VĂN HÓA ONLINE – VĂN HỌC NGHỆ THUẬT - THỨ BA 19 MAR 2024
Trần Thùy Mai: Từ Dụ Thái Hậu - Chương 11 - 20
Chương 11 đến Chương 20
Nước cờ của Lê Văn Duyệt
Trong vườn hoàng cung, một võ quan đứng bên cạnh tấm bia đá lớn, đang dạy cho hoàng
tôn Tông tập bắn.
Miên Tông giương cung, bắn mấy phát, phát nào cũng trật.
Điện Thanh Hòa của hoàng tử Đảm ở cạnh đó. Tình cờ, Cung tần Ngô Thị Chính đang
cùng con trai là hoàng tôn Hoằng đứng trên gác hóng gió.
Hoàng tôn Hoằng sinh sau hoàng tôn Tông đến mấy năm, nhưng người cao lớn, khôi ngô,
tính lại mạnh bạo hiếu thắng. Thấy Tông bắn trật hoài, Hoằng phá ra cười:
- Mẹ ơi, xem kìa, hoàng trưởng huynh của con bắn kiểu gì mà dở ẹt à! Ha ha ha…
Giám Lê, tiểu thái giám theo hầu Tông ngửng nhìn, quát to:
- Ai dám nói hoàng tôn ta bắn dở, xuống đây cho ta xem!
Hoàng tôn Hoằng tức khí:
- Ái chà, tên thái giám hỗn láo, mi tưởng mi là ai?
Thấy con hùng hổ chực chạy xuống gác, Ngô Thị Chính lật đật kéo lại:
- Đừng con, Đừng, đừng. Nó hỗn kệ nó, đừng có dứt dây động rừng, mẹ ngại lắm.
Hoàng tôn Hoằng vùng khỏi tay mẹ:
- Mẹ sợ cái gì, để con cho tụi nó mở mắt ra.
Chạy xuống gác, Hoằng đến bên Tông, giật phắt lấy cung tên:
- Xem đây! Thế này mới gọi là bắn, hiểu chưa?
Hoằng bắn ba lần, trúng bia cả ba.
Võ quan biết Hoằng là con cưng nhất của hoàng tử Đảm, liền nịnh:
- Hoàng tứ tôn còn nhỏ mà tài bắn thật lỗi lạc, quả đáng khâm phục lắm đó!
Hoàng tôn Hoằng dí tay vào mặt Giám Lê:
- Thằng bị thiến này, mày đã sáng mắt ra chưa? - Quay sang võ quan, Hoằng dõng dạc: -
Ta thường thường được điện hạ thân phụ dắt đi săn, được người truyền hết các bí quyết bắn
cung, nên tất nhiên là bắn giỏi hơn thiên hạ rồi!
Võ quan tán đồng ngay:
- Đúng rồi, thật đúng là hổ phụ sinh hổ tử, cái tài của hoàng tử lại truyền cho hoàng tôn,
đời này còn ai sánh kịp!
Nghe nhắc tới cha, hoàng tôn Tông lặng im không nói, mặt lộ vẻ buồn.
Giám Lê bênh chủ:
- Mỗi người có mỗi cái tài. Hoàng tứ tôn tuy giỏi bắn cung, cũng chưa chắc đã giỏi
chuyện khác. Bây giờ tôi hỏi tài làm thơ, liệu hoàng tứ tôn có hơn được hoàng trưởng tôn không.
Nếu mà hơn thì tôi xin làm con chó. - Quay sang Tông, Giám Lê thúc giục: - Hoàng tôn, hoàng
tôn đọc thơ đi, cho nó lác mắt!
Nhưng hoàng tôn Tông chỉ nghẹn ngào lắc đầu. Ngô Thị Chính cũng vừa chạy tới, hốt
hoảng:
- Trời ơi! Tông con, Hoằng con, hai con là anh em một cha, hơn thua mà làm gì? Cái
thằng nhỏ thái giám này thật nhiều chuyện, làm cho anh em hiềm khích nhau, ta méc hoàng tử
thì tội lớn lắm đó! Hoằng, hãy mau xin lỗi anh con đi!
Hoàng tôn Hoằng phụng phịu quay ngoắt người, bỏ đi:
- Bắn dở thì con nói bắn dở, con có lỗi gì đâu mà xin. Mẹ có méc phụ thân con cũng
không sợ, khi nào phụ thân cũng cưng con nhứt.
Ngô Thị Chính chưng hửng nhìn theo.
Hoàng tôn Tông về lại viện Đoan Trang, ngồi trước hòn non bộ bên hồ, vẻ mặt buồn hiu.
Dưới hồ, những con cá lia thia đỏ nổi lên mặt nước, tung tăng.
Hoàng tôn Tông ngồi lặng lẽ một lúc rồi một mình khẽ ngâm:
“Cá con dưới mặt hồ,
Tung tăng bên mình mẹ,
Chim non trên cành cao,
Ríu rít chờ bú mớm,
Ta thui thủi trong cung,
Một mình tuôn giọt lệ.”
Giám Lê từ phía sau đến, ngồi xích lại sát bên, nắm lấy bàn tay Tông:
- Hoàng tôn…
Hoàng tôn Tông vẫn ngồi lặng, thầm thĩ như nói một mình:
- Nghe người ta nói, mẹ ta ngày trước đẹp lắm. Vì mẹ tên là Hoa, nên hoàng đế ông nội ta
bảo hoa thì đẹp nhưng không bền, muốn được phước bền lâu phải đổi sang tên khác. Mẹ đã đổi
tên rồi, mà sao vẫn mau tàn như hoa vậy, ông Trời kia có biết tại sao không?
Giám Lê vẫn ấm ức:
- Dạ, con cũng nghe nói bà cung tần họ Hồ đẹp lắm. Sinh ra hoàng tôn được có mười
ngày thì bà tần qua đời. Số phận thật oan ức quá, nếu bà tần còn sống thì bây giờ hoàng tôn mới
là người được cưng nhứt, chứ không phải cái thằng chó con kia.
Một tiếng nói lạnh lùng vang lên phía sau:
- Thói đời xưa nay vẫn vậy, mẹ được yêu thì con được ẵm. Thằng ngu đó chỉ bám vào
váy mẹ mà ăn hiếp người ta. Mà cũng lỗi tại ngươi!
Tông và Giám Lê giật bắn mình quay lại.
Nhị phi đang đứng đó.
- Ta nghe nói nhà ngươi hôm nay bị thằng Hoằng nó bắt nạt cho phải không? Giám Lê, ta
đã bảo mi không được để cho hoàng tôn lép vế, sao mi đứng đó mà không cho thằng kia một bài
học? Nó có mẹ được sủng ái nhưng thằng Tông mới là con cả của hoàng tử, do ta đích thân nuôi
nấng. Để ta đem chuyện nói với Đảm, xem nó bênh vợ hay bênh mẹ.
Hoàng tôn Tông cuống quýt:
- Đừng, đừng, con xin bà nội đừng nói với phụ thân con. Em con còn nhỏ nghịch ngợm,
Ngô cung tần đã can ngăn. Nếu bà nội nói ra, sợ phụ thân phạt em tội nghiệp. Dầu sao em Hoằng
với con cũng là tình ruột thịt.
Nhị phi tức giận lắc đầu:
- Thật ngu ngốc. Ruột thịt! Nhà ngươi chưa biết thế nào là ruột thịt trong chốn cung đình
đâu!
Quay đi, bà sải bước trên đường đến góc vườn phía Tây. Bỗng trên một lối nhỏ, từ phía
viện Tần Trang, tỳ nữ Hạnh Nhi đang đi tới, dáng đi vội vàng.
Vừa thoáng thấy Hạnh Nhi, Nhị phi dừng ngay lại.
- Bẩm lệnh bà…
- Có việc gì?
- Bẩm lệnh bà, mấy hôm nay Tam phi nôn ói, bỏ ăn, suốt ngày kêu khó thở. Bên Thái y
viện đã cử người sang bắt mạch, kết quả…
- Kết quả thế nào, nói ngay đi. - Nhị phi sốt ruột.
- Dạ… Kết quả bên ngự y vừa đưa tới - Hạnh Nhi vừa nói vừa chìa ra một tờ giấy nhỏ
màu đỏ - Tam phi đã có long thai ạ!
Nhị phi lặng người đi mấy giây.
Sau một hơi thở mạnh, bà mím chặt môi, khoát tay:
- Cho ngươi lui. Nhớ ghé vào chỗ ông Giám Trần mà lấy thưởng.
Suốt chín tháng Tam phi mang thai, Nhị phi căng thẳng chờ đợi và tính kế đối phó. Bởi
hiện giờ tuy cai quản cung cấm nhưng bà vẫn chưa được phong hoàng hậu, chưa phải chính
cung. Về danh nghĩa chính thức thì địa vị của bà chỉ hơn Tam phi một chút thôi. Nếu lần này
Tam phi sinh con trai thì sao?
Qua khỏi mùa thu, Tam phi đủ chín tháng, đến ngày sinh nở.
Bên ngoài cung, nhiều nữ tỳ và thái giám chạy lăng xăng lui tới.
Tiếng rên la từ trong cung vang ra suốt một ngày trời. Thể tạng Tam phi vốn yếu ớt, tinh
thần lại thường xuyên khủng hoảng, mỗi một lần sinh con là một lần cửa tử mở ra đón nàng.
Trong lúc Tam phi quằn quại vượt cạn, thì bên viện Đoan Trang, Nhị phi cũng đang nóng
lòng chờ tin tức.
Thị nữ Hạnh Nhi lẻn chạy sang, báo tin:
- Bẩm lệnh bà, ngôi thai bị lệch, nhưng Ổn bà đã xoay lại được rồi ạ!
Vẻ bứt rứt hiện rõ trên gương mặt Nhị phi:
- Ngươi lập tức quay về theo dõi, sinh xong cho ta biết ngay: Con trai hay con gái.
- Dạ, bụng Tam phi to mà ngang phè phè, con có hỏi Ổn bà thì mụ ấy đoán chín mười
phần là con gái!
- Đừng có bẻm mép. Ta không khiến ngươi đoán mò, hãy đi ngay lấy tin chính xác cho
ta.
Còn lại một mình, Nhị phi cảm thấy uất nghẹn trong lòng. “Hoàng thượng, ngài là bậc
chí công chí minh, sao ngài hẹp lượng với thần thiếp như vậy? Khi hoàng hậu đang còn sống, thì
vì cớ tao khang chi thê bất khả hạ đường, không cho thiếp thay vào ngôi hậu đã đành. Nay bà ấy
đã mất, hà cớ gì ngài vẫn không hề một lời nhắc nhở. Thiếp bao nhiêu năm theo hầu hoàng
thượng, thử hỏi có chỗ nào không xứng đáng?”
Từ phía viện Tần Trang, những tiếng rên xé ruột vang ra, càng lúc càng gấp.
Trong viện, thị nữ xúm xít trước giường Tam phi. Ổn bà mặt xanh mét, mồ hôi túa ra đầy
trán:
- Dây nhau quấn cổ nên lệnh bà rặn mãi mà đầu hài nhi không xuống được. Sợ e…
Vú Sửu thấy Tam phi đã kiệt sức, xót quá, nước mắt chảy ròng ròng. Vú chắp tay lạy bà
mụ:
- Xin Ổn bà bình tĩnh, giờ phút này tất cả chỉ còn trông vào tay nghề của bà. Lạy bà, xin
bà ráng sức cứu mạng Tam phi.
Tam phi oằn người, không còn sức để rên siết.
Ổn bà lúc ấy đang run bắn lên, mất hết tinh thần, tay chân luống cuống, hai hàm răng va
lập cập vào nhau. Vú Sửu nài nỉ:
- Xin Ổn bà trấn tĩnh lại, cho bàn tay vào trong cửa mình, kéo sợi dây nhau ra khỏi cổ hài
nhi, may ra cứu được.
Ổn bà mếu máo:
- Lệnh bà yếu quá rồi… Lệnh bà có làm sao chắc mụ phải tội chết, trời ơi mụ chết mất…
Vú Sửu thấy không còn trông cậy gì được nữa, nóng ruột quá, liền đẩy phắt bà mụ ra một
bên. Vú lăn xả vào, thò tay dưới hạ thể đẫm máu của Tam phi.
- Thôi tôi cũng liều, có chết cùng chết cả.
Thị nữ chung quanh thảy đều khiếp vía, ôm mặt không dám nhìn.
Tam phi kêu rú lên. Máu chảy từ trên giường nhỏ xuống nền gạch.
Rồi có tiếng oe oe trẻ khóc.
Các thị nữ mừng rỡ reo lên:
- Con trai!
Mấy phút sau, Hạnh Nhi đã có mặt bên viện Đoan Trang. Nghe tin, Nhị phi cũng kêu lên:
- Con trai!
Bà lặng người, lảo đảo buông mình ngồi phịch xuống sập
***
Ngay hôm sau, Lê Văn Duyệt đến thăm Phạm Đăng Hưng. Ông dùng một võng nhỏ, chỉ
che một lọng, không mang theo quân gia rầm rộ như thường lệ. Bởi vì đấy chỉ là một chuyến đi
chơi lúc tạm thong thả việc quân, để mà hưởng nhàn vài canh giờ, đánh vài ván cờ cùng người
bạn tri kỷ.
Hạnh Thảo pha trà sen bưng lên, thấy hai người ngồi bên bàn cờ. Mặt cờ vẫn còn nguyên
thế trận đầu. Biết ván cờ này không phải ván cờ nhàn, nàng đặt trà bánh xuống bàn rồi nhẹ nhàng
lui gót, không quên tiện tay khép cánh cửa ngoài.
Trong phòng, Lê Văn Duyệt đang nhìn Phạm Đăng Hưng, như thăm dò ý nghĩ. Đăng
Hưng vẫn bình thản, ung dung như thường lệ.
Cuối cùng Lê Văn Duyệt lên tiếng trước:
- Ông thấy đó, Tam phi đã sinh hạ hoàng tử.
Ngừng một lúc, thấy Đăng Hưng vẫn không nói, ông đi thẳng vào việc:
- Ông có nhớ ván tứ sắc ở cung Nhị phi mấy năm trước không? Lúc đó ta không vội nhận
lời, chính là vì nghĩ trước sẽ có ngày này.
Phạm Đăng Hưng vốn không thích bàn tán đến những chuyện rắc rối trong nội cung. Ông
kính trọng tài năng và bản lĩnh của Tả quân Lê Văn Duyệt. Tài năng xuất chúng như thế, bản
lĩnh nghiêng trời lệch đất như thế, vậy mà phải để tâm đến những chuyện sinh con đẻ cái tủn
mủn trong phòng khuê, thật cũng mệt mỏi lắm thay. Tuy nhiên, ông biết cái thế liên hoàn giữa
triều đình và hậu cung, biết tính sinh tử của những ván cờ quyền lực. Vì vậy dù không thích thú,
ông cũng lặng yên thông cảm với người bạn tri kỷ.
Lê Văn Duyệt tiếp tục:
- Hoàng hậu mất đã lâu mà ngôi chánh cung vẫn trống, chứng tỏ là hoàng thượng không
muốn đưa bà ấy lên, không muốn xem Đảm là con đích tử. Ai cũng thấy ngài sủng ái Tam phi,
ngài muốn hư vị ngôi hoàng hậu để chờ Tam phi có con trai. Mấy năm nay Nhị phi đã sốt ruột
lắm, không thêm được vây cánh, bà ấy đổ sự bực tức lên đầu ai ông biết không? Chính là ông đó.
- Sao lại là hạ quan? Đã lâu rồi, kể từ khi triều đình ban hành đạo dụ cấm các triều thần ra
vào hậu cung, hạ quan đã không hề gặp mặt Nhị phi. Đã không hề gặp, sao lại có ân có oán?
Lê Văn Duyệt cười:
- Thì chính cái đạo dụ mà ông đã dâng lên hoàng thượng châu phê đó. Nhị phi giao du
với triều thần là để kéo vây kết cánh. Từ sau khi đạo dụ này ban hành, thì bà ta đâu có được phép
mời ai vào cung để đánh những ván bài tứ sắc chết người như hồi đó nữa.
