Quan hệ Việt-Mỹ sau 25 năm: ‘Đồng sàng dị mộng’ về đối tác chiến lược

14 Tháng Bảy 20202:00 CH(Xem: 7471)

VĂN HÓA ONLINE - DIỄN ĐÀN CHÍNH TRỊ - THỨ BA 14 JULY 2020

Ý kiến-Bài vở vui lòng gởi về:  lykientrucvh@gmail.com (VănHóa Online-California)


Quan hệ Việt-Mỹ sau 25 năm: ‘Đồng sàng dị mộng’ về đối tác chiến lược


VOA 13/07/2020


image001

Tổng bí thư-Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Phú Trọng (phải) đưa tay bắt với Tổng thống Mỹ Donald Trump trong chuyến thăm của người đứng đầu tòa Bạch Ốc tới Hà Nội ngày 27/2/2019.


Việt Nam và Mỹ kỷ niệm 25 năm bình thường hoá quan hệ hôm 11/7/2020.


Sau một phần tư thế kỷ bình thường hoá quan hệ, hai quốc gia cựu thù Mỹ và Việt Nam đang có một mối quan hệ được đánh giá là “mạnh mẽ”. Tuy nhiên, họ đã không thể nâng tầm quan hệ lên đối tác chiến lược trong 25 năm qua vì những quan niệm khác biệt, mà theo Giáo sư Carl Thayer của Đại học New South Wales, là do “đồng sàng dị mộng” về lợi ích chiến lược.


Mỹ chính thức công bố bình thường hoá quan hệ ngoại giao với quốc gia cựu thù Cộng sản Việt Nam vào ngày 11/7/1995. Một ngày sau đó tại Hà Nội, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ra tuyên bố thành lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, mà theo truyền thông trong nước, đã mở ra một chương mới trong lịch sử hàn gắn và phát triển giữa hai nước.


Giờ đây, theo Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Daniel Kritenbrink, mối quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam mạnh hơn bao giờ hết, khi hai quốc gia đi từ không có bất kỳ quan hệ thương mại nào tới chỗ có dòng chảy thương mại hai chiều trị giá hơn 77 tỷ USD.


Những xung đột hàng hải trên Biển Đông là một trong số bốn yếu tố chính – gồm cả giải quyết các vấn đề di sản Chiến tranh Việt Nam, thương mại và đầu tư, và vai trò lãnh đạo của Việt Nam trong khối ASEAN, đã tác động đến quỹ đạo phát triển mạnh của mối quan hệ song phương giữa hai nước, theo nhận định của GS Thayer, người thường xuyên theo dõi quan hệ Việt-Mỹ trong nhiều năm qua.


Đã có một sự hội tụ về lợi ích chiến lược giữa Việt Nam và Mỹ trong 25 năm qua về các vấn đề an ninh khu vực và toàn cầu, như Biển Đông và việc không phổ biến vũ khí hạt nhân, theo đánh giá của GS Thayer. Sự hội tụ này càng trở nên rõ rệt trong những năm gần đây khi Trung Quốc tăng cường quân sự hoá trên vùng biển mà Việt Nam và quốc gia trong khu vực đều có tuyên bố chủ quyền.


Chính phủ Mỹ nhiều lần lên tiếng phản đối Trung Quốc khi đưa tàu vào khu vực thềm lục địa của Việt Nam trên Biển Đông để cản trở hoạt động thăm dò dầu khí hay đâm chìm tàu cá như Việt Nam cáo buộc. Hai hàng không mẫu hạm của Mỹ lần đầu tiên cập cảng Đà Nẵng sau chiến tranh được coi là một dấu hiệu tăng cường sự hiện diện và hỗ trợ của Mỹ đối với Việt Nam và khu vực trước sự bành trướng của Trung Quốc trên vùng biển mà các chuyên gia đánh giá là Mỹ cũng có nhiều lợi ích.


Với một thoả thuận đạt được vào năm 2013, Việt Nam và Mỹ đã trở thành những đối tác toàn diện và 3 năm sau đó, lần đầu tiên sau hơn 40 năm kể từ khi kết thúc chiến tranh, Mỹ quyết định dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam trong chuyến thăm của Tổng thống Barack Obama trước khi ông kết thúc nhiệm kỳ.


Tuy nhiên, dù có sự phát triển mạnh mẽ trong mối quan hệ và sự hội tụ lớn về lợi ích trong khu vực, nhưng Việt Nam và Mỹ đã không thể nâng tầm quan hệ lên đối tác chiến lược trong nhiệm kỳ cuối cùng của Tổng thống Obama, theo GS Thayer. Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc có chuyến thăm tới Nhà Trắng ở Washington DC vào tháng 5/2017, chỉ vài tháng sau khi Tổng thống Donald Trump nhận chức, nhưng hai nhà lãnh đạo chỉ có thể đồng ý về việc “tăng cường mối quan hệ đối tác toàn diện.”


