn một lỗ nào khác không,” Trung úy Mark Davis từ San Antonio, Tex. giải thích "Khi thấy khói thoát ra từ lỗ thông hơi khác, chúng tôi khởi sự tiến tới gần thì hai tên NVA ló lên và khai hỏa với súng AK." Cũng như lần trước, quân địch bị loại bằng một trái lựu đạn. Lần này chúng tôi lấy được hai khẩu AK, một số đạn dược súng nhỏ và băng đạn…”
Vào năm 1963, ông Trương văn Tố, Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị, và tôi đi thăm các nhà máy để quan sát những công trình xây cất mới nhất của dự án hiện đại hóa. Chúng tôi đi trên chiếc xe Peugeot 403 bốn cửa do Pháp chế tạo và tin chắc Việt Cộng sẽ cố gắng ám hại chúng tôi để gây tiếng vang trong giới báo chí và chánh trị. Để được an toàn, chúng tôi tới gặp viên đại tá tỉnh trưởng tỉnh Đức Hòa tại văn phòng của ông để xin hộ tống trong chặng nguy hiểm của cuộc hành trình. Ông tỉnh trưởng cho một chiếc xe ngụy trang xe buýt dân sự chở lính mang đầy đủ súng ống để bảo vệ chúng tôi. Khi chúng tôi ra khỏi thành phố, con đường đá ong đỏ bị Việt Cộng đào tại nhiều nơi trong đêm trước. Một dấu hiệu không mấy tốt! Chúng tôi phải chạy chậm lại với tốc độ 8 cây số một giờ. Tại một khúc quanh, cách chúng tôi khoảng 6 thước, ba nông dân mặc bà ba đen thinh linh đứng thẳng lên từ ruộng mía và xả súng vào chúng tôi. Nhờ Thượng Đế, họ bắn trat và liền sau đó bị binh lính trong đoàn hộ tống bắn trả và loại ra khỏi vòng chiến. Tôi thực sự bị mất hồn khi thấy mình gần kề với sự chết như vậy. Đó cũng là lần đầu trong đời tôi chứng kiến tận mắt cảnh giết chóc thế đó. Tôi đi theo lính để lục soát ba người Việt Cộng và chúng tôi thấy được những hình chụp của Hồ Chí Minh, gia đình họ, và tài liệu tuyên truyền trong túi của họ.
Hình chụp một binh lính xét thẻ kiểm tra của nông dân mặc bà ba đen
Vần đề là bất cứ nông dân nào cũng có thể là Việt Cộng ngụy trang. Đoàn xe nhỏ của chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình tới nhà máy an toàn. Trên đường về, tôi rất lo sợ bị Việt Cộng trả thù. Sau vụ phục kích đó, tôi quyết định cho xây một phi đạo dài 800 thước bên cạnh nhà máy để cho nhân viên di chuyển an toàn. Phi đạo được xây bằng đá ong nện. Tất cả các cấp chỉ huy đều phải di chuyển bằng phi cơ nhằm tránh bị bắt cóc. Máy bay cánh quạt bốn chỗ ngối hiệu Cessna của Hàng Không Việt Nam được dùng để chuyên chở họ. Vào ngày trả lương, trụ sở ở Sài gòn chỉ cần cho ném một bọc đựng đầy tiền xuống phi đạo để khỏi lo bị phục kích nếu dùng đường bộ.
Con sông Vàm Cổ, gần nhà máy.
Dân địa phương giả bộ đi câu tập thể để tiếp tế cho Việt Cộng
Con sông Vàm Cổ gần Hiệp Hòa
Cảnh yên bình này lại là nơi sảy ra nhiều phục kích thảm khốc dọc hai bên bờ sông
Nơi sảy ra nhiều phục kích thảm khốc dọc hai bên bờ sông
Ghe chở mía tới nhà máy Hiệp Hòa trên sông Vàm Cổ
Sau ba năm làm việc ở Công Ty Đường Hiệp Hòa tôi học hỏi được gì?
Khi coi một dự án trong thời chiến đã hai lần tôi gần mất mạng: một lần trên không và một lần trên đường bộ. Thành công của tôi tùy thuộc rất nhiều vào sự cộng tác của quân đội và có quá nhiều trở ngại vượt khỏi tầm kiểm soát của tôi. Tôi may mắn gặp nhiều người trở thành bạn tốt cho suốt đời mình. Họ giúp đỡ tôi trong lãnh vực về điện vì tôi chỉ quen thuộc với khía cạnh kỹ thuật co khi mà thôi. Ông Hồ Tấn Phát tổng giám đốc Công Ty Điện Lực Việt Nam và ông Nguyễn Văn Dậu, người cộng tác rất giỏi, đã giúp tôi giải quyết những khúc mắc về điện. Một trong những phần thưởng quý đẹp nhất của tôi là toàn thể các kỹ sư đào tạo ở Pháp tại công ty Đường sau đó đã trở thành bạn lâu dài của tôi mặc dầu có sự ganh đua lúc ban đầu. Thành quả này tùy thuộc phần lớn vào việc giao tế cũng như là tinh thần làm việc đồng đội.
Kinh nghiệm ở Công Ty Đường Hiệp Hòa là một cảnh giác giúp tôi thấy rõ khía cạnh phức tạp và tầm vóc trọng đại của những thử thách miền Nam gặp phải trong lãnh vực kỹ nghệ hóa giữa cuộc chiến điêu tàn. Khi đó, tôi thấu hiểu được là cuộc sống thoải mái và vô tư tôi có khi làm việc với công ty khổng lồ Mỹ ESSO đúng là hời hợt đối với một chuyên viên được đào tạo lành nghề như tôi sống giữa một đất nước đang chìm đắm trong khói lửa tàn khốc. Đó chính là lý do khiến tôi rời bỏ Công Ty Đường Việt Nam để phục vụ chánh phủ đặng có thể trở nên hữu ích hơn cho xứ sở với kiến thức chuyên môn tôi học hỏi ở MIT. Tôi thực sự đã dốc hết sức lực làm việc trong mười năm sau đó trong các chức vụ Giám đốc Trung Tâm Khuếch Trương Kỹ Nghệ, Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Phát Triển Kỹ Nghệ, và Thứ Trưởng Thương Mại và Kỹ Nghệ. Câu chuyện “Đông gặp Tây” của tôi tiếp tục diễn tiến trong chiến tranh tại miền Nam Việt Nam để rồi đột ngột chuyển qua tiểu bang thanh bình Golden State bên Hoa Kỳ./
Còn tiếp