Đăng Hưng hiểu ra, bật cười:
- Chuyện như chuyện đùa, mà hóa ra lại là sự thật. Hưng chỉ làm phận sự của kẻ bề tôi,
Lệnh bà có giận cũng đành chấp nhận.
Lê Văn Duyệt đặt tay lên vai Đăng Hưng:
- Không phải chuyện đùa đâu! Những trò đùa trong cung cấm đều là những trò đùa đẫm
máu và nước mắt. Cho nên ta không thể không tính trước, có tính trước con cháu ta sau này mới
thoát khỏi những hậu họa đầy máu lệ. Nếu chúng ta sinh sống làm ăn nơi dân dã, không phải ở
cái nơi đầy mưu đồ như chốn này, thì ta có mất công quan tâm đến cái thằng bé con đang khóc
oe oe ấy làm gì?
Đăng Hưng không khỏi chạnh lòng, ông ngần ngừ một lát rồi hỏi:
- Vậy là… Vậy là Đức ông sẽ ủng hộ hoàng tử mới sinh? Đức ông không còn nghĩ tới
đứa con côi của Anh Duệ hoàng thái tử Cảnh ư?
Lê Văn Duyệt thở dài:
- Thái tử Cảnh rất có công, tính tình lại hiền đức cao quý, chẳng may mất sớm, lòng
người ai cũng tiếc. Nhưng thái tử sang Pháp cầu viện khi mới lên bốn, rồi ở bên đó bốn năm năm
trời, chịu sự giáo dưỡng của cha cố Bá Đa Lộc. Mối liên hệ với đạo Gia Tô và nước Pháp rất lớn,
ta vẫn thường lo âu điều đó. Thái tử mất, các cố đạo người Pháp vẫn xem là một tổn thất lớn của
họ! Ta e rằng các cố đạo Tây không bao giờ từ bỏ dự định, e rằng họ vẫn cố duy trì mối liên hệ
với hoàng tôn!
- Vậy ý hoàng thượng thì sao? Ngài có định tuyệt giao với phương Tây? - Đăng Hưng
hỏi.
Lê Văn Duyệt lắc đầu:
- Không. Hoàng thượng là người nhìn xa trông rộng, người hiểu sức mạnh của phương
Tây, biết sử dụng sức mạnh ấy. Ngài biết dùng người Tây để xây dựng thành trì, để mua bán
hàng hóa, biết cùng lúc bang giao với nhiều nước. Ngài không quay lưng từ khước văn minh Tây
dương, nhưng cũng không để cho nó nuốt chửng mình. Ta luôn nể phục sự ôn hòa và khéo léo
của ngài… - Lê Văn Duyệt trầm giọng, nói tiếp: - Ông hiểu chưa, hiểu vì sao ta không ủng hộ
Đán, và cũng không ủng hộ Đảm. Đảm thông minh, quả quyết, chính trực. Cũng xứng đáng làm
vua. Nhưng tầm nhìn của Đảm không đủ xa như hoàng thượng.
- Vâng, Đức ông thật sáng suốt. Đức ông đã mở mắt cho Hưng, đúng là có những điều
Hưng chưa hề nghĩ tới.
Giọng Lê Văn Duyệt trĩu nặng suy tư:
- Nếu thời gian kéo lùi lại vài trăm năm, Đảm có thể sẽ là một vị minh quân. Ý ta là, nếu
trong một đất nước khép kín như thời Lý, thời Lê, chỉ cần ông vua cần mẫn, thương dân, thưởng
phạt công minh là đủ, thì Đảm sẽ là ông vua tốt. Nhưng thời bây giờ đã khác. Thế giới của chúng
ta bây giờ không phải chỉ có Tàu, Xiêm, Miên, Lào như trước đây. Phương Tây đã trở thành mối
lo cho phương Đông. Phải thấy trước điều đó. Đảm không quan tâm giao thiệp, không quan tâm
thương mại, nhiều lần thúc giục hoàng thượng bế quan tỏa cảng, cấm Đạo, đúc tàu, đúc súng để
đề phòng. Hừm, đúc tàu, đúc súng là việc phải làm, nhưng dựa vào mấy cái tàu đồng đó để
chống phương Tây ư? - Lê Văn Duyệt dừng lại, cười thành tiếng.
- Đán không được, Đảm cũng không xong. Vì vậy phải có giải pháp thứ ba? - Đăng Hưng
nói, ông dần dần hiểu ra.
Lê Văn Duyệt tiếp:
- Đúng. Triều thần đang chia làm hai phái quanh hai cái tên này. Chọn ai cũng sẽ gây ra
sự chia rẽ rất lớn sau đó. Nhưng hoàng thượng mới ngoài năm mươi, nếu Trời cho ngài trường
thọ thì đứa trẻ kia còn kịp lớn lên. Nếu được ở vai trò sư phó, ta sẽ rèn luyện nó thành ông vua
xứng hợp!
Tiễn Lê Văn Duyệt về rồi, Đăng Hưng quay vào ngồi trước án thư, cúi đầu nghĩ ngợi.
Chợt có tiếng chân người se sẽ đến gần.
- Hạnh Thảo, có việc gì vậy?
Hạnh Thảo vừa cúi dẹp những chén trà trên án, vừa thưa:
- Bẩm quan lớn, thiếp có vài việc xin thưa trình.
Đăng Hưng đặt sách xuống:
- Hạnh Thảo, lúc Đức ông Lê Văn Duyệt ở đây, ta biết rõ nàng đứng khuất sau bức mành.
Ta cố ý làm lơ để cho nàng đứng đó, là vì ta tin nàng có thể chia sẻ gánh nặng này với ta.
- Tạ ơn quan lớn đã bao dung với thiếp. Bẩm quan lớn, lúc nãy Đức ông có nói đến việc
tôn phò hoàng tử do Tam phi vừa hạ sinh. Việc đó có quan trọng không?
- Quan trọng lắm chứ. Nàng có hiểu cái đạo vô vi của người xưa không? Vô vi không
phải là không làm gì như người ta thường lầm tưởng. Vô vi là làm trong cõi vô, tức là tác động
vào sự việc từ lúc nó mới nẩy mầm, chưa hiện hình ra trong cõi mắt thấy tai nghe. Việc làm của
Đức ông chính là như vậy đó!
Hạnh Thảo nhích lại gần một chút, hạ giọng:
- Bẩm quan lớn, vậy thì nguy rồi. Xin quan lớn chớ ngồi cùng thuyền với Đức ông trong
việc này!
Đăng Hưng cau mày:
- Hạnh Thảo, nàng biết tính ta rồi đó. Ta xưa nay không muốn dính đến những chuyện
mưu đồ tính toán. Ta chỉ biết dựa vào một thứ, đó là sự ngay thẳng của chính ta mà thôi! Nàng
chớ lo âu. Nhưng tại sao nàng lại nói vậy, tại sao nàng lại cho là…
Hạnh Thảo cười:
- Quan lớn không dính líu đến việc này là được rồi, hà tất thiếp phải tò mò xen vào việc
thiên hạ?
- Không, nàng phải nói cho ta biết vì sao. Đức ông xem ta là tri kỷ, sao ta có thể làm ngơ
trước an nguy của người?
Hạnh Thảo ngần ngừ một lát rồi gật đầu:
- Bẩm quan lớn, nếu quan lớn lo nghĩ cho Đức ông như vậy… Thiếp xin quan lớn nói cho
Đức ông biết, Đức ông đã lầm rồi. Đức ông dựa vào đâu để tính chuyện đứng về phía con trai
của Tam phi?
Đăng Hưng ngạc nhiên:
- Hạnh Thảo! Ta cũng không quan tâm đến chuyện trong nội đình, nhưng tay chân thủ hạ
của Đức ông thì nắm vững từng chi tiết. Hoàng thượng tháng nào cũng ngự đến tam cung hơn
hai mươi hôm có dư. Còn Nhị phi thì, tuy hoàng thượng nói rất nể rất quý, nhưng lâu nay bà ấy
chỉ có làm, không có hưởng, ngôi chánh cung bỏ trống đã lâu mà bà ấy chưa hề được cái vinh dự
đội mũ phượng.
Hạnh Thảo lắc đầu:
- Hai mươi hôm một tháng… Con số thật chính xác, nhưng… những con số có nói lên
được gì đâu? Hoàng thượng một tháng dù có đến cung Tam phi cả ba mươi hôm đi nữa, đâu có
nghĩa là Tam phi được yêu thương đâu?
Đăng Hưng cau mày:
- Thế là thế nào, ta vẫn chưa hiểu?
- Vâng, đúng vậy! Thật ra Tam phi chỉ là một tù binh đáng thương, hoàng thượng thích
đến với bà ấy có lẽ chỉ để tận hưởng cái cảm giác của người chiến thắng. Nỗi niềm của bà ấy, có
lẽ chỉ có nô tỳ hiểu được mà thôi!
Đăng Hưng lặng im. Ông sải bước đi lui đi tới trong thư phòng, ngẫm nghĩ:
- Đúng, đúng! Ai mà hiểu thấu được việc này, trừ Hạnh Thảo? Cái nỗi đau đớn cừu thù
trong lòng hoàng thượng cho đến nay vẫn còn sâu lắm! Nhà Tây Sơn khi thắng thế đã quật hết
mồ mả chín đời của ngài đổ xuống sông xuống biển. Nhà Tây Sơn cũng đã giết bốn người anh
em trai và một người em gái út của ngài. Khi chiến thắng, việc đầu tiên của ngài là bắt giết hết
con cháu Tây Sơn, rồi khai quật mồ mả các chúa Tây Sơn…
Hạnh Thảo như đọc được ý nghĩ của Đăng Hưng:
- Mồ mả của Tây Sơn chỉ có thể khai quật một lần. Còn Ngọc Bình, hoàng hậu Tây Sơn,
chính là một ngôi mộ sống, hết ngày này sang ngày khác liên tục bị khai quật cày xới!
Đăng Hưng thấy lạnh người:
- Ta hiểu rồi! Vậy mà Đức ông Lê Văn Duyệt lại đặt tương lai trên ngôi mộ ấy!
Mải nghĩ ngợi về câu chuyện mưu bá đồ vương, Phạm Đăng Hưng không để ý thấy vợ
mình vừa đi ngang. Thấy Hạnh Thảo đứng đó, phu nhân chỉ khẽ liếc nhìn rồi đi thẳng.
Chương 12
Duyên phận của Phạm tiểu thư
Mấy hôm nay Hằng cảm thấy buồn, buồn vì cảm thấy mẹ có điều gì đó ấm ức không vui.
Phạm phu nhân không nói ra được nên càng khó chịu, mà muốn nói thì chẳng có căn cứ gì, nên
chẳng dám mở lời.
Mấy hôm trước, Hạnh Thảo dạy Hằng làm món bánh đậu xanh. Hai chị em đang cùng
nhau nặn những chiếc bánh nho nhỏ hình trái xoài, trái lựu xinh xinh, thì Phạm phu nhân đi vài
bếp. Hằng nâng niu trong lòng tay chiếc bánh vừa làm xong, chạy đến khoe mẹ, nhưng bà chẳng
nói một tiếng nào, chỉ sa sầm nét mặt. Hằng tiu nghỉu, còn Hạnh Thảo thì lo lắng nhìn theo phu
nhân, chẳng biết hai chị em có lỗi gì khiến phu nhân phiền lòng?
Vốn thông minh nên Hằng chẳng khó khăn gì mà không nhận ra mẹ đang cáu kỉnh với
Hạnh Thảo. Chỉ có điều không biết cáu kỉnh vì chuyện gì? Hằng thương mẹ lắm, đồng thời với
Hạnh Thảo thân thiết như chị em. Không có nỗi buồn nào hơn là nỗi buồn khi hai người mình
cùng yêu thương lại không thể hòa thuận với nhau. Không muốn làm mẹ phật lòng, nên Hằng cứ
lặng thầm thui thủi một mình trong phòng khuê, mặc dù rất nhớ, rất thèm rúc rích với chị Thảo…
Cho đến hôm nay, khi Phạm Đăng Hưng từ nhà trên bước xuống, đưa cho con gái bức
thư gửi từ trong Quảng Ngãi, Hằng nhìn qua mấy dòng, vui quá, quên cả giữ ý, vội chạy ngay
vào bếp:
- Chị Thảo, có thư của anh Quế nè.
Hạnh Thảo nhìn vội vào nhà trong rồi quay nhìn Hằng, tủm tỉm cười:
- Chú Quế gửi thư cho em à?
Hằng lắc đầu:
- Đâu có, gửi cho cha mà. Anh Quế báo tin sẽ ra kinh đô thi Hương đó!
Vậy là sắp gặp lại Đăng Quế rồi, cả nhà họ Phạm đều vui. Riêng Phạm Đăng Hưng càng
vui ra mặt. Nhân lúc việc quan hơi nhàn, ông đến ngồi bên phu nhân, đặt tay lên vai bà:
- Bà ơi, tôi có chuyện này muốn nói với bà.
Phu nhân đang ngồi thêu, dừng tay, mát mẻ:
-Tôi mà cũng được hân hạnh hầu chuyện với ông sao!
Đăng Hưng ngạc nhiên:
- Sao bà nói thế? Mười mấy năm nay tôi không trò chuyện với bà thì còn với ai?
Như khơi trúng mạch ấm ức trong lòng, phu nhân bật tuôn ra:
- Với ai! Với ai tôi không hạ mình nói ra làm gì, quan lớn tự biết.
Đăng Hưng nghiêm mặt:
- Tôi xin bà, bà nghĩ gì cứ việc nói ra, chứ bóng gió vậy tôi không mất công suy nghĩ đâu.
Phu nhân tức tưởi:
- Đã vậy thì tôi nói. Hôm kia quan lớn nói chuyện gì với con Thảo mà thì thầm to nhỏ, bí
bí mật mật thế?
Đăng Hưng ngớ người ra, bật cười:
- Ôi trời! Ta cứ tưởng chuyện gì! Chẳng qua là có vài chuyện hệ trọng trong cung, cần
hỏi thì ta hỏi. Hạnh Thảo trước kia đã từng hầu hạ hoàng hậu và Tam phi, nó biết nhiều chuyện
người ngoài không biết.
Phu nhân vẫn không chịu:
- Chuyện gì trong cung, ông nói cho tôi nghe thử.
- Nói làm gì, bà biết chỉ thêm mệt đầu thôi, chẳng ích gì đâu?
- Quan lớn nói thế không sợ tôi tủi thân sao, không lẽ tôi không bằng một đứa nô tỳ.
- Sao bà kỳ thế, bà không tin tôi hả?
- Ông thậm thụt như vậy, biểu tôi tin sao được?
Đăng Hưng cau mặt.
- Bà đang nghĩ bậy đấy à? Từ lúc lấy nhau đến giờ mười lăm năm trời, đã có bao giờ tôi
nói sai lời với bà chưa? Bà nói thế là phụ lòng tôi lắm đấy.
Phạm phu nhân vốn dễ xúc động, mới nghe ông nói vậy đã trào nước mắt. Thấy phu nhân
khóc, Đăng Hưng ái ngại, dỗ dành:
- Hồi mới cưới tôi đã thề đến chết không phụ mình, mình nhớ giùm cho tôi đi! Thiệt tình
tôi chỉ hỏi nó chút chuyện liên quan công việc, mình đàn bà đừng nên tò mò chuyện công việc
của chồng mới phải. Cứ đa nghi thế sao gọi là vợ chồng tốt.
Phạm phu nhân cảm động, tuy chưa bằng lòng hẳn nhưng cũng lau nước mắt. Tính bà
vẫn vậy, hay nghi nhưng lại cả tin, mau giận hờn mà cũng dễ nguôi.
- Sao dạo này tôi hay nghĩ quẩn quá mình à! Mình tha lỗi cho tôi nhen.
Đăng Hưng cười, trêu:
- Con gái đã lớn tướng rồi mà mẹ còn ghen tuông nhõng nhẽo như con nít thế này, coi có
được không. Thôi, bây giờ tôi nói chuyện này, bà nghĩ sao cho tôi biết.
