Thử nhìn vào khủng hoảng văn học VN qua Kiều và Nietzsche

04 Tháng Ba 20218:11 SA(Xem: 4348)

VĂN HÓA ONLINE - VĂN HÓA LỊCH SỬ - THỨ NĂM 04 MAR 2021

Ý kiến-Bài vở vui lòng gởi về:  lykientrucvh@gmail.com (VănHóa Online-California)


Thử nhìn vào khủng hoảng văn học Việt Nam qua Kiều và Nietzsche


  • TS Nguyễn Hữu Liêm
  • Gửi đến BBC từ San Jose, Hoa Kỳ


04/3/2021


Cái tật của bọn học giả, nói như Friedrich Nietzsche (1844-1900), là không viết lên được gì nếu không dựa trên trích dẫn từ sách vở.


image003Chụp lại hình ảnh, Friedrich Nietzsche, qua đời năm 1900, được cho là một trong số các nhà tư tưởng lớn nhất của nhân loại thế kỷ 19


"Bọn họ quá lạnh lùng. Mong cho sét đánh ngay vào thức ăn của họ để mồm miệng chúng biết ăn món lửa," Nietzsche viết.


Thế còn nhà văn? Tính sáng tạo của nhà văn là khả năng nấu nướng những gì có sẵn thành một món ăn mới. Còn những thể loại văn chương thiếu chiều sâu thì chỉ biết đem những vật liệu còn sống, chưa được nấu, để như vậy và chỉ bày biện thành món ăn với thật nhiều gia vị.


Có lẽ đây là giá trị của văn chương bình dân và phổ thông. Nó mang phẩm chất tươi mát ở nơi kỹ thuật trình bày đơn sơ và trần trụi. Nhưng chính đó cũng là khuyết điểm lớn - những trạng thái sống sượng từ sự kiện chưa được nấu nướng và chuyển hóa bằng ngữ văn.


Văn học Việt thiếu vắng tư tưởng


Văn chương Việt Nam - "Văn Lang" - là một thể loại phong hóa bình dân - một quá trình dàn dựng sự thể của sự kiện nhân sinh vào một mâm cỗ ngôn ngữ, cho thêm nhiều gia vị, và không được chuyển hóa. Người ăn mâm cỗ văn thơ tiếng Việt phải chấp nhận cái tươi mát và sống sượng của cuộc đời làm thực phẩm cho mình.


Và dù độc giả có nhận thấy sự giới hạn và nghèo nàn của chúng, họ cũng không có chọn lựa nào vì con người và văn chương Việt Nam chưa bước lên tới bình diện tư tưởng để chuyển hóa sự thể sống sượng ở sự đời. Người đọc văn tiếng Việt phải ngậm đắng nuốt cay mà tiếp thu phong hóa văn chương nầy.


Khi chúng ta đi vào thế giới ngôn ngữ nơi sách vở, cái cần thiết là tư tưởng - khi cuộc đời đã được thăng biến lên bình diện phạm trù. Văn chương Việt Nam thiếu cái đó. Nó cứ dọn những bữa ăn sống và tươi và đổ lên thật nhiều gia vị. Đối với trái cây hay sà lách thì được. Nhưng lịch sử và con người Việt Nam là thịt, là cá, là gạo đang phơi trần trong khí hậu nhiệt đới. Nếu không nấu, không chuyển hóa, người dùng bữa sẽ dễ bị bội thực và ngộ độc. Văn hóa Việt Nam đang bị bội thực và ngộ độc vì khả năng tri thức dân tộc chỉ dừng lại ở biên giới văn chương - thể loại văn chương thuần diễn tả.


Hãy nhìn Việt Nam gần suốt thế kỷ qua cho đến hôm nay. Lâu lắm mới có một vài tác giả viết về tư tưởng, nhưng phần lớn thiếu sáng tạo, và rồi bị bỏ quên. Trước 1975, ở ngoài Bắc thì chỉ có học thuyết Marx-Lenin, vốn không thể gọi là tư tưởng vì không có tự do tư duy; còn trong Nam thì một chút ít triết học hiện sinh từ Âu Châu nặng chất văn chương được bày biện sơ sài trên các mâm cỗ thức ăn chưa được nấu, sống sượng và lỏng lẻo.


Cho đến giờ này, trí thức Việt hầu hình như vẫn chỉ làm được ba chuyện: Làm thơ, viết truyện ngắn dạng mô tả, và dịch sách ngoại ngữ.


