Thứ 4, Ngày 17.09.2014
Hoàng Sa du ký 1954 - Kỳ 1:
Đường ra đảo xa
TT - Dưới đây là bài bút ký Ba tháng trên hoang đảo đăng trên tạp chí Phổ Thông, xuất bản tại Hà Nội, số 27 tháng 5-1954.
Trang bìa tạp chí Phổ Thông số 27, tháng 5-1954 và Hai trang trong bút ký Hoàng Sa năm 1954 - Ảnh: Lại Nguyên Ân sao chụp |
Bút ký này của tác giả Mạnh Thư, được đăng ở số gần như là cuối cùng của Phổ Thông, kể về chuyến đi biển của mình hồi cuối năm 1953 và ba tháng sống trên quần đảo Hoàng Sa, khi đó do quân đội quốc gia VN cai quản.
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sưu tầm và giới thiệu cùng bạn đọc.
Tôi tình nguyện xin đi Hoàng Sa để biết cho tường tận ở đảo bé nhỏ mà người ta đã nói đến từ một câu sấm truyền “Bao giờ sen mọc bể Đông...” đến câu chuyện rất mới quân đội Trung Hoa đỏ muốn tranh chấp trên... mặt báo!
Muốn ra Hoàng Sa phải đến Đà Nẵng (Tourane). Từ Hà Nội dùng đường hàng không VN, đi ôtô xuống Cát Bi rồi lên máy bay vô Nam.
Tôi tạm biệt đô thành một ngày gió bấc. Máy bay bốn động cơ từ Hong Kong ghé lại, gần 13g trưa mới cất cánh. Nữ chiêu đãi viên phát bông nút tai và ân cần đưa chăn len cho từng hành khách. Dừng lại ở phi trường Phú Bài (Huế) chừng 15 phút, máy bay lại vội vã lên đường, trốn một cơn mưa sắp tới.
Xuống Đà Nẵng, tôi vẫn giữ y phục len trong khi người ta còn mặc quần áo trắng cộc. Thời tiết đã khác hẳn. Từ 18-11 là ngày bỏ Hà Nội, đến 23-11 mưa gió tơi bời, một chốc ngớt rồi lại mưa tầm tã, nhiều nhất về đêm. Tôi nóng lòng muốn ra ngay đảo nhưng ngày lại ngày vẫn không có tin gọi.
Cho tới chiều 23 mới thấy tùy phái đến báo sửa soạn mai sớm ra tàu. Tối hôm đó, tuy ngoài trời còn rả rích, tôi cũng cố bắt nghe tin tức khí tượng. Đài Pháp Á báo: “Trung Hải còn gió mạnh, biển nhăn sóng nhưng đã yếu dần” (Trung Hải: biển miền Trung Việt Nam).
Sáng sớm 24-11, lội những vũng nước mưa ngập lúc tối, ra bến thì xuồng máy đã chờ, đón khách ra tàu, thông báo hạm L.G. Chuyến đi này khá đông, một trung đội Việt binh đoàn ra thay trung đội cũ ngoài Hoàng Sa, lại còn binh sĩ ra cù lao Ré (ngang Quảng Ngãi).
Ra khỏi núi Tiên Sa, sóng xanh cuồn cuộn, con tàu say nghiêng ngả. Chả mình tôi, anh em binh sĩ cũng say sóng, nôn thốc tháo. Gió nổi mạnh, sóng tràn qua boong. Hòm xiểng xếp trên boong nếu không chằng kỹ dây chão chắc chắn rớt xuống biển đến hết mỗi khi tàu tròng trành. Tôi không còn mấy sức lần ra thành tàu, đành ngồi tại chỗ mà nôn ọe.
Một thủy binh dìu tôi vào phòng thuốc, dưới trời mưa tầm tã, trên boong tàu lạnh, vì sóng vì gió vì mưa, anh kêu người khán hộ cho tôi thuốc. Phòng sát buồng máy.
Tôi có cảm tưởng vào hỏa ngục, phần thì tiếng động cơ ầm ầm, phần thì hơi lửa sừng sực, đầu nặng mà dưới chân tàu lảo đảo, không khí thật ngạt thở. Tôi nuốt không hai viên thuốc Nautamine, người thủy thủ lại xốc nách đưa tôi ra và an ủi: “Không sao đâu, ngoài trời có gió anh sẽ dễ chịu trong chốc lát”.
Tôi cảm ơn, lại ngồi phệt trên mặt hòm, bám hai tay vào cạnh hai hòm khác cho khỏi mất thăng bằng, mỗi khi tàu xiêu lệch. Cũng may, mỗi lớp sóng tràn qua boong lại cuốn hết rớt rãi của mọi người. Xung quanh tôi không còn ai trông ra hồn, người nào cũng mặt xanh nanh vàng, ngồi rù thảm hại chịu đựng hình phạt.
Sóng cứ nổi, mưa cứ rơi, gió cứ thổi, tàu cứ tròng trành, cho đến lúc tỉnh một giấc ngủ chợp thì trời tạnh, người có tỉnh táo nhưng đứng lên chân vẫn chập chờn. Cứ tính tàu chạy 18 giờ thì đêm nay phải ngủ dưới tàu. Tàu còn ghé cù lao Ré để một ít binh sĩ lên đảo rồi mới ra Hoàng Sa. Chuyến đi này mệt nhất, khổ vì say sóng lại khổ phải ở lâu dưới tàu.