Thấy chồng ân cần hỏi han, phu nhân mặt tươi như hoa, gật đầu lia lịa:
- Có việc gì ông cứ nói đi!
- Mình sinh được một gái, xưa nay người ta nói “Nữ thập tam, nam thập lục”, con gái đến
mười ba tuổi là gả chồng mà con mình nay cũng gần mười hai tuổi rồi. Vừa rồi trời xui gặp Đăng
Quế, tôi thấy Quế văn võ toàn tài thật là người hiếm có ở đời. Trong khi nghèo khổ thiếu thốn
mà còn như vậy, sau này có đất dụng võ thì không biết biến hóa đến đâu. Nay Đăng Quế ra kinh
ứng thí, tôi muốn nhân dịp này cho con Hằng đính ước với nó, bà có ưng bụng không?
Phạm phu nhân giật mình:
- Úy trời, chuyện này chưa bao giờ tôi nghĩ đến. Tôi cũng thương thằng Quế lắm, ngặt
nỗi nhà nó nghèo quá, lỡ ra nó thi không đậu thì lấy gì nuôi con mình sau này.
Đăng Hưng quả quyết:
- Với tài học Đăng Quế, chắc chắn nó đậu mà có khi còn đậu đầu nữa bà ạ!
Phạm phu nhân vẫn chưa chịu:
- Thi cử không phải dễ, giỏi thì giỏi còn phải tính cái may rủi, cái phước nhà nó dày hay
mỏng nữa… Ai dám nói chắc được.
Đăng Hưng cố thuyết phục vợ:
- Theo tôi thì nó đã là người có tài có chí, dù rủi ro trượt cơ hội này cũng sẽ tìm được cơ
hội khác trên đời. Bà cứ trù trừ, đến khi nó đậu rồi, sẽ có khối nhà quan ở kinh thành lập tức gọi
gả con gái, khi đó mình sẽ mất thằng rể tốt cũng uổng.
Phạm phu nhân có vẻ hơi xuôi tai:
- Vậy hả ông, ồ, nếu nó thi đậu chắc sau này làm quan to lắm, nghĩ cũng tiếc thật… Thôi
thì mặc ông, ông tính sao thì tính! À mà khoan, ông đừng vội nói gì, để tôi đi lễ cầu một quẻ xem
tốt xấu ra sao đã…
***
Kỳ thi Hương đã xong, lễ truyền lô diễn ra vào một sớm đầu thu. Dân cư trong kinh kỳ
kéo nhau đến đứng kín bờ sông, chờ đợi. Trước Phu Văn Lâu, cờ xí rợp trời, lính triều đình
mang áo vàng nẹp đỏ vác giáo đứng nghiêm tăm tắp.
Trong phủ, Phạm Đăng Hưng đang chuẩn bị khăn áo đến công đường. Ông muốn uống
một hớp trà ô long trước khi lên võng, nhưng nhìn lui nhìn tới trong nhà chẳng có ai. Hóa ra
Hạnh Thảo và Hằng đã ra bờ sông từ sáng sớm, đang trong số người đông đảo chen nhau chờ
nghe danh sách trúng tuyển. Phạm phu nhân thì từ tờ mờ sáng cũng đã ngược thuyền lên tận điện
Hòa Nam, dâng lễ lên nữ thần Thiên Y A Na để cầu xin một quẻ xăm cho biết ý Trời.
Đăng Hưng đành lên võng. Sắp ra khỏi cổng thì phu nhân vừa về, hấp ta hấp tấp:
- Quan lớn ơi! Không xong rồi. Khoa này Đăng Quế hỏng rồi, không có đậu đạt gì đâu!
- Hừ, ai nói với bà vậy?
- Nữ thần nói.
Đăng Hưng phì cười.
- Bà gặp nữ thần hồi nào vậy cà?
- Ông ơi, ông làm quan bộ Lễ mà ông hí lộng quỷ thần vậy sao, mắc tội chết đó ông. Tôi
sắm lễ vật thành tâm lắm nên nữ thần mới lộ cho tôi biết thiên cơ. Gieo quẻ âm dương ba lần đều
sấp cả ba, còn gì mà hy vọng nữa.
Đăng Hưng nhăn mặt. Là nhà Nho, ông luôn hiểu lời dạy của Đức Khổng: “Nói không có
quỷ thần là bất nhân. Nói rằng có quỷ thần là bất trí.” Tuy vậy, thấy vợ lo lắng quá ông cũng
không nỡ. “Bà ơi, tôi không tin chuyện tiền sấp, tiền ngửa đâu. Nhưng mà, duyên số tự trời, bà
chưa yên lòng thì tôi cũng chưa vội, yên tâm đi. Thôi, để cho tôi đi việc quan kẻo trễ rồi.
Ông đến công đường bộ Lễ, bận rộn với công việc, vẫn tin chắc cuối ngày về dinh sẽ
nghe tin mừng Đăng Quế thi đậu. Đến lúc nhìn thấy khuôn mặt buồn rầu của Hằng và Hạnh
Thảo, ông mới giật mình:
- Sao, hôm nay truyền lô ra sao rồi?
Hằng thưa:
- Thưa cha, hỏng rồi!
- Hả? Ai hỏng, sao lại hỏng?
Phạm phu nhân vừa dưới nhà ngang bước lên:
- Ông cứ chế nhạo tôi, bây giờ đã rõ chưa. Đăng Quế thi hỏng rồi, nữ thần nói có sai đâu.
Phạm Đăng Hưng vẫn không tin:
- Chắc có sai lầm gì đây, chứ tài học của Đăng Quế không thể hỏng được! Hằng, con
nghe có rõ không?
- Dạ, con với chị Hạnh Thảo đứng nghe từ giờ Thìn tới hết giờ Ngọ, hết cả danh sách mà
không hề nghe tên anh Quế.
Đăng Hưng vẫn không chấp nhận sự thật:
- Vô lý! Vô lý quá. Bao nhiêu công sức bỏ ra để tìm người giỏi ra giúp nước. Vậy mà
người giỏi rành rành như thế lại bị loại ra ngoài, thế thì thi cử còn ý nghĩa gì nữa?
Hằng cũng thấy xót:
- Thật buồn cho anh Quế quá. Hay là phạm húy, hay là...
Đăng Hưng hậm hực:
- Năm nay hoàng thượng giao cho hoàng tử Đảm đích thân đốc thúc kỳ thi. Ta phải vào
gặp hoàng tử điện hạ, xin cho xem lại các bài thi, coi nguyên ủy vì sao.
Phu nhân vội can ngăn:
- Đằng nào cũng hỏng rồi, xem lại đâu có ích gì? Vả lại cũng là số Trời đó ông...
Đăng Hưng gạt đi:
- Việc này không liên can gì với số Trời. Cho dù nó có rớt, cũng phải biết rớt vì sao,
không thì sẽ còn rớt cả đời đó.
Hằng tán thành:
- Phải đó cha ạ, lần này đã đành thua rồi, chỉ mong sao anh Quế lần thi sau may mắn.
Tại nhà trọ ở phía Đông kinh thành, Trương Đăng Quế đang khoác tay nải lên vai, sắp
sửa về quê.
Lòng anh buồn rười rượi, đã đành mấy ai đi thi mà đậu đạt ngay khóa đầu. Nhưng công
lao lặn lội từ trong Quảng Ngãi ra đây, để rồi về hai bàn tay trắng, làm sao không não ruột. Nhất
là khi nhớ tới hình ảnh mẹ già run run bỏ vào tay nải mấy đồng bạc gói ghém cẩn thận trong cái
túi vải thô. Mấy đồng bạc ấy, bà đã phải vay đến vài ba nhà hàng xóm mới gom đủ.
Chủ quán trọ thấy Quế bước ra, lên tiếng:
- Thầy khóa lại về quê à? - Miệng nói, tay liền giở sổ xem đã trả đủ tiền chưa.
Đăng Quế gượng cười:
- Thi rớt rồi, còn gì nữa mà không về.
Anh moi mấy đồng bạc trong hầu bao, trả cho chủ quán.
Chủ quán xem sổ:
- Còn tiền mấy hũ nước thầy đã uống hết, sáu xu nữa.
Đăng Quế lục hết các túi, moi ra thêm mấy xu.
Chủ quán thấy Quế buồn, cũng cám cảnh:
- Nghe nói thầy quen với quan Thượng thư họ Phạm, sao không đến nhờ vả? Đường về
xa xôi, coi bộ thầy cạn túi rồi, lấy chi mà ăn uống dọc đường?
Đăng Quế cau mặt:
- Công không thành, danh không toại, còn mặt mũi nào đi gặp ai nữa.
Quế buồn buồn nghĩ tới Hằng. Vậy là dịp này đến kinh đô mà không gặp được cô. Có
phải mình sĩ diện quá nên mới ra nông nỗi? Khi chưa thi, thì ngại bị cho là nhờ vả, nên chưa đến
chào Phạm thượng thư. Bây giờ thì chẳng còn tinh thần nào mà đến nữa, đến với bộ mặt “thư
sinh lạc đệ” thì đến làm chi?
Chủ quán thấy Quế nhếch mép không nổi, thương tình:
- Thôi, tui bớt cho thầy hai xu, tui cũng cám cảnh thầy quá. Úy, chi rứa, lính tráng ở mô
mà tới vây kín nhà tui ri hè, chết rồi…
Quế nhìn ra, thấy lính triều đình đang kéo tới, giàn quanh nhà trọ. Viên đội trưởng gọi to:
- Có tân khoa Trương Đăng Quế ở đây không?
Người trong quán tất cả đều sững sờ.
Lính ập vào, bế thốc Quế lên, đặt lên ngựa dẫn đi.
Trước công đường bộ Học, những thí sinh trúng tuyển đã tụ tập đầy đủ, phục trang chỉnh
tề, ai nấy mặt tươi như hoa. Đăng Quế được đưa vào nội đường cấp tốc lãnh áo mũ. Cứ như
trong một giấc mơ, Quế nhủ thầm, thỉnh thoảng lại đưa tay véo vào cánh tay bên kia xem thử
mình có tỉnh hay không.
Các tân khoa áo mũ rực rỡ ngồi trên mình ngựa, trên đầu có lọng đỏ che. Hai bên đường
phố người dân chen chúc đứng xem, trầm trồ không ngớt.
Đăng Quế là thủ khoa, đi đầu đoàn, được che hai lọng.
Đến lúc đó Quế vẫn chưa biết tại sao sau một đêm số phận anh lại thay đổi hoàn toàn như
vậy, từ dưới vực sâu vụt bay lên trời cao. Anh vẫn chưa biết hai hôm trước Phạm thượng thư đã
vào điện Văn Minh khẩn báo với hoàng tử Đảm. Hoàng tử đã đích thân xem lại các bài thi, kết
quả là Chánh chủ khảo Giáp Văn Thân bị tống ngục về tội gian tấu. Đảm định chém Giáp Văn
Thân ngay lập tức, nhưng Đăng Hưng hết sức xin tha mạng cho Thân, để cho Thân một cơ may
lập công chuộc tội, và cũng để ngày vui tuyển chọn nhân tài được vui trọn vẹn.
Thân giữ được cái đầu trên cổ, cũng có nghĩa là trong cuộc đời này Đăng Hưng đã có
thêm một kẻ thù.
Người vui nhất, sau Trương Đăng Quế, chính là Phạm phu nhân. “Bây giờ Đăng Quế lại
đậu, mà đậu đầu nữa, thật không ai ngờ!”. Phu nhân hớn hở kể với chồng khi ông vừa về phủ.
Đăng Hưng cười:
- Đó, bây giờ bà tin tôi hay tin nữ thần?
Phu nhân cười lỏn lẻn:
- Thì ông còn tài giỏi hơn thần thánh, tôi chịu ông rồi. Giờ ông gọi gả con gái đi, đúng ý
ông rồi đó.
Đăng Hưng gạt đi:
- Bây giờ thì thôi, tôi không bao giờ gả con cho Quế nữa đâu.
Phu nhân tròn mắt:
- Sao vậy? Ông có gàn quá không? Hồi Quế còn cùng đinh thì đòi gả con gái. Bây giờ nó
vinh hiển thì lại chê?
Đăng Hưng kéo vợ ngồi xuống:
- Trước kia khác, bây giờ khác. Thôi để tôi nói cho bà nghe: Đăng Quế bị chánh chủ khảo
ém nhẹm bài thi để đưa người thân của y lên vị trí thủ khoa. May sao ta vào bẩm với hoàng tử
cho phúc khảo, nên sự thật mới bị phát giác. Ta làm việc đó vì công tâm với một nhân tài, chứ có
phải vì muốn gả con nên dồi mài cho Quế đâu. Nếu nay ta gọi gả con, thì lương tâm ta cũng thẹn
với chính ta, không thể được!
Phạm phu nhân giẫy nẩy:
- Nếu vậy thì Quế được làm quan là do công lao của mình, sao mình lại không hưởng?
Ông gàn thiệt rồi! Ông ngại nói thì để tôi nói, có được không?
Phạm Đăng Hưng bực mình, gắt:
- Ơ hay cái bà này! Bà có im đi không? Tôi đã nói không là không!
Phạm phu nhân sợ hãi, rơm rớm nước mắt.
- Thôi thì thôi, làm gì ông nặng lời vậy.
Đăng Hưng thấy vợ buồn, vội dịu giọng:
- Tôi biết bà thương tôi lắm, mà sao tôi nói bà không chịu hiểu!
Phạm phu nhân che mặt thổn thức:
- Vâng, tôi không hiểu ông. Phải rồi, tôi vớ vẩn, nông cạn, tôi cái gì cũng không đúng,
không phải. Còn người ta cái gì cũng hay, cũng khéo…
Hạnh Thảo bưng ấm trà vào, tình cờ nghe tiếng phu nhân. Cô bất giác dừng lại, áy náy
cúi đầu.
Về phòng, Hạnh Thảo ngồi một mình, băn khoăn nghĩ ngợi. Hằng đi vào, sà xuống bên
cạnh cô.
- Chị Thảo ơi, nghĩ gì vậy? Nói cho Hằng biết đi!
Hạnh Thảo gượng cười:
- Chị nghĩ gì hả… À… chị nghĩ, chị nghĩ không biết nơi quê nhà chị còn ai thân thích
không. Nếu một ngày nào đó chị về, ở đó còn ai biết chị, còn ai chào đón chị không?
Hằng nhăn nhó:
- Ai cho chị đi mà đi. Chị đã nói đây là gia đình của chị mà.
Hạnh Thảo cúi đầu, bùi ngùi.
- Ừ, chị có nói như vậy, nhưng bây giờ…
Nước mắt dâng lên mi, Hạnh Thảo quay đi, tránh cái nhìn của Hằng.
- Mà em đừng lo, chị nghĩ vậy nhưng đã tính gì đâu.
Hằng đăm đăm nhìn:
- Giữ lời hứa với Hằng đó, không được nghĩ lung tung, nghĩ lung tung mặt xấu đi đó
nhen. Thôi, cười, cười đi…
Hạnh Thảo phì cười, đưa tay áo lau vội mắt.
Chương 13
Thất sủng
Vua Gia Long đứng bên mộ hoàng hậu. Trước mộ, trong chiếc đỉnh đồng, đồ vàng mã
đang cháy. Ngọn lửa bốc cao rồi lụi dần.
Mây âm u phủ kín trời chiều.
Thái giám Trung Tín đứng cách xa xa, chờ mãi hồi lâu mới dám rón rén lại gần:
- Tâu hoàng thượng, xin thỉnh ngài ngự giá hồi cung.
Vua vẫn đứng lặng yên bất động. Trung Tín ngửa bàn tay, vài giọt mưa thấm ướt.
- Xin hoàng thượng mau ra kiệu! Mưa giông, sấm chớp giữa trời, nguy hiểm lắm!
Nhà vua vẫn không động tĩnh gì, cứ chìm đắm trong bao nhiêu suy tưởng. Mưa bắt đầu
rơi, ban đầu rỉ rắc rồi thoắt cái ào ào trút xuống. Vua vẫn đứng im.
Trung Tín không biết làm sao, đành vẫy tay, ra hiệu cho Ngự lâm quân mang tàn vàng
vào trước mộ, che cho vua.