Chúng ta phải mang ơn và trân trọng trí thức và văn nghệ sĩ Việt. Tuy nhiên, vấn đề là ở ngay cả thượng tầng trí thức Việt Nam, họ còn thiếu sáng tạo trầm trọng. Tất cả tạo nên một nền văn hóa chữ nghĩa thuần trích mượn - a throughoutly derivative intellectual culture...Các tạp chí ở hải ngoại, kể cả các mạng điện tử, đều cũng chỉ chia chung một màn kịch - và trò chơi - văn học. Cả một cộng đồng ngôn ngữ tiếng Việt bị hút hồn trong cơn say thi ca và văn chương nhẹ cân và thiếu chiều sâu nầy.


Đây có phải là một định mệnh Văn hóa?


Nói như thế có bất công chăng! Đến đây chắc có người sẽ phản biện rằng, văn chương là gì nếu không phải là những chuyện kể. Nó khác với triết học hay tư tưởng - vì thơ văn khai sáng cuộc đời từ một góc độ tiếp cận khác. Đòi hỏi thơ văn phải như là những luận đề triết học hay lịch sử, văn hóa, là lạc đề - và chưa nắm được yếu tính văn học. Văn chương mang mầu sắc triết học chỉ là một hình thức làm dáng!


Xin trả lời: Vâng, tùy tầm nhìn. Nếu ta muốn văn chương Việt nằm mãi ở trình độ diễn tả sự kiện như những chuyện kể cho giới bình dân thì không có gì để bàn đến. Nhưng nếu ta muốn nâng văn Việt lên tầng cao mới thì phải nghiêm chỉnh nhìn kỹ vấn đề. Hãy đọc văn - xin được thả vài tên quen thuộc - Dostoevsky hay Kafka, Camus hay Hess, chẳng hạn, thì sẽ thấy được khiếm khuyết của văn học Việt.


Chỉ cần đọc một đoạn trong "Ghi chú dưới tầng hầm" (Dostoevsky) hay "Huyền thoại Sisyphus" (Camus) để thấy văn chương người ta đã được nấu nướng cẩn trọng như thế nào. Có thể cùng một câu chuyện, nhưng suy tư của các nhà văn lớn luôn bao phủ hay gợi ý tinh tế một tầng khái niệm mang giá trị hoàn vũ về con người, thực tại thế gian, và sử tính.


Còn văn chương Việt thì chỉ nằm ở tầm diễn tả sự thể thế gian - và dừng lại ở đó. Có phải nhà văn Việt Nam mang tầm nhìn giới hạn, thiếu ý chí và khả năng sáng tạo? Hay là vì sự non yếu của tiếng Việt đang giam cầm khả thể văn học tầm cao? Có thể so sánh rằng, cổ thụ dưới thung lũng thấp không thể sánh chiều cao với đồng chủng ở trên đồi - khi sàn văn hóa của dân ta còn quá thấp, nấc thang tiến hóa tâm thức đang ở Thời quán thiếu niên, thì văn học không thể mặc áo vượt qua đầu được. Sự thể yếu kém của văn học Việt Nam có phải chăng là một định mệnh văn hóa!


Nhà văn ta đang đắm say với chính mình


Có lần, một nhà văn tâm sự với tôi rằng khi bài của mình được đăng lên báo hay tạp chí, ông chỉ đọc say mê bài mình viết - và chỉ bài của mình, dù khi thảo đã đọc nó cả chục lần. Cái thú đọc bài mình viết trên báo cũng giống như là một cậu thiếu niên mặc áo đẹp nhìn vào gương. Không có gì là mới hay lạ cho đối tượng cả.


Nó chỉ là cái ta ngã mạn được xoa nắn, tái dựng bởi chính ta. Đó là cái thú văn chương trong vòng lẩn quẩn - lấy cái hiện tại từ sự kiện quen thuộc, bày biện nó lại qua một kiểu cách ngôn ngữ khác, để chiêm ngưỡng lần nữa. Trong thú vui này, con người bị chìm đắm vào cái ta, không bước lên hay thoát ra ngoài vòng cuộc sống bằng tinh thần hay tư tưởng. Văn chương thiếu tinh thần và tư tưởng không đánh thức được ai, nó chỉ ru ngủ thiên hạ - và làm cho mình bị say đắm với chính mình.


Trở lại để trích dẫn Nietzsche lần nữa: "Con gà mà đẻ nhiều thì trứng sẽ nhỏ đi."