Thế nào là ‘đối tác chiến lược’?


“Có nhiều thách thức cần phải vượt qua trước khi mối quan hệ song phương (giữa Mỹ và Việt Nam) có thể được đưa lên tầm cao mới,” GS Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Hoàng gia Úc của Đại học New South Wales, nói. Ông cho rằng “cả hai phía có những nhìn nhận khác biệt về thế nào là một (mối quan hệ) đối tác chiến lược” và gọi sự hội tụ về lợi ích chiến lược với cách nhìn nhận khác nhau của Việt Nam và Mỹ là “ đồng sàng nhưng dị mộng.”


Mỹ đặt nặng về quốc phòng và những khía cạnh an ninh trong các mối quan hệ chiến lược với Singapore, Philippines, Thái Lan và Indonesia. Trong khi đó Việt Nam kiên trì với chính sách “ba không” trong các mối quan hệ quốc phòng kể từ khi công bố Sách trắng Quốc phòng năm 1998 với các phiên bản tiếp theo vào năm 2004 và 2009. Trong Sách trắng Quốc phòng mới nhất được đưa ra cuối năm ngoái. Việt Nam mở rộng chính sách “ba không” thành “bốn không” – không liên minh quân sự, không căn cứ quân sự, không đứng về phía nào để chống lại phía kia, và không dùng vũ lực.


Dù Hà Nội ngày càng bị Bắc Kinh “bắt nạt” trên Biển Đông, nhưng theo GS Thayer, Việt Nam sẽ không chọn đứng về phía Mỹ để trực tiếp chống lại Trung Quốc vì nó sẽ đi ngược lại chính sách “ba không” mà hiện nay là “bốn không” của Việt Nam. Chính sách quốc phòng này của Việt Nam tiếp tục làm Mỹ “vô cùng ngờ vực” và theo GS Thayer cho biết, một số nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có quan điểm tương tự.


Tuy nhiên, GS Thayer cho rằng Việt Nam sẵn sàng tận dụng mọi sự giúp đỡ mà Mỹ cung cấp, như việc chuyển giao các tàu tuần duyên và tiếp đón các chuyến cập cảng của hàng không mẫu hạm Mỹ, cũng như ủng hộ sự hiện diện ngày càng nhiều của Hải quân Mỹ trên Biển Đông vì mục đích “đóng góp vào hoà bình và an ninh của khu vực.”


Một thách thức khác cần được giải quyết để nâng tầm quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ là các vấn đề thương mại.


“Đứng đầu trong danh sách này là yêu cầu của Việt Nam đối với Mỹ trong việc không chỉ định Việt Nam là một nền kinh tế phi thị trường,” GS Thayer nói.


Mỹ tiếp tục áp dụng thuế quan đối với cá da trơn và tôm nhập khẩu từ Việt Nam và gần đây chính quyền Tổng thống Trump đã áp thuế xuất khẩu lên thép và nhôm từ Việt Nam cũng như loại Việt Nam ra khỏi danh sách các nước đang phát triển. Dưới chính quyền Trump, vấn đề thặng dư thương mại ngày càng tăng của Việt Nam được chú ý nhiều khi đạt 47 tỷ USD vào năm ngoái.


Tổng thống Trump tháng 7/2019 đã gọi Việt Nam là “kẻ lạm dụng thương mại” mà ông cho là “tồi tệ” hơn cả Trung Quốc.


“Những thách thức và khác biệt trong các mối quan hệ song phương (giữa Việt Nam và Mỹ) chỉ có thể giải quyết được thông qua các cuộc đàm phán giữa hai phía nhờ vào sự tăng cường gặp mặt thường xuyên của các quan chức cấp cao trong chính phủ bao gồm người đứng đầu ở cấp nhà nước,” GS Thayer nói.


Trong năm 2019, việc Tổng bí thư-Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng bất ngờ đổ bệnh đã ngăn cản ông không thể nhận lời mời của Tổng thống Trump tới thăm Mỹ. Hiện tại cả Việt Nam và Mỹ đều đang tập trung vào các nỗ lực chống đại dịch virus corona.


“Cả hai phía đều phải chờ cho đến khi Mỹ tổ chức cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11 và Việt Nam họp đại hội Đảng 13 vào đầu năm 2021,” GS Thayer nói.


‘Chiến lược’ trong 25 năm tới


Đã có 4 kỳ tổng thống Mỹ trong 25 năm qua kể từ khi mối quan hệ giữa hai nước cựu thù được bình thường hoá, gồm hai tổng thống của đảng Dân chủ – Bill Clinton (1993-2000) và Barack Obama (2009-2016) – và hai tổng thống của đảng Cộng hoà – George W. Bush (2001-2008) và Donald Trump (2017-nay).