Vua Gia Long như sực tỉnh, từ từ ngẩng đầu, không nhìn ai, chầm chậm bước đi.
Cả đám quan hầu xúm xít chạy theo, phò ngài lên kiệu trở về.
Vào đến tẩm điện, Trung Tín lăng xăng thay áo, lau người cho chủ. Thấy vẻ mặt vua vẫn
dàu dàu, ông nghĩ nên nói gì đó cho ngài quên nỗi buồn:
- Tâu hoàng thượng, vừa có tin vui: Tam phi đã sinh hạ một hoàng tử.
- Vậy à?
Từ khi hoàng hậu qua đời, vua Gia Long rất ít khi nghỉ đêm ở viện Tần Trang. Nỗi buồn
pha lẫn chút ăn năn làm cho nhà vua dịu lòng lại; chính vì lòng lành ấy, ngài bỗng không còn cái
thú vui hằn thù trên thân xác người vợ cũ của vua Tây Sơn.
- Hoàng thượng có muốn hạ lệnh ban thưởng, hoặc là đi thăm hoàng nam không?
- Tất nhiên sẽ ban thưởng. Nhưng chưa vội.
Trung Tín vâng dạ. Theo lệ trong cung mỗi khi phi tần sinh con, Thái y viện phải báo với
Chánh cung, rồi Chánh cung mới tâu lên cho vua biết. Khi đó việc sinh nở mới xem là chính
thức, mới định chuyện thăm viếng hay ban thưởng. Sở dĩ Trung Tín phải báo tin cho vua là vì từ
khi hoàng hậu qua đời, trong cung chưa chính thức có người làm chủ. Lâu nay người ta bàn tán,
ai sẽ là người thay thế: Nhị phi hiện là người cai quản nội cung, nhưng Tam phi mới là người
thường xuyên kề cận chăn gối với hoàng thượng. Rồi thì ngài sẽ chọn ai? Trong mắt của người
chung quanh, việc này thật là khó đoán.
Thấy nhà vua trần ngâm, Trung Tín thăm dò:
- Tâu hoàng thượng, hoàng hậu khuất núi đã lâu, nay cũng mãn tang rồi. Ngôi chánh
cung vẫn còn để khuyết. Bây giờ hoàng tử ra đời, Thái y viện biết báo cho ai đây?
Vua Gia Long đặt mình xuống nệm gấm:
- Từ hồi hoàng hậu đau yếu, thực tế Nhị phi đã quản nhiếp sáu cung rồi. Nay tất nhiên
cũng phải để bà ấy tiếp tục công việc.
Trung Tín ngần ngừ một lúc rồi đánh bạo hỏi:
- Muôn tâu… vậy nghĩa là hoàng thượng sẽ phong Nhị phi làm hoàng hậu?
Hỏi câu ấy, là Trung Tín đã vượt quá giới hạn của một kẻ nô bộc. Nhưng Trung Tín là
người hầu tâm phúc của vua từ khi ngài còn là một hoàng tôn trong cung chúa Nguyễn. Hơn nữa,
hôm nay nhà vua đang cảm thấy rất cô đơn. “Trung Tín à, không, không phải vậy. Việc cai quản
sáu cung thì đã đành giao cho bà ấy. Còn về danh hiệu hoàng hậu thì trẫm còn phải nghĩ thêm.”
Nhà vua dừng lại một lúc để hắt hơi, ngài đã bị nhiễm lạnh vì ướt mưa. “Trung Tín, trẫm
nói riêng với ngươi: Nhị phi tính mạnh mẽ quyết đoán, làm việc gì cũng bền gan trì chí, trẫm rất
quý. Nhưng để làm mẫu nghi thiên hạ thì bà ấy thiếu một thứ, ngươi có biết đó là cái gì không?”
Trung Tín e dè:
- Thần ngu muội không biết ạ! Đó là cái gì?
- Đó là sự nhân hậu bao dung của một người mẹ.
Trung Tín chững lại một chút rồi cúi thấp đầu, im lặng tán đồng, chứ không dám mở lời
nhận xét bề trên. Nhà vua nhắm mắt, nghĩ thầm: “Bây giờ chưa được danh hiệu hoàng hậu thì bà
ấy còn phải giữ gìn, không dám làm quá. Chỉ e là… khi đã được danh hiệu hoàng hậu rồi, sợ bà
ấy thao túng thì người chịu nhức tai nhức óc sẽ là ai? Là ta, chính là ta đây thôi!”
78
Không biết vì vừa bị ướt lạnh hay vì cảm giác ớn sườn với chuyện mè nheo của lũ đàn bà
trong hậu cung, mà nhà vua chợt ho một tràng dài. Trung Tín hốt hoảng, định sai người đi báo
với Thái y viện. Nhưng vua gạt phắt đi:
- Thái y viện, Thái y viện cái con khỉ, đừng gọi mấy ông lang già lăng xăng chỉ tổ làm ta
mệt thêm.
***
Tam phi Ngọc Bình khi sinh nở vốn đã mất máu nhiều, sau đó mất ngủ kéo dài nên càng
lúc càng xanh xao. Hạnh Nhi ở bên cạnh, tuy tiếng là hầu hạ nhưng thực ra chỉ chờ dịp là chọc
tức, khiến Ngọc Bình đã khổ càng thêm khổ.
Nhũ mẫu trung thành không quản tuổi già sức yếu, cứ cố gắng thức khuya dậy sớm chăm
sóc cho chủ. Khi vua còn lui tới, tuy khổ vì sự đố kỵ của Nhị phi, nhưng còn được các cung khác
nể vì một chút. Nay vua bặt tăm không thấy đến, thì người chung quanh chỉ nhìn cả chủ lẫn tớ
bằng nửa con mắt. Nhũ mẫu trải qua kiếp nô tỳ trong ba cung đình rồi, đã biết rõ tình đời nên
đành cắn răng nhẫn nhịn, hy vọng đêm qua, ngày sẽ tới.
Nằm cữ được hơn mười ngày, Tam phi mới nhận được tin, cái tin làm nàng thất vọng:
Nhị hoàng phi vâng lệnh vua đến Tam cung thăm hoàng tử mới sinh.
Thấy Nhị phi bước vào, khuôn mặt xanh xao của Tam phi lộ rõ vẻ nhớn nhác, sợ hãi.
Nàng ôm chặt hài nhi, kéo chăn che.
Nhị phi không khỏi buồn cười, bà khinh khỉnh nghĩ thầm: “Vậy mà cũng đã từng làm
mẫu nghi thiên hạ sao? Cử chỉ tùy tiện như một con khùng!” Bụng nghĩ vậy nhưng bà vẫn giữ vẻ
tươi cười, đến bên ngồi xuống, vạch tấm khăn che, xem mặt đứa trẻ.
- Mừng em sinh nở bình an. Hoàng tử khôi ngô lắm.
Ngọc Bình yếu ớt thều thào:
- Thiếp xin tạ ơn Nhị phi đã đến thăm.
Nhị phi không giấu được vẻ hãnh diện:
- Hoàng tử ra đời, hoàng thượng đã tin cẩn giao phó cho ta chăm lo. Đấy là phận sự của
ta.
Nghe nhắc đến nhà vua, Ngọc Bình khẽ chớp mắt. Một ánh sáng khẽ bừng lên trên làn da
nhợt nhạt. Hơn một tuần nay nằm một mình trong cung, nàng ngạc nhiên thấy mình mong chờ
nhà vua. Nhà vua, người mà trước nay nàng luôn muốn xa lánh. Có lẽ trong lúc kiệt quệ và cô
đơn này, nàng mới ý thức được rõ ràng: Ngài là chỗ dựa duy nhất của nàng trong cung đình lạnh
lẽo này.
Nàng mong chờ vua đến thăm, nhìn mặt đứa con trai nàng vừa sinh ra. Nhưng càng chờ
càng vắng bặt.
Nhị phi thấy Ngọc Bình nằm yên, chìm đắm suy nghĩ đâu đâu, không hỏi han gì mình thì
cảm thấy rất phật lòng, nhưng cũng gượng cười nói:
- Hoàng tử khá to, hèn chi sinh khó. Ngày xưa khi ta sinh Đảm, cũng vất vả lắm, đau
quặn từ đầu giờ Dần đến tận cuối giờ Thìn mới nghe tiếng khóc.
Tam phi dường như không nghe thấy, nàng thở dài, se sẽ hỏi:
- Chị ơi… Sao lâu nay không thấy hoàng thượng?
Nghe nhắc đến nhà vua, mặt Nhị phi sa sầm. Giọng bà đột ngột trở nên lạnh lùng:
- Cô vừa mới sanh, trong người non yếu, hỏi hoàng thượng mà làm gì?
Ngọc Bình khẽ nhướng mắt, không hiểu ý Nhị phi muốn nói gì. Nàng vẫn mải loay hoay
nghĩ đến nhà vua, mà nàng cứ nghĩ là chỗ dựa của mình: “Không biết có ai báo cho hoàng
thượng biết người vừa có thêm đứa con trai này không?”
Nhị phi cười nhạt:
- Sao lại không? Nhưng hoàng thượng trăm công nghìn việc, mấy việc nhỏ nhặt trong hậu
cung ngài đâu có đoái hoài. Sanh đẻ là chuyện ô uế của đàn bà, sao dám làm phiền hoàng
thượng!
Ngọc Bình cứ chìm đắm với hỗi hờn tủi riêng, không để ý sắc mặt khó chịu của Nhị phi.
“Ngày trước trong cung nhà Lê, các hoàng tử sinh ra đều được Hiển Tôn hoàng đế đến nhìn mặt
trong vòng ba hôm.”
Nhị phi cau mặt:
- Hiển Tông hoàng đế cha của cô nhu nhược, nhàn rỗi, mới tối ngày lo đến chuyện đàn bà
con nít trong cung. Sao dám to gan so với hoàng thượng! Sao cô không nhắc luôn hoàng đế Tây
Sơn Quang Toản cho luôn một thể!
Câu nói chạm mặt nặng nề của Nhị phi làm Ngọc Bình tỉnh hẳn. Nàng cảm thấy như ai
đánh một chùy vào giữa ngực. Tất cả máu trong người nàng như đông đặc lại, tắc nghẽn trong
từng thớ mạch.
Nhị phi đi rồi, vú Sửu nãy giờ núp trong màn mới vội chạy ra, ôm lấy chủ.
Tam phi run rẩy ngồi dậy, bồng con lên lòng, nhìn Hạnh Nhi vừa vào đứng cuối giường:
- Hạnh Nhi, đến nay cũng chưa có ai tâu với hoàng thượng là ta sinh được hoàng nam ư?
Hạnh Nhi trâng tráo:
- Bà không nghe Nhị hoàng phi nói sao? Chưa hết cữ, đang phải kiêng cái chuyện ăn nằm
mà. Làm gì cứ nhấp nhổm trông hoàng thượng đến hoài vậy.
Tam phi vừa thẹn vừa uất:
- Thì ít nhất ngài cũng phải đến nhìn giọt máu của ngài chứ?
Hạnh Nhi vẫn khủng khỉnh:
- Ai mà biết hoàng thượng nghĩ gì, sao bà không đi mà hỏi.
Tam phi lẩy bẩy gượng dậy:
- Được rồi, ta đi hỏi đây…
Nàng lảo đảo đứng lên, bồng con bước đi.
Vú Sửu cố níu lại:
- Trời ơi, lệnh bà, bà còn yếu lắm mà, xin đừng ra ngoài gió!
Tam phi như điên như dại:
- Ha ha, gió à, gió thì có gì đáng sợ. Ta đã từng thấy máu, thấy đầu lâu, thấy phản trắc. Ta
đã từng nuốt nước mắt, nuốt nhục, nuốt đắng cay. Bây giờ ta còn biết thêm thế nào là ruồng bỏ,
thế nào là chà đạp. Ta còn sợ cái gì trên đời này nữa.
Nàng bỗng nhiên mạnh lên khủng khiếp, dứt khỏi tay vú Sửu, xăm xăm bồng con bước
đi.
Vú Sửu vừa khóc vừa chạy theo. Ngọc Ngôn đang chơi trên sân, cũng lúc thúc chạy theo
sau chót.
Tam phi không nhìn thấy gì cả, cứ đi nhanh như tên bắn. Đột ngột, nàng ngã gục xuống,
máu trào ra dưới váy.
- Ôi. Đau quá, đau xé ruột đi thôi! - Tam phi rên rỉ.
Đứa hài nhi khóc thét lên.
Tình cờ cũng trên con đường ấy, vua Gia Long đang đi đến gần.
Tam phi nhìn thấy vua, nhưng không còn nói được nữa.
Nhà vua giật mình kinh ngạc, cúi xuống.
Tam phi đã lịm đi, tay vẫn ôm chặt hài nhi. Vua lay gọi:
- Ái khanh! Ái khanh!
Tam phi không còn nghe thấy nữa. Mắt nàng trừng lên, lạc loài rồi khép lại.
Chương 14
Di mệnh
Chiều lập đông…
Cửa điện Càn Thành khép kín.
Hoàng tử Đảm dừng trước thềm. Thái giám theo hầu chạy đến trước cửa, hô to:
- Tứ hoàng tử xin ra mắt hoàng thượng!
Cửa son vẫn đóng chặt. Lát sau, Trung Tín bước ra.
- Xin hoàng tử chờ hôm khác. Hoàng thượng se mình, hôm nay không tiếp ai cả.
Hoàng tử Đảm bước tới, chỉ mặt Trung Tín.
- Ba hôm rồi ta đến vấn an phụ hoàng, lần nào ngươi cũng không cho vào. Thế là thế
nào?
- Bẩm, hoàng thượng quả thật không khỏe, thần đâu dám dối với hoàng tử.
Hoàng tử Đảm tức giận:
- Nếu phụ hoàng có đau ốm gì thì ta lại càng phải vào thăm. Hay là ngươi âm mưu cách
ly cha con ta, hãy liệu hồn đó.
Trung Tín cúi đầu:
- Hoàng thượng đã lệnh tuyệt đối không cho ai vào, chứ thần có mọc thêm ba đầu sáu tay
cũng không dám làm khó hoàng tử.
Hoàng tử Đảm xuống thềm lên kiệu, mặt cau lại.
Kiệu đi qua một khúc đường cong, chợt một tiếng “sạt” ngay trên nóc kiệu. Mấy tên quân
hầu tuốt gươm, miệng hô to “Thích khách! Thích khách!”
Hoàng tử Đảm cũng băng mình tung người lên, tay cầm kiếm nhảy ra. Một vật gì lòng
thòng trên nóc kiệu, hoàng tử lấy mũi kiếm khều nhẹ.
Thì ra… là một con diều giấy xinh xắn.
Hoàng tử Đảm nhìn lũ quân hầu, mỉa mai.
- Hừ, thì ra thích khách của các ngươi lại là con diều này à!
Đội trưởng hộ vệ quát to:
- Ai dám vô lễ? Lính, lôi cổ nó ra đây!
Lính hầu chạy sục vào sau rặng cây.
Một bóng người đang quay lại, vạch lá bước ra: Đấy là một thiếu nữ xinh xắn, mình mặc
chiếc áo tím thắt dải lưng lụa đen tuyền. Trời đang cuối đông nhưng ngày hôm ấy vừa hửng chút
nắng, đôi má thiếu nữ cũng theo với trời đất, rực lên một sắc chín hồng.
Cô gái ung dung chẳng hề sợ hãi, đĩnh đạc bước lại gần:
- Các người không cần bắt, để mặc ta. Tiện thiếp là Nguyễn Thị Bảo, xin ra mắt hoàng
tử!
Hoàng tử Đảm nghiêm giọng:
- Nàng kia, có biết ta là ai không? Sao thấy kiệu ta đi qua mà không tránh? Mau khai rõ
cho ta biết nàng là người của cung nào điện nào, sao to gan như vậy?
Nguyễn Thị Bảo vẫn thung dung:
- Tiện thiếp là con gái thầy đồ Ngạn ở Kim Long, mới vào cung được một tuần trăng.
Chưa rành phép tắc trong cung nên không biết quý kiệu đi qua thì phải tránh. Tiện thiếp xin chịu
tội ngu muội không biết ngài là ai!