Cái yếu của văn chương Việt Nam là nhiều chữ quá mà không nói lên được điều gì. Văn chương - qua dạng truyện ngắn thuần mô tả - làm cho người đọc bị kiệt sức. Một múi chanh của sự thể nhân sinh - phần lớn là số vốn cuộc đời bản thân - khi vào trong tay của nhà văn Việt thì bị vắt đến nát nhừ nhằm rút ra thêm được chút tàn lực chất chua, chất chát.


Như những tập tự truyện gần giống nhau và đồng bản chất kể lễ, nhà văn Việt nói tới, nói lui thì cũng chỉ một âm điệu đã nhàm - cái âm điệu bi đát, ai oán, đầy tiêu cực và thiếu tinh thần. Cuối cùng họ chỉ lặp lại chính mình. Từ đó, các hội nhà văn, nhà thơ trở thành những đoàn thể cho văn thi sĩ Việt định danh, tùy thuộc ngân sách nhà nước, là những "echo chamber" cho những bất mãn chung chung, vang vọng âm ngữ bầy đàn vốn đã kéo dài trên thế kỷ qua.


Viết mãi vẫn chỉ là chùm cước chú cho Kiều


Đây có lẽ là gia sản chính từ Truyện Kiều của Nguyễn Du - văn chương chỉ diễn tả được bi kịch cá nhân trong hoàn cảnh - situational tragedy - chứ không khai phá được một tầng nhân cách trên cơ sở ý chí - the tragic consequences of the individual Will.


image004Chụp lại hình ảnh, Truyện Kiều


Tác giả Việt bắt buộc từng nhân vật văn chương phải mang cho mình một số phận nạn nhân, hoàn toàn thụ động, bất lực. Thế gian chỉ là một bóng tối bao trùm mà ta không thể khai sáng, không muốn thắp một ngọn nến xua tan màn vô minh. Thực tại như là một con quỷ xé nát cuộc đời mà ta chỉ còn van xin ân huệ.


Từ đó, hầu hết văn chương tiếng Việt - và sau này di cư qua Mỹ, Pháp, văn tiếng Anh, Pháp bởi người gốc Việt - phần lớn vẫn chỉ là những chùm cước chú cho Truyện Kiều. Từ trong quặng mỏ chứa thuần các lớp thân phận, ta cứ thấy hoài một chuyện - những biến hóa chữ nghĩa được mãi khai thác từ cái cuốc mòn văn chương nhà ta. Văn chương Việt - Việt hay Anh, Pháp ngữ - chỉ là những tuyển tập thú tội.


Ở đó, bi đát không vươn lên được tầm bi tráng; số phận cá nhân chỉ là một lát mỏng cắt ngang khúc cây từ hoàn cảnh tập thể dân tộc trong sự trống vắng về ý chí tác hành bằng ý thức sử tính và thời đại.


Đọc văn Việt thì như là nghe vọng cổ, hay nhạc bolero - cũng như cha ông ta đọc Kiều. Nó chỉ làm cho ý chí hành động bị tê liệt. Nói hơi đại ngôn một tí rằng, thể loại văn chương, thi phú nầy chính là nguồn gốc sâu xa cho hầu hết những thảm kịch lịch sử Việt Nam cho đến hôm nay - một lịch sử chỉ hoàn toàn chứa đựng những năng động thuần chất tình cờ, ngẫu nhiên - không mang một tinh yếu ý chí cá thể.


Trong khi thi ca Tây phương biến bi kịch cá nhân thành là một nguồn kích khởi ý chí hành động; thì ngược lại, văn thơ Việt nhấn chìm người đọc vào số phận bi đát của nhân vật. Càng đọc thi ca Việt ta càng bị đắm mình vào cái đập nước ngôn từ do chính chúng ta tự kiến lập lên.


Hãy vịn vào Nietzsche mà đứng dậy


...Chính vì thâm nhiễm Kiều với chủ nghĩa số phận bi thương, thụ động mà Việt Nam phải bị Thực dân Pháp đem cho một linh hồn mới. Từ bi kịch đô hộ đó, từ khát vọng vương lên làm lịch sử, ta cầu cứu đến Marx với lời sấm ý chí, "Ta sẽ dẫm lên đống gạch vụn từ quá khứ để tái tạo lại lịch sử như là một Thượng đế mới." Nhưng, tai họa không thể rời nàng Kiều.


Nhắm mắt gán Marx vào hồn Kiều đã trở nên một thang thuốc tự vận. Cuối cùng, khi đã hết thực dân và đế quốc, văn chương Việt lại lần nữa vực linh hồn Kiều sống lại trên nghĩa trang Marx.