Theo nhận định của GS Thayer, kể từ khi bình thường hoá quan hệ vào năm 1995, các chính quyền Mỹ, dù là đảng Dân chủ hay Cộng hoà, đều phát triển mối quan hệ với Việt Nam được thiết lập từ những chính quyền tiền nhiệm. Theo ông Thayer, những phát triển chính trong mối quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam diễn ra trong các chính quyền của Đảng Dân chủ, như việc bình thường hoá năm 1995 dưới thời Tổng thống Clinton, và việc thành lập đối tác toàn diện năm 2013 và dỡ bỏ cấm vận vũ khí sát thương của Mỹ đối với Việt Nam năm 2016 đều dưới thời Tổng thống Obama.


“Nhưng dù ai tuyên thệ nhậm chức Tổng thống Mỹ vào tháng 1/2021, ông Trump hay ông Biden, cũng đều sẽ tiếp tục trân trọng những thoả thuận và những tuyên bố chung trong đó xác định mối quan hệ song phương giữa Mỹ và Việt Nam,” GS Thayer nói, và cho rằng các vấn đề thương mại sẽ tiếp tục là một vấn đề nếu ông Trump tái đắc cử.


“Dù ai trở thành tổng thống cũng sẽ theo đuổi một (mối quan hệ) đối tác chiến lược với Việt Nam,” GS Thayer nói.


Tổng thống Trump, trong bức thư gửi Chủ tịch Trọng nhân dịp hai nước kỷ niệm 25 năm bình thường hoá quan hệ hôm 11/7, cho biết Mỹ sẽ “tiếp tục những cam kết của mình trong việc tăng cường và mở rộng hơn nữa mối quan hệ song phương trên cơ sở tầm nhìn chung về một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương hoà bình và thịnh vượng cũng như sự tôn trọng lẫn nhau về chủ quyền và luật lệ quốc tế.”


Trước đó hôm 10/7, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo tuyên bố rằng Mỹ cam kết “làm cho 25 năm tiếp theo của mối quan hệ song phương (giữa Hoa Kỳ và Việt Nam) trở thành một mô hình của hợp tác và đối tác quốc tế.”


Dù đó là những lời nói mang nhiều tính ngoại giao nhưng theo GS Thayer có một sự thật trong đó là sự hội tụ những lợi ích chiến lược giữa Washington và Hà Nội sẽ tăng cao trong 1/4 thế kỷ tới.


“Trong 25 năm tới, sự đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ cuối cùng sẽ dẫn đến một sự cân bằng quyền lực mới,” GS Thayer nhận định. “Trung Quốc sẽ đóng một vai trò chi phối nhiều hơn ở Đông Nam Á và khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nói chung. Việt Nam cũng sẽ hợp tác nhiều hơn với Trung Quốc.”


Theo nhận định của một nhà ngoại giao cao cấp của Việt Nam với GS Thayer, “Việt Nam có lợi nhất khi quan hệ Trung-Mỹ không quá nóng nhưng cũng không quá lạnh.”