Lính hầu thét:
- Cô kia, đây là Tứ hoàng tử con trai lớn nhất của đương kim hoàng thượng. Việc xảy ra
như thế này, cô phải theo về điện Thanh Hòa của hoàng tử để chịu tội.
Nguyễn Thị Bảo mỉm cười:
- Dạ, thiếp xin mạn phép không thể tuân theo !
Hoàng tử Đảm trợn tròn mắt:
- Nàng nói gì? Dám bất kính với ta sao?
- Thiếp không phải là cung nữ, chỉ là thường dân ở Kim Long. Vì tiện thiếp có tài trồng
hoa trà mi rất đẹp, nên lệnh bà Nhị phi cho gọi thiếp vào đây chăm sóc vườn hoa trước miếu thờ
Hồ cung tần. Nếu bắt thiếp đi đâu, xin các ngài cho thiếp trình với lệnh bà Nhị phi trước đã.
Hoàng tử Đảm thấy cô gái phong cách khác thường đã lấy làm lạ, nay lại nghe nói thế thì
nín thinh một giây, rồi cầm con diều lên ngắm nghía:
- À, vậy ra nàng là người của mẹ ta. Con diều này do nàng làm đấy à?
- Dạ, lúc hết việc nhớ nhà, thấy trời trên hoàng thành xanh quá nên thiếp làm con diều thả
chơi, ước mong mình được tự do tung tăng như cánh diều kia.
Hoàng tử thấy trên thân con diều có ghi chữ, liền nhẩm đọc:
Thượng uyển nhất chi hoa
Dao trì nhất phiến nguyệt.
- Nàng cũng thuộc thơ của Mạc Đĩnh Chi đấy à? Chữ nàng viết đẹp lắm, đúng là con gái
rượu của một ông đồ. Có biết làm thơ phú gì không?
- Bẩm, thiếp cũng được thân phụ dạy cho chút ít chữ nghĩa.
Hoàng tử Đảm cũng muốn xem người con gái lạ lùng này học vấn đến đâu.
- Vậy thử làm vài câu thơ vịnh con diều này cho ta nghe! Nếu làm được ta sẽ thả cho
nàng đi, không bắt tội!
Cô gái cúi đầu:
- Bẩm, thiếp nghe lệnh bà nói hoàng tử Đảm văn võ toàn tài, không ai sánh kịp. Nay thiếp
xin lấy con diều làm đề tài ra một vế đối, mong hoàng tử đối lại cho.
Hoàng tử Đảm không ngờ cô gái lại dám tính chuyện thử tài mình. Đội trưởng hộ vệ đã
định quát mắng, nhưng thấy chủ nhân không tỏ vẻ gì giận dữ, nên đành phải đứng yên.
Thiếu nữ đọc ngay: “Thừa giá phiêu vân, nhất hướng thanh thiên quan đế khuyết.”
Hoàng tử Đảm nghe xong, nhìn cô gái, cái nhìn gườm gườm răn đe, nhưng trên môi lại
nở một nụ cười:
- Vế đối tả con diều thì hay lắm đó. Nhưng mà “Cỡi làn mây nhẹ hướng đến trời xanh,
nhìn xuống cung điện của hoàng đế”, khẩu khí vậy là không ổn rồi!
Hoàng tử chỉ mới nói đến đó thì một thái giám chạy đến, thở hổn hển:
- Bẩm, thái giám Trung Tín vừa ra gọi: Hoàng thượng đã tỉnh dậy truyền cho hoàng tử
vào thăm.
Hoàng tử Đảm lập tức lên kiệu.
- Quân, hãy trả con diều lại cho người ta. - Quay lại, hoàng tử bảo cô gái: - Vế đối của
nàng cứ để đấy, ta sẽ nói sau. Thôi, ta đi!
Quân khiêng kiệu đi rồi, Nguyễn Thị Bảo lại tiếp tục chạy trên bờ thành, dứ dứ sợi dây
tung con diều lên không.
Gió thổi làm bay tung dải lưng lụa thật vui mắt. Mặc dù đang vội, hoàng tử Đảm cũng
quay đầu nhìn lui. Trong mắt hoàng tử đọng lại hình ảnh một nét lưng thon thả trong màu áo tím,
in lên nền trời chiều vàng óng.
Nguyễn Thị Bảo chạy chơi một lúc rồi thu dây lại, cầm con diều thủng thẳng quay về
vườn trà mi. Chợt đang bước đi, Bảo chững lại, nhíu mày nhìn xuống: Trên lớp gạch lát đường,
nàng vừa thấy lờ mờ một vết máu khô chưa chùi sạch.
Nàng không biết tình cờ mình đang bước trên lối đi mà cách đây không lâu, Tam phi
Ngọc Bình đã gục xuống, lìa đời.
Không khí hoàng cung bắt đầu trở nên nặng nề hơn. Liên tiếp mấy biến cố trong triều làm
sức khỏe Gia Long hoàng đế suy dần. Ưu tư chen chật trong tâm trí, nên hoàng tử Đảm cũng
không để ý đến chuyện cô gái Kim Long hôm nào chẳng hề xuất hiện lần nữa trên đường mình
đi.
***
Trong triều, cái tin hoàng đế bệnh nặng đã được công khai loan báo với trăm quan văn võ
trước điện Thái Hòa.
Thời trẻ, ngài xông pha nhiều, chịu nhiều gian khổ, nên lá gan chịu nhiều tà độc, mấy
năm nay Thái y viện đã dâng nhiều thuốc quý nhưng căn bệnh vẫn không hết hẳn. Đến mùa đông
năm nay, có lẽ do tâm trạng không vui, cơn đau lại xảy đến thường xuyên.
Chiều cuối năm, hoàng đế nằm lặng lẽ trên long sàng. Những ngọn nến cháy sáng trong
bóng âm u của điện Càn Thành rộng lớn.
Tiếng vua vọng ra, vẫn mạnh mẽ dù không giấu được âm sắc khàn khàn của tuổi tác.
- Trẫm cho vời Lê Văn Duyệt và Phạm Đăng Hưng, hai ông ấy đến chưa?
Thái giám Trung Tín vội tiến ra cửa, vẫy tay làm hiệu.
Lê Văn Duyệt và Phạm Đăng Hưng tiến vào, quỳ gối.
- Hoàng thượng vạn tuế!
Giọng nhà vua vang lên:
- Đến đây.
Cả hai lại gần. Lê Văn Duyệt lên tiếng trước:
- Hoàng thượng! Đã lâu chúng thần mới có dịp diện kiến long nhan. Kính mong hoàng
thượng kiện toàn long thể.
Đăng Hưng tiếp theo:
- Tâu hoàng thượng, thần mừng thấy người vẫn tráng kiện…
Đăng Hưng cố gắng nói nhưng chưa dứt lời đã nghẹn giọng, che mặt, khóc.
Vua Gia Long thấy vậy, ôn tồn:
- Đăng Hưng, ngươi không biết nói dối đâu. Đừng khóc, ta đã chết đâu? Hà hà, tráng kiện
thì còn tráng kiện gì nữa, nhưng ta chưa chịu chết đâu, xem đây.
Vua chống tay nhỏm dậy, đi tới đi lui trên nền gạch. Ngài cố gắng đi đứng cho hùng
dũng, nhưng thỉnh thoảng không khỏi chệnh choạng, lảo đảo.
Lê Văn Duyệt thấy vậy liền tâu:
- Xin hoàng thượng nghỉ ngơi. Chúng thần thấy rõ rồi, hoàng thượng vẫn còn vững vàng
lắm.
Vua Gia Long ngồi xuống sập, thở mạnh. Trung Tín chạy vội lại đỡ vua nằm xuống.
Vua Gia Long lấy lại hơi thở, tiếp tục:
- Ta chưa chết đâu. Nhưng ta biết mình đang đi trên miệng hố sinh tử. Có những điều ta
vẫn cho là chưa cần nghĩ tới, giờ đã đến lúc phải nghĩ tới rồi. Ta gọi hai khanh vào là vì vậy.
Lê Văn Duyệt khẽ liếc Phạm Đăng Hưng:
- Hoàng thượng cần sai bảo gì xin cứ nói, chúng thần dù phải chết cũng sẽ làm vừa ý
thánh thượng.
Vua Gia Long hình như chỉ chờ câu nói đó, ngài ném lên Lê Văn Duyệt một cái nhìn sắc
như gươm:
- Tốt lắm, Lê Văn Duyệt, ngươi hãy nhớ đừng quên lời hứa đó. Hãy nghe đây: Ta còn
muốn sống thêm mười năm, hai mươi năm nữa để chờ một người thừa kế thật vừa ý, nhưng có lẽ
thời gian của ta sắp hết rồi. Vì vậy, phải chọn một người. Trước khi nói tên người này ra, ta
muốn nói cho hai khanh biết, ta đã thảo chiếu phong hai khanh làm đại thần cố mệnh, hãy nhận
lời dặn dò của ta để phò vua mới lên ngôi.
Lê Văn Duyệt, Phạm Đăng Hưng nhất loạt quỳ xuống, dập đầu:
- Chúng thần tạ ơn hoàng thượng tin cậy!
- Các khanh hãy đứng dậy, nghe ta nói tiếp, - vua Gia Long lấy hết sức nói thật to, rõ
ràng từng tiếng một:
- Ta biết mình sẽ ra đi trong lúc triều đình đang chia thành hai nhóm, kẻ phò Đảm, người
phò Đán. Đảm hay Đán đều là máu thịt của ta, truyền ngôi cho Đảm hay Đán đều có chỗ được và
chưa được. Đán làm cho người ta yêu mà giúp, Đảm làm cho người ta nể sợ mà phục tùng. Đán
mềm mại quá, Đảm thì cứng rắn quá. Đán cởi mở quá, Đảm kiên quyết quá.
Vua dừng lại nghỉ một lúc rồi tiếp:
- Thuở ta còn khó khăn, Tây Sơn thì mạnh, ta thì yếu, đành phải dựa vào Tây dương để
giành lại đất nước. Văn minh Tây dương nhiều điều không hợp với phong hóa nước ta. Nhưng
họ mạnh hơn ta nhiều lắm, nếu ta không khéo sẽ không yên với họ được. Đán bây giờ cũng như
Cảnh trước kia, thường quá thiên về Tây; Đảm thì ngược lại, quá khắt khe bài xích họ; hai cái
đều có chỗ rất dở. Mình dễ quá thì họ tham mà lấn; mình khó quá thì họ lấy sức mà đè, đằng nào
cũng thiệt cho mình. Bao năm nay ta vẫn giữ cách xử sự mềm dẻo, linh động với họ, khiến họ
làm lợi cho ta mà không xâm phạm đến ta được. Sau này các khanh hiểu ý đó của ta mà giúp tân
vương giữ gìn đất nước. Hãy thận trọng, chuyện này không phải dễ đâu.
Lê Văn Duyệt cúi đầu:
- Hoàng thượng thật sáng suốt. Những lời hoàng thượng vừa phán, cũng chính là tâm
huyết của thần. Nhưng, tâu hoàng thượng, thế ai sẽ là tân vương?
Vua Gia Long khẽ nhếch cười, cái cười thoáng qua ấy như muốn giễu cợt Lê Văn Duyệt:
“Ta biết mà, ông sốt ruột lắm đây!” Vẻ mặt ngài trở lại nghiêm nghị:
- Từ từ, từ từ rồi ta sẽ nói:
Nay tình thế bắt phải chọn, thì ta chọn Đảm, vì Đảm lớn hơn, vì vua càng trưởng thành
thì đất nước càng vững mạnh. Đảm thông minh, quyết đoán, cương trực, sau này có thể là vị vua
tốt. Hai khanh là đại thần cố mệnh, hãy cố hết lòng phò vua mới để khỏi phụ lòng ủy thác của ta.
Lê Văn Duyệt và Phạm Đăng Hưng quỳ xuống, vẻ mặt vẫn còn hoang mang.
Vua run run chìa hai tay, nắm chặt lấy tay hai người.
Cử chỉ ấy của hoàng đế, trong giờ phút trọng đại này, làm Lê Văn Duyệt và Phạm Đăng
Hưng đều xúc động. Cả hai đổi nét mặt, rập đầu:
- Chúng thần xin tuân theo thánh ý!
Nhà vua nằm xuống, thở hổn hển, mồ hôi vã ra ướt trán.
Khi đã bước ra khỏi điện, Đăng Hưng vẫn chưa hết bàng hoàng. “Đức ông là bậc đại
công thần, uy danh tột bực, hoàng đế giao làm đại thần cố mệnh đã đành xứng đáng. Còn Hưng
là văn thần, tài sức ít ỏi, trong tay chẳng có thế lực gì. Vậy mà sao hoàng thượng lại cho cái vinh
dự cùng ngồi một chiếu với Đức ông?”
Lê Văn Duyệt vỗ vai Đăng Hưng:
- Đăng Hưng, ai bảo ông không có thế lực? Ông không nắm kho tàng, tiền bạc, quân lính,
nhưng sự cương trực ngay thẳng của ông chính là thế lực của ông. Ông thấy chưa, đến phút cuối
hoàng thượng vẫn tính toán kỹ lắm! Ngài biết ta không ủng hộ Đảm, mà ta lại nắm binh lực lớn,
lỡ ta trở lòng thì Đảm sẽ không ngồi được yên. Vì vậy ngài đặt chính ngay ta làm cố mệnh đại
thần phò Đảm lên ngôi, đem sự tin cậy làm sợi dây để buộc ta, thế là ta hết đường cựa quậy. Đã
vậy, ngài còn lo sợi dây ấy chưa đủ chặt, nên đặt thêm ông ngồi bên ta nữa. Với cái tính trung
trực của ông, nếu ta có lòng khác, chắc chắn ông sẽ vung gươm lên ngay dù chúng ta có là tâm
giao đi nữa… Ông đã thấy cái khéo của ngài chưa?
Đăng Hưng tỉnh ngộ:
- Hoàng thượng tính việc như thần, Hưng cảm thấy rất bái phục! Không biết vua mới sau
này có theo kịp ngài được không!
Lê Văn Duyệt hạ giọng:
- Đường còn dài, chưa thể nói trước được ông ạ! Đảm rất thông minh, cương quyết, có
mọi tính tốt của cha, chỉ khác một điều là Đảm không biết cười. Một khi ông chủ không biết
cười, thì không khí trong nhà sẽ căng thẳng lắm đó.
Đăng Hưng gật gù, thầm phục sự sắc sảo của Lê Văn Duyệt.
Ông thầm nghĩ, tiếc thật, nụ cười là cái ân sủng lớn nhất mà ông Trời ban cho loài người,
để tồn tại qua bao nhiêu biến cố tàn khốc của lịch sử.
Tết năm ấy, nhà vua không khỏe nên thoạt đầu Nhị phi ra lệnh không treo đèn kết hoa và
bỏ hết các trò vui. Sau các quan bên Khâm Thiên giám dâng lời, cho là nên tổ chức nghênh xuân
linh đình để lấy cái dương khí của tri đất mà đẩy lùi vận hạn, hòng mong sức khỏe của nhà vua
nhờ đó mà vượng lên. Quả nhiên, bệnh vua có thuyên giảm, mồng ba Tết đã vịn vai Trung Tín
bước ra trước thềm xem các hoàng tử, hoàng tôn chơi đầu hồ trước sân Nhật Nguyệt.
Nhưng sau Tết nhà vua lại ho nhiều, trán nóng chân lạnh. Đến cuối tháng Giêng thì ngài
băng hà, năm ấy được năm mươi tám tuổi. Trước khi nhắm mắt, Gia Long hoàng đế cầm tay
hoàng tử Đảm, chỉ trối trăn một lời:
- Con hãy nhớ, ngày sau đừng gây hấn ngoài biên.
Chương 15
Tiếng khóc của vương phi
Hoàng tử Đảm lên ngôi, lấy niên hiệu là Minh Mạng. Theo lệ từ các triều đại trước, lễ
đăng quang được lập tức cử hành rồi mới phát tang tiên đế.