Từ "Phận đành chi dám kêu oan"(Kiều) đến "Mẹ khỉ, cái thằng đểu này là điềm gở nhất của số phận mình" (Tướng hồi hưu, Nguyễn Huy Thiệp) ta thấy rằng: Cái ác, cái xấu tất cả đều ở bên ngoài ta, là từ xã hội, nơi tha nhân. Khi sự yếu đuối ý chí được lấy làm biện minh cho thụ động trong oán hờn liệt kháng thì thơ văn Việt chính là một lời nguyền tự đến - a self-fulfilling prophecy.


Rất có thế vì thế mà ở Việt Nam hiện nay, phong trào dịch và đọc Nietzsche - với những khẩu hiệu tung hô mẫu người "Siêu nhân," "Ý chí Quyền lực," "Vượt qua Thiện-Ác," "Phủ quyết tâm thức Nô lệ," "Lên án tinh thần Bầy đàn" - đang khá thịnh hành. "Cuộc đời không chỉ là sự đáp ứng nội tâm theo nhu cầu ngoại thân, nhưng mà là của Ý chí Quyền lực, phát khởi từ trong ta nhằm chinh phục và làm chủ ngoại cảnh," Nietzsche viết.


Có thể nói rằng những khái niệm "Siêu nhân", "Ý chí Quyền lực" chính là những câu sấm mới thay cho lời nguyền văn học Việt hiện nay.


Phải chăng, hiện tượng nửa triết nửa văn với Nietzsche này chính là một nỗ lực từ vô thức đi tìm một năng lực Ý chí mới - khi văn học Việt đang thiếu những món ăn tinh thần cho một dân tộc đang muốn vươn ra khỏi tình trạng độc tài, thiếu tự do hiện nay?