24 Tháng Sáu 2013(Xem: 19247)
Các thể chế chính trị trên thế giới có thể được hình thành bằng những cách thức khác nhau và mang những tính chất khác nhau.
24 Tháng Sáu 2013(Xem: 17618)
Vào lúc 3 giờ 30 chiều ngày Thứ Năm, 13 tháng 6 năm 2013, phái đoàn đảng Việt Tân gồm ông Tổng Bí Thư Lý Thái Hùng, Bác sĩ Nguyễn Đỗ Thanh Phong và ông Nguyễn Tấn Anh đã có một cuộc gặp gỡ và trao đổi về tình hình nhân quyền tại Việt Nam với ông Tổng Trưởng Ngoại Giao Úc, Thượng Nghị Sĩ Bob Carr tại văn phòng chính phủ tại thành phố Sydney.
24 Tháng Sáu 2013(Xem: 18835)
Hoạt động thường niên của giới vận động dân chủ người Việt mang tên Họp Mặt Dân Chủ vừa được tổ chức tại Hà Lan.
11 Tháng Sáu 2013(Xem: 22216)
Bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại diễn đàn Shangri-La vừa qua đánh dấu một chuyển biến trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam và vẫn đòi hỏi có thêm các đánh giá đúng mức sau nhiều bình luận khen chê trong và ngoài nước.
28 Tháng Năm 2013(Xem: 22735)
Những định nghĩa pháp lý cho các chính thể Việt trong cuộc chiến chấm dứt ngày 30/4/1975 có vai trò quan trọng cho lập luận của Việt Nam về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sự quan trọng này không chỉ vì công hàm 1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng, mà còn vì Hà Nội đã không khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ năm 1954 đến 1975-1976.
23 Tháng Năm 2013(Xem: 18720)
Trong số báo kỳ này, ban biên tập đưa ra đề tài: Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Hải Ngoại có cần, không cần, hay nửa cần nửa không tham dự vào việc sửa lại Hiến Pháp của nước CHXHCNVN. Đề tài này hiện nay đang tạo nhiềy ý kiến sôi nổi ở trong nước, nhưng ở hải ngoại, ngoài một vài chỉ dấu hạn hẹp (thường là nhận thấy trên một số khẩu hiệu, băng rôn trong các buổi mít tinh) hầu như không thấy có cuộc hội thảo, bàn luận, hay một tổ chức chính trị nào chính thức đưa ra trong các hội luận, diễn đàn mang tính cách công cộng quần chúng.
23 Tháng Năm 2013(Xem: 20833)
Vấn đề sửa đổi Hiến pháp Việt Nam không chỉ gây sôi nổi dư luận người Việt trong và ngoài nước, mà còn thu hút sự quan tâm của các chuyên gia và tổ chức nước ngoài. Trong tạp chí Việt Nam trong dòng thời sự hôm nay, chúng tôi xin giới thiệu ý kiến của ông Jonathan London, giáo sư Đại học Hồng Kông và những khuyến cáo của tổ chức bảo vệ quyền tự do ngôn luận của Anh quốc, mang tên Điều 19.
23 Tháng Năm 2013(Xem: 21972)
Sở dĩ có tên Kiến nghị 72 là vì có 72 người đứng tên trong danh sách đầu tiên ký vào Kiến nghị, bao gồm nhiều nhân sỹ trí thức được nhiều người biết đến như Nhà văn Nguyên Ngọc, Giáo sư Tương Lai, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, Tiến sỹ Nguyễn Quang A...
23 Tháng Năm 2013(Xem: 22166)
“Cái mà người ta mong đợi là có nói đến Điều 4 nhưng họ không đụng gì đến cái đó cả,” ông than phiền. Ông cũng giải thích rằng hiện thời ở Việt Nam chưa đủ ‘thời cơ’ để tiến tới tự do chính trị, đa đảng phái, dân chủ hoặc đối lập. Điều 4 của bản Hiến pháp, vốn là nền tảng cho quyền lực của Đảng Cộng sản ở Việt Nam, đã bị những người chỉ trích nhận xét là không dân chủ và yêu cầu bãi bỏ.
23 Tháng Năm 2013(Xem: 19658)
Ông Nguyễn Đình Lộc xuất hiện trong chương trình Thời sự nói về lấy ý kiến đóng góp sửa đổi Hiến pháp Cựu Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc vừa gây tranh cãi khi phát biểu trên Truyền hình Việt Nam phủ nhận vai trò trong kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp của các trí thức, còn gọi là Kiến nghị 72. Hôm 4/2, ông Lộc đã dẫn đầu đoàn 15 nhân sỹ trí thức tới trao kiến nghị cho đại diện Ủy ban Pháp luật của Quốc hội.
23 Tháng Năm 2013(Xem: 20385)
Ngày 22/03/2013, đài truyền hình Việt Nam chiếu một đoạn phỏng vấn cựu Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc, nói về việc ông ký vào bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp do 72 nhân sĩ trí thức khởi xướng ngày 19/01/2013 và về việc ông làm trưởng đoàn đi trình bản kiến nghị này cho Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp ngày 04/02/2013.
23 Tháng Năm 2013(Xem: 19537)
Việc đóng góp ý kiến vào bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đang dần dần trở thành một phong trào đòi dân chủ ở Việt Nam, mà đi đầu là giới trí thức. Đó là nhận định chung của giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, trong bài trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ.
23 Tháng Năm 2013(Xem: 24348)
Những người kiến nghị cho rằng dự thảo hiến pháp hiện đang được trưng cầu ý kiến "chưa thấu suốt bản chất của một hiến pháp dân chủ, chưa thể hiện sự tin cậy, tín nhiệm của nhân dân với chính quyền theo tinh thần thỏa thuận kiến tạo một môi trường có sự kiểm soát bên trong và bên ngoài đối với quyền lực".
23 Tháng Năm 2013(Xem: 23504)
Giữa tháng 04/2013, một loạt các đề xuất sửa đổi Hiến pháp 1992 đã được Ban biên tập soạn thảo tiếp thu, trong đó có phương án đổi lại tên nước thành Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong phiên khai mạc kỳ họp Quốc hội hôm qua 20/05, việc đổi tên nước đã đột ngột bị loại khỏi văn bản dự thảo.