86
Điện Càn Thành, trước đây là nơi ở, bây giờ là nơi đặt linh cữu vua Gia Long. Nhị phi -
nay đã là thái hậu - đang quỳ trước linh sàng. Bà lâm râm khấn khứa rồi dập đầu xuống lạy. Đôi
mắt bà nhắm lại, những ý nghĩ bất giác chạy qua trong tâm trí:
- Hoàng thượng! Hoàng thượng đã đi rồi! Mãi đến phút cuối, thiếp vẫn chưa thỏa cái
nguyện ước được làm hoàng hậu của ngài. Bây giờ thì thiếp không bao giờ phải cầu xin ngài
nữa.
Trước bài vị vua Gia Long, những ngọn nến bập bùng sáng lên, câm lặng.
Từ bên ngoài, Thái trưởng công chúa Ngọc Tú, chị ruột của Gia Long tiên đế mặc tang
phục tiến vào, đôi mắt to đen rướm lệ. Chưa đến sáu mươi nhưng tóc công chúa đã bạc hết, vóc
người mảnh dẻ, đúng là mình hạc xương mai. Công chúa có năm em trai, sau cuộc chiến chỉ còn
sót lại một mình Gia Long tiên đế. Giờ đây ngài cũng đã ra đi.
Khi công chúa đến nơi thì thái hậu đã lạy xong, lên ngồi trên ghế đặt ở gian bên hữu bàn
thờ. Định chia sẻ nỗi đau buồn với em dâu, nhưng vẻ uy nghi của Trần Thị Đang làm công chúa
chợt nhận ra hoàn cảnh nay đã đổi khác. Bà ngập ngừng một chút rồi quỳ gối:
- Thái hậu!
- Hãy đứng dậy đi. - Thái hậu Trần Thị Đang nói, đầy vẻ oai nghiêm.
Ngọc Tú đứng dậy:
- Xin thái hậu bớt buồn đau để linh hồn tiên đế được nhẹ nhàng ra đi. Thiếp có nguyện
này, xin thái hậu tâu lại với tân vương: Trước đây khi mẹ mất, tiên đế đã lập đàn chay ở chùa
Thiên Mụ để cầu siêu cho mẹ. Nay tiên đế qua đời, thiếp cũng muốn lập một đàn chay như vậy
để cầu siêu thoát cho ngài.
Thái hậu gật đầu:
- Thái trưởng công chúa có lòng thảo như vậy, thật đáng khen. Ta sẽ tâu lại với hoàng đế
con ta, rồi báo cho công chúa biết thánh ý sau.
Dứt lời, bà quay lui, hỏi tả hữu.
- Anh Duệ vương phi đâu, đã đến thọ tang chưa?
- Bẩm, chưa thấy đâu cả ạ! - Các nữ tỳ đồng thanh trả lời. Các mệnh phụ, phi tần đang
đứng hầu gần đó đưa mắt nhìn nhau, lo lắng. Anh Duệ vương phi tức là Tống Thị Quyên, vợ
hoàng tử Cảnh, mẹ của hoàng tôn Đán.
Lúc ấy trong Anh Duệ vương phủ, Tống Thị Quyên đang khóc lóc vật vã, lăn mình, đập
tay trên sập.
- Hoàng Đảm lên làm vua rồi! Vậy là triều đình đã phản bội chồng ta, phản bội con ta.
Linh mục cũng chẳng làm gì để giúp ta. Ta hận lắm, hận lắm!
Hoàng tôn Đán đứng bên, vẻ mặt buồn rượi:
- Mẹ ơi, mẹ đừng buồn nữa. Hồi trước bà nội đã nói rồi, làm vua là làm cái nghề cực
nhọc nhất mà. Con không được làm vua có khi lại hay.Tống Thị Quyên vùng dậy:
- Từ xưa đến nay người ta bóp cổ nhau đâm chém nhau, vu oan giá họa cho nhau để
giành ngôi báu, chứ đâu có ai nói lạ như bà nội. Cũng vì bà nội không thương con thương cháu
nên cái gì cũng để người ta giành hết cả…
Hoàng tôn Kính nhìn quanh, kéo tay mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ đừng nói to, người ta nghe được phiền lắm! Thôi mau mau vào cung thọ
tang, chậm trễ là mang tội đó.
Hai hoàng tôn xúm lại lôi mẹ dậy, kéo đi. Tống Thị Quyên vừa đi theo con vừa rền rĩ
không ngớt:
- Trời ơi, sao tôi bạc phước bạc phần, cả đời bị người ta lấn lướt thế này hả Trời? Nếu
Trời cho chồng tôi còn sống thì giờ này tôi đã là hoàng hậu rồi, chứ đâu có ra nông nỗi này?
Hai hoàng tôn cố sức dỗ dành mẹ, nhưng Tống Thị Quyên vẫn không cầm được tiếng
khóc. Nhất là lúc vào tới điện Càn Thành, thấy thái hậu ngồi uy nghi trên ghế cao, chung quanh
tả hữu cờ quạt xúm xít hầu hạ, Quyên càng đau. Vừa hành lễ trước bàn thờ, Quyên vừa nấc lên,
uất nghẹn:
- Phụ hoàng ơi, sao phụ hoàng không thương, phụ hoàng nỡ bỏ con, bỏ cháu…
Thái hậu rất bén nhạy, nghe qua hiểu ý ngay, cau mày nói với tả hữu.
- Vương phi khóc như vậy là nghĩa làm sao? Là thương tiếc tiên đế, hay là oán trách
ngài?
Ngô Thị Chính và các phu nhân đưa mắt nhìn nhau, lo lắng, không ai dám lên tiếng. May
có Thái trưởng công chúa Ngọc Tú nói đỡ:
- Vương phi quá thương xót nên gào khóc, cũng là câu than khóc thường tình đó thôi.
Xin thái hậu thương mà bỏ qua không chấp trách.
Thái hậu nể mặt công chúa, không nói nữa. Thái trưởng công chúa Ngọc Tú là vợ phò mã
Điến. Thuở tiên đế Gia Long còn bị Tây Sơn truy đuổi, có lần trong khi nguy cấp phò mã Điến
đã đổi áo cho vua, đứng ở đầu thuyền lừa cho quân Tây Sơn đuổi theo để vua chạy thoát. Bị địch
bắt, Điến chửi rủa không chịu hàng nên bị băm ra từng mảnh. Sau này khi triều Nguyễn đại định,
công chúa Ngọc Tú được vua vô cùng trọng vọng, muốn xin gì vua cũng cho nhưng công chúa
tính rất hiền lành, chỉ chăm chăm một việc ăn chay niệm Phật.
Đây là lần đầu tiên công chúa khẩn cầu với triều đình, mà chẳng phải xin gì cho mình,
chỉ là xin làm đàn chay cầu nguyện cho người em hoàng đế đã mất. Việc tưởng là bình thường,
mà lại không đơn giản chút nào. Hôm sau, tại gian bên tả điện Thái Hòa, chỗ tân hoàng đế Minh
Mạng đang cùng các đại thần thọ tang, đã diễn ra cuộc bàn luận. Đấy cũng là lần đầu tiên hoàng
đế Minh Mạng lấy ý kiến của quần thần trước khi quyết định.
- Về việc lập đàn chay cầu siêu thì đấy cũng là phong tục lâu đời ở Phú Xuân, từ thời
chúa Nguyễn Phúc Chu đến nay. Khi Hiếu Khang hoàng thái hậu mất, chính tiên đế cũng đã lập
đàn. Vậy nay cứ xin theo lệ cũ. - Tổng trấn Bắc thành là Lê Chất tâu vua.
Nhưng nhiều đại thần khác lại không nghĩ vậy. Theo họ thì, bây giờ không phải là lúc cổ
súy cho những phong tục của đạo Phật, đạo Lão. Triều đình đã đi vào kỷ cương, là lúc phải độc
tôn Nho giáo, truyền bá đạo tôn quân. Hoàng đế Minh Mạng cuối cùng bàn với Lê Văn Duyệt và
Phạm Đăng Hưng, đi đến quyết định dung hòa: Triều đình không chính thức cử hành, nhưng sẽ
cấp ba trăm lạng bạc cho Thái trưởng công chúa Ngọc Tú tự lập đàn cầu siêu cho tiên đế.
Như vậy công chúa Ngọc Tú sẽ là người chủ tế, chứ không phải nhà vua.
Không để triều đình đứng ra lập đàn, hoàng đế Minh Mạng đã có sự suy nghĩ sâu xa. Cái
ý sâu xa đó, không thể không lọt vào đôi mắt tinh anh của Lê Văn Duyệt.
Trên đường ra cổng Hiển Nhơn, Lê Văn Duyệt nói với Phạm Đăng Hưng:
- Ông nói cho ta nghe thử, vì sao hoàng thượng lại không chuẩn y lời tâu của Lê Chất?
Đăng Hưng cười:
- Đức ông cũng biết rồi còn gì? Trải mấy trăm năm các chúa Nguyễn cai trị, đạo Phật
được truyền bá, đã thấm nhuần sâu trong lòng bá tánh ở Đàng Trong. Cái đó rất có lợi cho phong
tục, bởi đạo Phật dạy từ bi, hỉ xả, làm giảm bớt cái đau đớn của chiến tranh tàn khốc… Nhưng
bây giờ ý hoàng thượng rõ là chủ trương độc tôn Nho giáo, bởi đạo Phật không dạy tôn quân,
không dạy việc phò vua, không dạy đạo trị nước.
Lê Văn Duyệt gật đầu:
- Ngày xưa quốc chúa Nguyễn Phúc Chu lấy đạo Phật làm quốc giáo, xây chùa, đúc
tượng, mời thiền sư Thích Đại Sán từ bên Tàu sang... cũng là bởi muốn đoạn tuyệt với Vua Lê
chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, tự mình lập một nước riêng ở phương Nam. Chúa Trịnh lấy lá bài tôn
quân, giả danh phò vua Lê để đánh Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn muốn vô hiệu hóa lá bài tôn
quân đó thì phải có một chỗ dựa tinh thần khác, vì thế mới đem Phật giáo ra làm thuyết giáo hóa
con dân. Nay đất nước đã gom về một mối, hoàng thượng đã là vua, lại muốn tôn quân, muốn cái
đạo “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” – Nói đến đó Lê Văn Duyệt bất giác nhếch miệng
cười.
Phạm Đăng Hưng hiểu nụ cười nhiều ẩn ý của Lê Văn Duyệt. Các công thần theo phò
tiên đế từ lúc còn thất cơ lỡ vận, ngoài tuy là vua tôi mà thực chất đối với nhau như tình cha con,
anh em ruột thịt. Nay thì đã khác, giữa vị vua ngồi trên ngôi cao với đám bầy tôi đã là cửu trùng
ngăn cách.
Chương 16
Đàn tràng ở chùa Thiên Mụ
Với cô bé Phạm Thị Hằng, một thiếu nữ đang tập tành làm quen với cuộc sống ở kinh
thành, cái tin Thái trưởng công chúa Ngọc Tú lập đàn chay suốt một tuần trăng tại chùa Thiên
Mụ là một cái tin rất vui. Bởi công chúa đã kêu gọi các nhà quan ở kinh đô cho các tiểu thư đến
để phụ giúp. Quanh năm suốt tháng chỉ quanh quẩn chốn phòng khuê, nay được dịp xuất đầu lộ
diện với thiên hạ, được khoe tài khoe khéo ở phủ bà chúa, cô nào mà không thích mê. Nhưng
Phạm phu nhân nghe con xin đi thì lo âu lắm.
- Con từ nhỏ chưa xa má ngày nào, nay tới chỗ quyền quý cao sang, liệu có đủ khôn đủ
tài không đây. Lỡ ra sơ suất mà mang tội thì chết!
Phạm Đăng Hưng trấn an vợ:
- Công chúa Ngọc Tú là người rất hiền, bà cứ để con đi, đừng sợ!
Hạnh Thảo thấy phu nhân vẫn còn thấp thỏm, liền thưa:
- Em xin đi theo chăm sóc tiểu thư, xin phu nhân yên lòng.
Phu nhân nghe nói Hạnh Thảo cũng đi thì gật đầu ngay. Vậy là hai chị em sắm sửa khăn
gói lên chùa Thiên Mụ.
Hạnh Thảo âm thầm gói tư trang quần áo, lòng thầm cảm ơn Hằng. Mấy tuần trăng rồi,
cô cảm thấy thái độ của phu nhân đối với mình càng lúc càng miễn cưỡng. Chỉ có một cách tháo
gỡ hoàn cảnh bế tắc này là phải ra đi, nhưng chẳng biết phải đi đâu? Và đi như thế nào để khỏi
phụ ơn cứu giúp của Phạm thượng thư, khỏi làm Hằng đau lòng, khỏi làm phu nhân áy náy?
Bước chân ra đi, lòng Hạnh Thảo không khỏi bồi hồi.
Hằng thì vui như Tết, nhí nhảnh vòng tay chào từ biệt mẹ. Phu nhân âu yếm vuốt lại mấy
sợi tóc mai bên má con:
- Ừ, con đi, cẩn thận nha con. Xong đàn chay thì phải về liền đó.
Hạnh Thảo nối bước tiến đến:
- Em xin chào phu nhân, xin phu nhân ở nhà giữ gìn sức khỏe.
Phạm phu nhân im lặng, không nói gì.
Hạnh Thảo cảm thấy tủi lòng. Đúng, chuyến đi này là một lối thoát… Cô nhủ thầm, sau
đàn chay sẽ xin nhà chùa cho ở lại nương náu, nếu được chấp nhận sẽ xuống tóc làm ni.
Hai chị em vừa rời phủ ra đi được mấy hôm thì Trương Đăng Quế từ quê ra, đến phủ ra
mắt Phạm thượng thư và phu nhân. Vai mang tay nải, lưng đeo kiếm, Quế cỡi ngựa tới trước
cổng. Quăng vội dây cương vào tay lính hầu, Quế bước nhanh vào trong. Phạm Đăng Hưng đang
ở công đường, chỉ có phu nhân ra tiếp.
- Trời ơi, Đăng Quế! Gặp lại cháu bác mừng quá! Cháu ra kinh đô nhậm chức phải hông?
Đăng Quế vừa đáp lời vừa hướng ánh mắt vào nhà trong:
- Dạ, cháu vừa vinh quy thì nghe tin hoàng đế băng hà, cứ nghĩ chắc việc công danh phải
hoãn lại vài năm chờ mãn quốc tang. Nhưng bỗng lại có lệnh của vua mới vời ra gấp, chưa biết
có việc gì nhưng cháu cũng phải phụng mệnh ra ngay.
Phạm phu nhân suýt soa:
- Chu choa, vậy là cháu sắp được vào yết kiến hoàng đế, trời ơi oai quá.
Đăng Quế ngập ngừng:
- Thưa bác… Quan lớn và em Hằng có khỏe không bác?
- Cả nhà khỏe hết! Tiếc quá, em Hằng nó lại mới vừa đi, nó đi lên đàn tràng giúp công
chúa nấu chay rồi! Phải chi biết cháu ra hôm nay bác đã giữ nó lại để anh em thăm nhau, mấy
khi có dịp.
Đăng Quế nghe nói, vẻ mặt thốt nhiên buồn hiu. Phạm phu nhân dù tính chất phác, nhưng
cũng hiểu được nỗi thất vọng của chàng trai. Trong lòng bà không khỏi tiếc thầm: Phải chi hồi
đó mình chịu nghe theo lời chồng, thì nay hắn đã là chảng rể, tốt biết bao nhiêu.
Không gặp được Hằng, Đăng Quế buồn rầu trở về Công quán. Trăn trở hồi lâu, rồi nỗi
bồn chồn cũng tạm lắng xuống, bởi vận hội công danh đang mở ra đầy hứa hẹn với chàng trai
tuổi đôi mươi. Sau vài hôm nghỉ ngơi, Đăng Quế được vời đến Tôn Nhân phủ, nhận chức vụ đầu
tiên: Làm sư phó dạy các hoàng tử ở ngay trong cung điện!