Bài thể hiện quan điểm riêng của luật sư, tiến sĩ triết học Nguyễn Hữu Liêm, hiện sống tại San Jose, California, Hoa Kỳ.
01 Tháng Ba 2015(Xem: 10779)
Làng Mai là một mô hình thiền học phật giáo Việt Nam thành công ở nước Pháp, quốc tế, mặc dù chưa được hoàn toàn thừa nhận ở Việt Nam do các lý do khác nhau, theo một nhà nghiên cứu sử học đương đại và văn hóa tôn giáo tại Pháp.
12 Tháng Hai 2015(Xem: 11172)
Có những điều không thể ngờ, hay không thể tin mà có thể xảy ra. Ví dụ chúng tôi có tạp chí Vấn Đề số 52 – số bị tịch thu - ở xứ Mỹ này khi mà 43 năm về trước trên số 53 đăng lời cáo lỗi cùa Ban Chủ trương nguyệt san Vấn Đề như sau:
30 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 11885)
Điều làm du khách không khỏi ngạc nhiên là nhiều hạng mục cổ của các di tích này bị phá đi và xây mới lại. Không gian đỉnh Yên Tử những ngày này trở nên ồn ào bởi hàng loạt công trình dở dang cùng tiếng máy xây dựng vang vọng khắp vùng núi.
23 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 12452)
07 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 11098)
Xuân Tân Mùi-791-Phùng Hưng (người Đường Lâm-Sơn Tây) dấy binh đánh đuổi quân xâm lược nhà Đường, làm chủ đất nước, nhân dân tôn là bố cái đại vương Kỷ Mùi-889-Năm sinh Ngô Quyền , anh hùng dân tộc, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống nam Hán năm 938, lập nhà Ngô mở đầu giai đoạn quốc gia độc lập
02 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 20217)
Hồ Trường là một thi phẩm nổi tiếng của nhà cách mạng Nguyễn Bá Trác vào đầu thập niên hai mươi. Tác giả người làng Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từng theo Cụ Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du và hưởng ứng phong trào Đông Kinh của Cụ Phan Chau Trinh. Từng làm quan dưới triều Nguyễn, Ông cũng là nhà biên khảo cho Phủ Toàn Quyền Đông Dương và là chủ bút ( phần Hán Văn) của tờ Nam Phong Tạp Chí do Phạm Quỳnh sáng lập.
24 Tháng Mười Một 2014(Xem: 16139)
Hát Quan Họ là một lối Hát Thơ rất đặc thù nổi tiếng vùng Kinh Bắc ( gồm Bắc Ninh và Bắc Giang). hay còn gọi là Dân Ca Quan Họ. Hằng năm cứ dip Xuân về vào tháng Giêng Âm Lịch là Hội Làng mở các Lễ Hội đầy mầu sắc văn hóa dân gian, trong đó Lễ Hội Lim làng Tiên Du là lễ hội lớn và hoành tráng nhất.
14 Tháng Mười 2014(Xem: 10508)
Chiều 27-9, ông Nguyễn Đức Kiếm - phó giám đốc bảo tàng tỉnh Nghệ An cho biết, bảo tàng đã tổ chức trao thưởng của UBND tỉnh cho ông Nguyễn Văn Bình (ngụ ở xóm 9, xã Hưng Lợi, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An) - người đã có công phát hiện và giao nộp 2 khẩu súng thần công cho bảo tàng.
07 Tháng Mười 2014(Xem: 10690)
(Dân trí) - Ngày 6/10, TS. Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế (TTBTDTCĐH) cho biết chiếc xe kéo của vua Thành Thái đang làm một số thủ tục, chuẩn bị được đưa về cố hương.
01 Tháng Mười 2014(Xem: 11852)
Dân ca Ví, Giặm là “thổ sản” độc đáo trong kho tàng dân ca Nghệ Tĩnh, thể hiện đậm nét bản sắc riêng của con người xứ Nghệ. Hát Ví, hát Giặm đã tồn tại hàng trăm năm nay trong đời sống nhân dân xứ Nghệ, được lưu truyền qua nhiều thế hệ cho đến ngày nay.
08 Tháng Chín 2014(Xem: 14791)
Doãn Quốc Sỹ là một nhà văn, nhà giáo nổi tiếng tại miền Nam Việt Nam từ trước 1975. Ông đã dậy học tại các trường Trung học như Nguyễn Khuyến (Nam Định) Chu Văn An (Hà Nội) Trần Lục (Sài Gòn). Làm Hiệu trưởng trường Trung học Hà Tiên, Giáo sư trường Trung học Hồ Ngọc Cẩn, Giáo sư trường Đại học Văn khoa Sài Gòn và Đại học Sư phạm Sài Gòn Giữa thập niên 60, ông du học tại Hoa Kỳ về ngành Giáo dục và trở về nước dậy học cho tới 1975.
28 Tháng Tám 2014(Xem: 10752)
Một giá hầu bóng đang cử hành giá “Quan lớn Tuần Tranh” tại đền ngã Năm Sàigon. Khởi động cho giá hầu là ban nhạc Cung Văn gồm đàn nguyệt, đàn đáy, phách, trống chầu, trống con, sáo, ngâm hát những bài ca vinh danh vị tướng “Trấn thủ Lưu đồn” trong lịch sử Việt Nam.
21 Tháng Tám 2014(Xem: 12566)
Trước mắt tôi là sưu tập Văn Nghệ số 40 ra 3-1953. Lúc này cơ quan Hội văn nghệ đang đóng ở rừng Việt Bắc. Nhân cái chết của Stalin, tạp chí của Hội ra một số đặc biệt, không chỉ Tố Hữu mà nhiều tác giả khác có bài liên quan tới sự kiện này.
07 Tháng Tám 2014(Xem: 11293)
Nhân câu chuyện bầu chọn, đề cử và chỉ định cán bộ tại Việt Nam trước Đại hội Đảng Cộng sản dự kiến vào năm 2016 đang thu hút sự chú ý của dư luận, BBC Tiếng Việt xin giới thiệu một số trích dẫn lịch sử liên quan đến chế độ quan tước và thế tập thời phong kiến để bạn đọc tham khảo:
20 Tháng Ba 2014(Xem: 11883)
Kể từ ngày 20 tháng Ba cho đến 20 tháng Năm năm 2014, Viện Lưu trữ Quốc Gia (Archives Nationales) tổ chức cuộc triển lãm với tựa đề ‘‘Quan hệ Việt-Pháp qua bốn thế kỷ’’. Sau khi được trưng bày ở Hà Nội và Sài Gòn, nay cuộc triển lãm được đưa sang Paris, trong khuôn khổ chương trình Năm Việt Nam tại Pháp.
06 Tháng Ba 2014(Xem: 12378)
Chùa Hương (Hà Nội), đến hẹn lại lên, sau Tết Nguyên đán Canh Dần 2010, chỉ trong duy nhất cái ngày khai hội thôi, đất Phật đã đông đến kỷ lục: 6 vạn lượt khách/ngày! Bên cạnh tắc đường, trộm cắp, chèn ép khách..., nạn xả thịt thú rừng diễn ra ngang nhiên và kinh hoàng.