Tôi cứ ngồi trên boong ngắm bóng đen tràn mặt biển, thấm thía với câu thơ: Lòng quê dờn dợn vời con nước/Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Thủy thủ đã treo võng lấy chỗ nằm. Tôi xuống buồng (cabin) tìm một chỗ ngủ. Sóng đã nhẹ, con tàu đu như đánh võng. Tôi phải nằm tận trong cùng ghế cho khỏi ngã. Tiếng sóng vỗ chập chờn xa vắng, ngủ thiếp lúc nào không nhớ, không còn quan niệm gì về thời gian.
Biển lăn tăn sóng, nước xanh như chàm. Tôi lên boong rất sớm, tựa thành tàu. Một thủy thủ đi ngang qua bảo tôi: “Sắp đến rồi đó!”.
Theo phía tay chỏ, tôi thấy bóng mấy cù lao xanh mờ. Rất lâu sau đó Hoàng Sa mới hiện rõ ràng. Đảo lớn dần với bóng cây um tùm. Binh sĩ sửa soạn hành lý trong khi tàu tiến về phía đông rồi buông neo tại đó. Hai xuồng bỏ xuống, mọi người lo chuyển hành lý. Nhìn lên đảo thấy lố nhố bóng người ra đón ngoài đầu cầu.
Tôi theo chuyến canô thứ nhất vào bờ. Tuy vậy, vì nhiều đá ngầm, cách bờ khoảng 4-5 thước phải lội biển đi vào, chỗ đó đá mọc lởm chởm nhưng cũng may có nhiều cát. Nước xanh trong suốt đáy, chân giẫm lên cát mịn của đất liền, nước thì mát lạnh, có lẽ cả cái thú đến đích nữa nên tôi tỉnh táo lạ lùng trong khi người đi sau than: “Say sóng không còn biết ông trời bà đất là gì nữa!”.
Trao lại thư từ và đứng nói chuyện với đồng nghiệp một lúc, tôi cáo thoái về trước nghỉ ngơi và thay áo quần nhơ nhớp. Theo đường chính tôi vào, hai bên đường những cây hoang dại không tên không tuổi mọc tươi tốt như rừng. Những chòm cây đó không cao quá đầu người cũng cản được gió mạnh.
Hoàng Sa, tên chữ Pháp là Pattle. “Hoàng” là vàng và “Sa” là cát. Cát vàng. Tuy vậy Hoàng Sa không có cát như cát ở bãi sông, những mảnh san hô, những mảnh vỏ trai ốc vỡ vụn nhỏ như cát già và cũng êm chân như cát. Và nếu cát già (của đá cuội) vàng thẫm thì cát Hoàng Sa vàng nhạt như ngà.
Hoàng Sa là đảo chính, có người ở, tất cả 40 người, 35 binh sĩ Việt Nam và năm người của Sở Khí tượng; không có bóng dáng đàn bà quanh năm. Đó là một điểm đáng để ý khi nói chuyện Hoàng Sa. Hoàng Sa ở trong quần đảo Hoàng Sa (Archipel de Paracels).
Trên bản đồ Hoàng Sa hơi giống hình chữ nhật, cù lao Robert hình trứng và cù lao Boisée, vẫn theo đồ bản, phảng phất như chiếc lá trầu. Hoàng Sa rộng lớn bằng hồ Hoàn Kiếm, giá đem được về Hà Nội, đặt vào hồ thì... vừa xinh!
Đảo ở một vị trí quan trọng về quân sự, cũng quan trọng với Sở Khí tượng, vì trạm Hoàng Sa ở giữa biển báo chiều gió, sức gió với nhiều chi tiết chuyên môn mà biển miền Trung thì nhiều dông tố. Độc giả hẳn chưa quên trận bão vừa qua dọc duyên hải Trung Việt, nặng nhất ở Huế, các báo hằng ngày đều có tường thuật.
Phổ Thông là tạp chí ra hằng tháng của Hội Ái hữu cựu sinh viên Trường Luật, Hà Nội, xuất bản từ năm 1951-1954, thường đăng những bài nghiên cứu, bài giảng về luật, về kinh tế - xã hội của các giáo sư, giảng viên đại học một số ngành xã hội nhân văn ở Hà Nội đương thời. Bên cạnh phần khảo cứu, tạp chí cũng có một số lượng bài là tác phẩm văn học của các tác giả người Việt hoặc dịch các tác phẩm văn học nước ngoài Hiện nay có thể vẫn tìm lại được những bài báo, những ghi chép tương tự như bài bút ký này, trên sách báo thời trước. Song nguồn tài liệu này chắc hẳn không thể nhiều thêm nếu không nói là đang trở nên hiếm dần. Bởi vậy, tôi nghĩ nên giới thiệu lại với bạn đọc ngày nay. Đây đương nhiên cũng là bằng chứng về chủ quyền, về sự hoạt động, sự quản lý của nhà nước, của người Việt đối với quần đảo Hoàng Sa, ngay trong thời gian đang diễn ra chiến tranh Đông Dương (1946-1954). LẠI NGUYÊN ÂN |