Đấy là một ân sủng đặc biệt, bởi xưa nay việc làm thầy các hoàng tử thường chỉ được
giao cho các bậc túc nho lão thành, đầu râu tóc bạc. Tả tôn khanh Tôn Thất Hồng bảo riêng với
Quế: “Cũng may cho chú, trước đây do bị Giáp Văn Thân chấm gian, nên bài thi của chú được
hoàng thượng đích thân xem xét. Ngài biết tài học của chú nên đích thân giao việc, chứ chúng tôi
thì không dám tiến cử người trẻ như chú đâu.”
Đăng Quế cầm sắc chỉ trong tay, trong lòng thầm cảm động vì ơn tri ngộ của tân hoàng
đế.
Buổi học đầu tiên của các hoàng tử, vua Minh Mạng đích thân ngự đến.
Vua ngồi trên ghế gấm, trước mặt là mười bảy hoàng tử đứng xếp thành hàng.
Vua nhìn khắp lượt các hoàng tử, có vẻ như không nhìn riêng ai, nhưng thật ra mắt ngài
lưu ý nhất đến Tông và Hoằng. Cả hai đều đứng hàng đầu. Tông năm ấy mười lăm tuổi, hơi gầy,
trắng trẻo, gương mặt thanh tú lúc nào cũng điềm tĩnh và hơi phảng phất buồn. Hoằng kém hai
tuổi nhưng to khỏe hơn anh, đôi mắt long lanh, đầy vẻ hiếu động tinh nghịch.
Vua Minh Mạng dừng ánh mắt nghiêm nghị ở Hoằng một giây, khiến Hoằng vội đứng im
tăm tắp.
- Các ngươi! Các ngươi sinh ra là con cháu nhà Nguyễn, dòng dõi cao quý nhất. Bây giờ
các ngươi đã trở thành hoàng tử. Sau này, một trong các ngươi sẽ làm vua. Các ngươi có biết bổn
phận của các ngươi giờ đây là gì không?
Các hoàng tử lóng nhóng, quay qua quay về không biết ý vua cha định nói gì. Một lát,
hoàng tử Tông lên tiếng.
- Muôn tâu phụ hoàng, đó là… là học ạ!
Vua Minh Mạng gật đầu hài lòng:
- Đúng rồi! Giỏi lắm! Bây giờ các ngươi phải học. Học sâu mới hiểu đạo Trời, hiểu đạo
Trời mới có thể trị dân. Hôm nay ta cho mở lớp riêng trong hoàng cung, các ngươi phải ra sức
dồi mài cho thành người giỏi. Thái giám! Cho gọi Đăng Quế vào đây.
Trương Đăng Quế vào, quỳ gối làm lễ ra mắt vua.
Vua Minh Mạng quay về các hoàng tử.
- Các ngươi, đây là Trương Đăng Quế, thủ khoa kỳ thi Hương Tiến vừa rồi. Đăng Quế
tuổi còn trẻ nhưng văn hay, võ giỏi, nên ta phong cho Quế làm sư phó, tùy theo căn cơ từng
hoàng tử thấp cao khác nhau mà giáo huấn. Các ngươi dù là con vua, nhưng cũng phải nhớ chữ
tôn sư trọng đạo, hãy lạy ra mắt thầy đi.
Các hoàng tử răm rắp tuân theo, chắp tay vái Đăng Quế.
Đăng Quế vội đứng tránh qua một bên, vái lại.
- Quế là bề tôi, không dám nhận lễ.
Vua Minh Mạng truyền:
- Không được! Đăng Quế hãy đứng vào cho chúng nó làm lễ. Đăng Quế, khanh đến đây
không cần nhớ chúng nó là hoàng tử, chỉ biết đó là học trò của khanh mà thôi. Ta ban cho khanh
cây roi này, hoàng tử nào kém cỏi không chăm, khanh được phép toàn quyền xử phạt. Bay đâu?
Cho gọi Tiệp dư Ngô thị!
Ngô Thị Chính từ trong màn bước ra.
- Tâu, thần thiếp đang chờ lệnh thánh thượng.
- Trẫm bận rộn việc nước, việc nhà giao cho ái khanh giúp trẫm. Lớp học này, trẫm giao
cho ái khanh đích thân coi sóc. Hoàng tử nào lơ là, biếng nhác, thiếu lễ phép với sư phó, nhất
thiết khanh phải tâu lại với ta. Nghe rõ chưa?
Ngô Thị Chính lạy vâng mệnh. Trong lòng nàng cảm thấy hân hoan, nhà vua đã tin cẩn
giao cho nàng việc dạy dỗ con cái, điều đó chứng tỏ trong lòng hoàng đế nàng luôn là một người
vợ hiền đảm, hơn hẳn các cung tần khác.
Trương Đăng Quế nhận mệnh vua rồi, trở về công quán. Không bỏ phí một phút, chàng
soạn hết sách vở mang theo, chuẩn bị cho buổi dạy đầu tiên trong cung. Tuy náo nức với đường
công danh, nhưng Quế không quên hỏi thăm đường lên Thiên Mụ và chỗ công chúa đang lập đàn
tràng. Chàng mới hai mươi tuổi, tình yêu cũng quan trọng chẳng kém gì sự nghiệp.
Người lính hầu nghe hỏi, liến láu:
- Quan lớn ra Kinh trễ quá, cũng may đêm nay là đêm cuối, nghe đâu người ta phóng
sinh, phóng đăng, thả đèn ngoài sông Hương. Để con hầu quan ra xem thả đèn, vui lắm đó.
Quế nghe nói, xua tay:
- Hầu hạ cái gì, tôi từ nhỏ cái gì cũng tự lo quen rồi. Chú cứ để tôi đi một mình.
Người lính cười:
- Dạ, con xin nghe. - Anh ta vừa nói vừa thầm nghĩ: - Các quan mới bổ nhiệm đến đây ai
cũng rứa đó, mới thi đậu ra làm quan thì bình dân lắm, nhưng vài ba tháng sau thì một cái tăm
cũng phải có người dâng tận miệng.
Ngày nhà vua mở lớp học cho các hoàng tử cũng là ngày Từ Khánh thái hậu dời từ cung
Nhị phi về cung Từ Thọ, vốn được tiên đế Gia Long cho xây để làm nơi ở cho Hiếu Khang
hoàng thái hậu trước đây. Từ khi Hiếu Khang thái hậu mất, cung vẫn bỏ vắng. Bước vào cung,
Từ Khánh thái hậu hài lòng thấy vật dụng được thay mới, toàn đồ gỗ quý chạm trổ tinh xảo.
Đang để tang tiên đế nên các lồng đèn cũng được giảm bớt màu sắc, không dùng màu vàng, màu
đỏ, tuy nhiên cách bài trí vẫn lộ rõ vẻ tôn quý, sang trọng. Thái hậu đưa mắt nhìn Tổng quản thái
giám Trần đang theo hầu, tỏ ý ban khen.
Tổng quản Trần khúm núm:
- Tâu lệnh bà, bao năm gian nan vất vả mới có ngày nay, kẻ tôi tớ này thật mừng cho lệnh
bà vô cùng.
Thái hậu bước vào nhà thủy tạ, ngồi xuống ghế tràng kỷ:
- Ta đã luôn luôn tin sẽ có ngày hôm nay. Nhưng ta cũng không ngờ nó đến sớm hơn ta
tưởng. Mau gọi Tông đến đây.
Hoàng tử Tông bước vào. Như thường lệ, lúc đến bên bà nội cậu trở nên rụt rè. Hôm nay
Tông được các thị nữ thu dọn hết y phục, sách vở đưa vào cung Từ Thọ theo bà nội. Vì đang
xem cho Giám Lê thu dọn nên Tông không để ý chiếc khăn đội đầu bị lệch sang một bên. Thái
hậu quở ngay:
- Thị nữ, mau sửa lại khăn cho hoàng tử. Tông, ngươi là hoàng tử, mà không phải một
hoàng tử bình thường. Ngươi hãy coi, trong mười bảy hoàng tử có ai được ở trong cung của ta
như ngươi không? Phải biết địa vị tôn quý của mình, phải luôn giữ gìn phong độ cho uy nghi,
xứng đáng.
Tông đứng im, không nói gì, chỉ vòng tay kiên nhẫn lắng nghe.
Thái hậu hỏi:
- Ta nghe nói hoàng thượng khiến ngươi sang điện Văn Minh học chung với các em phải
không? Hoàng thượng khiến Ngô Thị Chính coi sóc lớp học phải không?
- Dạ đúng như vậy ạ.
Mặt thái hậu lộ rõ vẻ không bằng lòng:
- Ra là vậy đó! Thôi, cho ngươi lui.
Tông chỉ chờ có thế, vội vàng co chân định chạy đi. Thái hậu gọi giật:
- Tông, đứng lại.
Hoàng tử đứng lại, miễn cưỡng. Thái hậu quở:
- Nhà ngươi đã khi nào thấy tiên đế hay phụ hoàng ngươi đi lại hấp tấp như vậy chưa?
Hãy nhớ, một ngày kia ngươi có thể là vua. Muốn được có cơ hội trở thành ông vua, trước hết
phải tỏ cho mọi người đều thấy, mình xứng làm vua như thế nào. Ngay từ hôm nay! Ngươi hiểu
chưa?
Hoàng tử Tông đứng lại, áy náy, ngượng ngập:
- Dạ, phụ hoàng cũng nói hơi giống vậy đó…
Thái hậu vừa nghe câu ấy, mắt sáng lên như điện.
- Sao? Hoàng thượng bảo rằng ngươi sẽ làm vua sao?
Tông lắc đầu, hồn nhiên:
- Dạ không hẳn vậy, phụ hoàng nói với mấy anh em con rằng, một trong các ngươi sẽ làm
vua.
Thái hậu ngả người dựa vào ghế, thở hắt ra.
- Tưởng gì chứ điều đó thì ai chẳng biết. Tông, cháu hãy nghe bà đây, - Thái hậu chỉ
thẳng ngón tay vào Tông - Chính cháu sẽ làm vua, bà sẽ rèn luyện cháu thành người kế nghiệp.
Giống như trước đây bà đã làm mọi cách đưa hoàng thượng bây giờ lên ngôi vậy.
Tông cắn môi:
- Cháu không dám, cháu xin lui.
Tông cố tạo dáng đĩnh đạc bước đi. Được vài bước Tông bỗng quay lại, chắp tay cung
kính:
- Bẩm thái hậu, nghe nói chiều nay ở đàn tràng có thả hoa đăng, cháu xin phép lên xem
được không ạ?
Thái hậu hơi bực mình:
- Ừ thì lên xem, ta cho phép.
Tông vui mừng hớn hở quay đi. Uy nghi đĩnh đạc một lúc, qua khỏi tầm mắt thái hậu,
Tông liền co cẳng chạy một mạch vào phòng mình.
Tông đi rồi, thái hậu bảo Giám Trần:
- Giám Trần, thật buồn cười. Hoàng thượng lo việc dạy dỗ cho các cháu ta mà chẳng bàn
qua với ta một tiếng. Lại giao cho Ngô Thị Chính coi sóc nữa. Nó coi sóc cho con trai nó thì
được, chứ coi cả mười bảy hoàng tử làm sao mà công bình? Mẹ ghẻ con chồng có bao giờ
thương nhau khen nhau?
Giám Trần ý tứ nhắc:
- Dạ, lại còn phong cho Ngô Thị Chính làm Tiệp dư nữa… Vậy là bây giờ trong các
cung, bà Tiệp dư ấy là cao nhất. Cao hơn Cung tần họ Hồ trước đây sinh ra hoàng tử Tông đó.
- Vậy à, may chút nữa ta quên. Bây giờ lên Tiệp dư, rồi chẳng bao lâu sẽ ngắm nghía tới
ngôi hoàng hậu đây!
- Dạ, con cũng lo như vậy lắm. Nếu Ngô Thị Chính làm hoàng hậu ắt sẽ cai quản nội
cung, thì con không còn cái phước được nghe lệnh của bà nữa, con nghĩ đến chuyện đó mà ngại
quá!
Thái hậu cười:
- Ô, ngươi chẳng có gì phải sợ. Ta đâu có để cho bọn phi tần ăn bám đó lộng hành được!
Họ cứ tưởng ta được ngồi vào ngôi thái hậu xong là sẽ vui sướng ung dung hưởng nhàn sao?
***
Hôm nay là đêm cuối đàn chay, trước sân chùa Thiên Mụ tiếng tụng kinh vang rền. Hơn
một trăm vị sư từ khắp trong nước được thỉnh về đây để tụng những hồi kinh cuối cùng, cầu cho
Gia Long tiên đế được siêu thoát.
Trong chùa, công chúa Ngọc Tú cùng các vương phi, các mệnh phụ chắp tay cung kính
quỳ trước bàn Phật. Ngoài cổng, thiện nam tín nữ tụ họp đông đảo, chờ đến giờ làm lễ phóng
đăng.
Dứt lễ cầu siêu, lính hầu, thị nữ, thêm vào đó là một số tiểu thư, công tử trong kinh thành
đang đến phụ làm đàn tràng, tất cả khoảng trăm người nối gót nhau đưa đèn nến xuống thuyền.
Vài chục thuyền được chèo ra giữa sông. Một lát sau thì suốt một dải Hương Giang lấp lánh
những chấm hoa đăng, cứ như một trời sao lênh đênh trên mặt nước.
Trên bờ, Đăng Quế đi lẫn trong đám thiện nam tín nữ, dáo dác nhìn quanh, tìm kiếm.
Đông quá, chàng nhìn quanh, tìm mãi, tìm mãi không thấy...
Lúc ấy Hằng đang ở ngoài xa, trên một con thuyền bồng bềnh trước Phu Văn Lâu. Từ
trên mui thuyền cúi mình xuống, Hằng thả từng chiếc đèn hoa, khuôn mặt thiếu nữ ửng hồng
trong ánh sáng lung linh.
Một thuyền khác chèo phía sau, trên thuyền là hoàng tử Tông và Giám Lê, cả hai đều
mặc đồ thường dân.
Hoàng tử Tông bảo Giám Lê:
- Mau lên, chèo mau thêm một chút.
Giám Lê cười hinh hích:
- Dạ, cho kịp thuyền cái cô xinh xinh kia phải không?
Tông cười, chụp lấy mái chèo, tự tay chèo thuyền lên ngang thuyền của Hằng.
Thấy có thuyền áp sát thuyền mình, Hằng ngửng lên. Cô đưa cho Tông và Giám Lê mỗi
người một chiếc đèn giấy.
Tông làm quen:
- Cô ơi cô, người ta thả đèn thế này để làm gì vậy cô?
Hằng vẫn chăm chú thả từng chiếc đèn xuống mặt nước:
- Không biết, thích thì thả chơi thôi. Nhưng có nghe sư ông nói, những linh hồn ngụp lặn
trong dòng sông vô minh, nên mỗi chiếc đèn thả xuống là để soi cho một linh hồn hướng về cõi
sáng đó.
Tông bỗng nhiên chạnh lòng:
- Vậy hả, vậy tôi thả chiếc đèn này cho mẹ tôi mới được.
Hằng ái ngại:
- Mẹ anh mất rồi à?
Tông gật đầu, lặng lẽ. Giám Lê hỏi:
- Cô tên gì, nhà ở đâu, cho tụi tôi làm quen được không?
Hằng nhớ lời Hạnh Thảo dặn, khi ra ngoài đừng để lộ thân phận của mình.
- Tôi là thị nữ nhà Phạm thượng thư, quan lớn tôi sai lên đây giúp đàn chay cho công
chúa. Còn các anh là ai, nhà ở đâu?
Hoàng tử Tông huých tay Giám Lê. Giám Lê nói dối ngon lành:
- Hai đứa tôi là con nhà buôn bán ở ngoài cửa Đông Hoa.
Hằng hồn nhiên:
- Nhà các anh buôn gì?
Hoàng tử Tông tủm tỉm cười:
- Cha tôi mới được thừa kế một cửa hàng bán ghế, nhờ trời đang đắt khách lắm.
Hằng thấy cung cách của Tông, ngờ ngợ ngước mắt nhìn. Giám Lê nhanh nhẩu chen vào:
- Hôm nay ngày tốt anh em tôi đi chùa cầu phúc cầu duyên, mong cho sớm lấy được vợ
tốt.
Hằng nghe giọng đùa cợt thì mỉm cười, quay lưng đi. Thuyền đổi hướng ngược dòng lên
Thiên Mụ. Tông nhìn theo, thoáng chút ngẩn ngơ. “Con nhà ai mà dễ thương quá ta?”
Trên bờ, trong đám đông, Đăng Quế vẫn đi tìm. Quế đi cho đến khi đêm hội tan, chỉ còn
một dải sông Hương êm như nhung dưới trăng rằm, và những hoa đèn đủ màu càng lúc càng bập
bềnh trôi xa về phía biển.
Chương 17
Triều đình không tể tướng
Hằng trở về phủ với đôi mắt sưng mọng. Cô đã khóc rất nhiều từ lúc tan cuộc thả đèn, trở
về chùa, nghe cái tin Hạnh Thảo không về với cô nữa! Công chúa Ngọc Tú lâu nay vẫn lưu ý đến
người nữ tỳ tài hoa mà lại chịu thương chịu khó. Khi nghe tin Thảo xin ở lại nương náu trong
chùa, bà liền cho vời cô đến, khuyên:
- Chùa Thiên Mụ xưa nay chỉ có sư, không có ni. Con lại có nhan sắc, dù chỉ xin làm bà
vãi nấu ăn ở nhà dưới, chưa chắc quý thầy đã dám chấp nhận. Chi bằng con về phủ Long Thành
của ta.
Nghe con kể lại, Phạm Đăng Hưng cũng thấy áy náy trong lòng. Nhưng ông hiểu vì sao
Hạnh Thảo ra đi. Làm ra vẻ điềm nhiên, ông bảo con:
- Phủ mình nhỏ hẹp đơn sơ, sao sánh bằng công phủ của công chúa. Hạnh Thảo từ chỗ
tầm thường lên chỗ cao sang, vậy là may mắn vinh dự cho cô ấy, con phải mừng chớ!
Hằng vẫn buồn rười rượi:
- Chị Thảo ở đây, mình coi chị như ruột thịt. Về phủ công chúa thì nhất định là phận nô
tỳ. Công chúa suốt năm ăn chay, chắc cả phủ cũng đều phải chay lạt kiêng khem hết. Có khổ
thân chị Thảo không? - Hằng níu tay cha - Cha ơi, sao cha lại đồng ý để phủ Long Thành lấy mất
người nhà của mình?
Đăng Hưng thở dài.
- Hạnh Thảo tự nguyện ra đi, nào có ai ép uổng gì đâu?
Hằng nghe vậy lại trào nước mắt:
- Chị Thảo thương công chúa hơn thương mình à?
- Không phải đâu con… - Đăng Hưng lặng im một lúc rồi chậm rãi từng tiếng, giọng
khàn đi: - Hạnh Thảo đi là vì cô ấy thương gia đình mình đó, con à!
Dưới bếp, Phạm phu nhân đang lúi húi nấu ăn, mồ hôi lấm tấm trên trán. Người hầu chưa
tìm được, hai anh lính do triều đình ban cấp thì chỉ biết canh cửa và khiêng võng. Hạnh Thảo đi
rồi, việc nấu nướng cho cả nhà từ nay do phu nhân với Hằng tự mình lo liệu.
Dù nói cứng cho con khỏi buồn, Phạm Đăng Hưng thấy lòng nặng trĩu. Ông nhớ lời hứa
với Hạnh Thảo trước đây: Mái nhà ông sẽ là chỗ trú ẩn cho nàng. Bây giờ ông chỉ còn cầu mong
nàng được bình an… Ông cũng thấy buồn cho mình, từ nay đi chầu về ông chẳng biết nói
chuyện cung đình với ai nữa.
Dù không muốn dính líu đến những chuyện phiền toái chốn cung vi, nhưng Phạm Đăng
Hưng luôn phải liên quan trong những luận bàn nơi lầu rồng gác phụng. Ngay lúc này đây, ông
đang hắt hơi liên tục. Nếu điều dân gian vẫn tin là đúng: Sở dĩ hắt hơi là vì có người nhắc đến,
thì hôm nay ông đang nhảy mũi liên tiếp khi cái tên Đăng Hưng đang được nhắc đi nhắc lại trong
câu chuyện giữa hai con người đang cầm vận mệnh của ông.
Hai người đó là hoàng đế Minh Mạng và thái hậu Từ Khánh.
Hôm ấy hoàng đế Minh Mạng vào cung Từ Thọ vấn an thái hậu. Thái hậu ngồi trên sập,
truyền tả hữu lui ra hết.
- Hoàng thượng ngồi đi, ta có nhiều chuyện muốn bàn với con.
Nhà vua ngồi xuống.
Thái hậu đĩnh đạc:
- Việc sắp xếp trong triều, hoàng thượng đã tính toán xong chưa? Đừng viện cớ có tang
mà trễ nải. Việc nước là trọng yếu, phải lo từng phút từng giây.
- Vâng, thưa mẹ, con biết lắm. Dân không có ngày nào không phải lo ăn, thì việc nước
cũng không ngày nào gác lại được. Hiện con đang nghĩ về việc bổ nhiệm ai vào những chức vụ
trọng yếu nhất.
- Trọng yếu nhất, là tể tướng. Con đã nghĩ đến ai chưa?
- Theo thông lệ thì cố mệnh đại thần thường thường sẽ là tể tướng. Lê Văn Duyệt và
Phạm Đăng Hưng, có thể sẽ phải chọn một trong hai. Con vẫn còn đang cân nhắc lắm…
Thái hậu nói ngay không ngần ngừ:
- Có gì mà phải cân nhắc. Ta nhắm mắt cũng có thể hiểu ra ý tiên đế trong việc này. -
Không để vua kịp nói, thái hậu tiếp ngay:
- Này nhé: Phạm Đăng Hưng tuy có uy tín trong triều, nhưng so với Lê Văn Duyệt thì từ
thế lực, tài trí đến quá trình đóng góp cho hoàng triều đều thua. Y cũng chẳng nắm binh quyền,
chẳng có thực lực gì hết. Vậy tiên đế đưa vào, chẳng qua là để kiềm chế Lê Văn Duyệt. Cái chức
vị mà tiên đế nhắm tới dành cho y không phải là tể tướng, mà là chức ngự sử, chức quan này cần
tới sự cương trực. Về cương trực thì Phạm Đăng Hưng lại nổi tiếng.
Vua Minh Mạng thầm phục sự sắc sảo của mẹ.
- Thái hậu nói đúng như ý con đã nghĩ.
Thái hậu đắc ý, càng tỏ ra mẫn tiệp:
- Chức tể tướng đương triều, tất sẽ vào tay một người có thế lực bậc nhất. Một người có
uy lực, có binh quyền. Người đó là ai, chắc chắn không ai khác ngoài Lê Văn Duyệt. Tiên đế đã
thấy điều đó, nên đặt ngay ông ta làm đại thần cố mệnh, nhận lời trăn trối của tiên đế. Ý ngài là
đem sự tin cậy để ràng buộc, bắt y phải trung thành. Nhưng ta chỉ e rằng, ngay từ đầu y đã không
ủng hộ mẹ con ta, thì hiện nay lời trối ấy có đủ để y trung thành hay không?
Vua Minh Mạng gật đầu xác nhận:
- Thái hậu rất sáng suốt. Chính con đang suy tính chỗ đó. Nếu đặt Lê Văn Duyệt làm tể
tướng …
Thái hậu cất tiếng cười, cắt ngang lời vua:
- Đặt Lê Văn Duyệt làm tể tướng! Đặt Lê Văn Duyệt làm tể tướng! Làm vậy khác gì chắp
cánh cho hùm?
Vua Minh Mạng ngẫm nghĩ:
- Nhưng đặt một kẻ khác thì không tiện, khác nào đem dép để trên đầu, mũ đặt dưới đất.
Nếu sóng gió nổi lên ngay từ buổi đầu triều, thật nguy hiểm.
Thái hậu điềm nhiên:
- Không. Không có gì nguy hiểm cả. Hoàng thượng cũng không cần đặt ai lên ngôi tể
tướng cả. Tại sao ta lại phải cứ bắt chước việc làm của đời xưa? Hoàng thượng tài giỏi thông
minh, hoàn toàn có thể nắm hết quyền hành, không cần đến chức tể tướng!
Vua Minh Mạng giật mình, thoạt đầu ngạc nhiên, rồi một nụ cười thích thú hiện ra trên
gương mặt:
- Mẹ! Con thực sự thán phục mẹ. Con chưa nghĩ được điều này. Mẹ đúng là người sinh ra
vua!
Thái hậu cũng tươi nét mặt:
- Ta chưa nói hết. Nếu nay hoàng thượng chỉ ban hành một cái lệ mới là không lập tể
tướng, tất sẽ lộ rõ cái ý nghi ngờ Lê Văn Duyệt, làm cho y và phe cánh y bất mãn đề phòng. Để
cho kín kẽ, hoàng thượng hãy đặt ra cái lệ Tứ bất lập, sẽ không ai nói gì được.
Vua Minh Mạng tỏ vẻ dè dặt:
- Tứ bất lập là sao ạ?
Thái hậu tươi cười:
- Ta vừa nghĩ ra cái tên ấy, tạm gọi như thế cho dễ nhớ. Tứ bất lập là không lập bốn tước
vị lớn, trong cung cũng như ngoài triều. Trong triều không lập tể tướng, không tuyển trạng
nguyên; trong cung không lập toàng hậu, không phong thái tử. Ta làm có trên có dưới, có trong
có ngoài như thế thì không ai ca thán gì được.
Vua Minh Mạng cau mày.
- Không lập hoàng hậu? Không phong thái tử?
Thái hậu vẫn điềm nhiên:
- Tại sao không? Trước đây ta có là hoàng hậu đâu? Vậy mà mọi việc cuối cùng vẫn tốt
đẹp đó thôi!
Vua Minh Mạng lặng thinh, không nói. Lúc vua cáo từ về rồi, thái hậu quay lui, khẽ vỗ
tay làm hiệu. Tổng quản thái giám Trần từ sau màn bước ra.
- Ngươi thấy chưa? Ta không nói sớm thì có người sẽ nói trước ta đó.
Thái giám Trần đắc ý:
- Thái hậu quả là tài trí hơn người. Xưa nay người ta vẫn nói “Tiên hạ thủ vi cường”, ai ra
tay trước, người ấy mạnh hơn. Thần chỉ e…
- Nhà ngươi e cái gì?
- Thần chỉ e thói thường, đàn ông lúc nào cũng nghe lời vợ hơn nghe mẹ. Hoàng thượng
lặng im không nói gì, chưa biết ngài sẽ tính sao đây?
Đúng như thái hậu tiên liệu, tối hôm ấy hoàng đế Minh Mạng ngự ở viện Đoan Trang,
nơi ở của nàng Ngô Thị Chính. Trong lúc vua thong thả nghỉ ngơi, vừa đọc sách vừa duỗi chân
trên chiếc gối thêu êm ái, Chính nhẹ nhàng nhắc đến mẹ chồng:
- Tiên đế ngày xưa quả là người có nghĩa có tình. Lên ngôi hoàng đế xong là đã tính ngay
đến việc phong hoàng hậu. Nay ngôi hoàng hậu trong cung từ lâu bỏ trống, mọi việc đều dồn cả
lên vai mẫu hậu, thật cũng quá vất vả cho bà.
Vua Minh Mạng ngẩng lên, nghe rất rõ nhưng rồi lại điềm nhiên đọc sách, không nói gì.
Ngô Thị Chính ghé đến ngồi bên cạnh, cùng nhìn vào trang sách. Vua ngừng đọc, âu yếm
choàng tay qua vai Chính.
Ngô Thị Chính dựa đầu vào vai vua, dịu dàng âu yếm:
- Thiếp ngẫm lại phận mình thật may mắn. Ngày trước hoàng thượng chưa làm vua, thiếp
được sánh đôi quyến luyến đã đành, bây giờ hoàng thượng trăm công ngàn việc mà thiếp vẫn
luôn được kề cận mình rồng. Thiếp cứ ước được như thế này mãi mãi thôi.
Vua Minh Mạng cả cười:
- Ái khanh, sao lại không mãi mãi? Miễn sao nàng trung thành với ta thì ta vẫn luôn yêu
quý nàng mà. Chính lúc này, đầu óc ta căng thẳng suy nghĩ, là lúc ta cần được yên tĩnh bên nàng
nhất.
“Dạ, thiếp chỉ e nội cung hàng trăm cung phi mỹ nữ, đâu phải một mình thiếp. Rồi đây
tuổi lớn lên dần, sắc đẹp tàn, địa vị không có, nhiều khi nghĩ tới đường dài thiếp cũng lo sợ
lắm!”
Vua Minh Mạng hứ một tiếng:
- Năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình của đàn ông, huống chi bậc vương giả thì theo
lệ xưa phải có đủ số mỹ nữ cung tần. Miễn sao ta luôn lui tới với nàng là được rồi! Nàng còn lo
gì nữa? - Vua gằn giọng: - Dám không tin tưởng ở ta sao?
Ngô Thị Chính vẫn nằn nì:
- Nếu hoàng thượng quả thật thương yêu thiếp, xin đừng quên sắp xếp cho thân phận của
thiếp trong cung. Danh không chính thì ngôn không thuận, thiếp không có địa vị thì làm sao mở
mặt được với người đời. Sống thì tận trung tận trinh với hoàng thượng nhưng chết đi rồi cũng đi
với hai tay không thôi sao.
Vua Minh Mạng sốt ruột:
- Được rồi, được rồi! Trẫm vừa lên ngôi đã phong ngay nàng làm Tiệp dư, để từ từ khi
thuận tiện trẫm sẽ phong nàng lên dần dần cho đến đệ nhất giai phi, cao nhất trong các phi tần.
Như vậy đủ tỏ rõ trẫm thương yêu nàng chưa?
Ngô Thị Chính ngập ngừng:
- Vậy… vậy còn ngôi hoàng hậu thì để cho ai?
Vua Minh Mạng im một phút rồi thở hắt ra:
- Hoàng hậu à… Không có hoàng hậu!
Ngô Thị Chính ngẩn người:
- Sao lại như vậy được, tâu hoàng thượng? Triều vua nào mà chẳng lập hoàng hậu?
Vua Minh Mạng đanh giọng:
- Trẫm đã nói không có là không có. Đây là việc lớn của triều đình, hôm nay trẫm nói
nhiều như vậy là đã chiều nàng lắm rồi đó.
Ngô Thị Chính im lặng, phụng phịu, nước mắt rơm rớm nhưng không dám nói thêm. Nhà
vua đưa một ngón tay di di vào trán Chính, giọng vừa vỗ về vừa răn đe:
- Coi chừng, đừng có làm cho trẫm khó chịu đó.
Trong bụng nhà vua thầm nghĩ: “Mẹ ta liệu việc như thần, lúc nào cũng đi nước trước
thiên hạ. Ta phải cẩn thận đề phòng với thái hậu mới được!”
***
Tối hôm sau, không muốn tiếp tục nhìn khuôn mặt âu sầu của Ngô Thị Chính nên nhà
vua không đến viện Đoan Trang, cũng không ngự đến với cung tần nào trong lục viện. Nhà vua ở
lại trong điện Cần Chánh, cặm cụi viết đến khuya dưới ngọn đèn lưu ly tỏa sáng.
Có tiếng thái giám Trung Trực từ dưới thềm:
- Thái hậu giá lâm!
Thái hậu bước vào. Vua Minh Mạng dừng bút, ngẩng lên. Đã lâu lắm rồi, từ lúc các quy
định trong cung do Phạm Đăng Hưng soạn thảo được ban hành, thái hậu không còn được tự do
ra vào nơi vua làm việc. Nay đã là quốc mẫu, bà mới lại tận hưởng cái thú được đến bất cứ nơi
nào mình muốn.
- Hoàng thượng!
Vua Minh Mạng buông bút. Thái hậu lại gần, nhìn vào trang giấy trước mặt vua, ngạc
nhiên:
- Hoàng thượng nay cũng thích làm thơ sao?
- Xin mời thái hậu ngồi. Con sẽ nói với thái hậu về mấy bài thơ này. Đây không phải chỉ
là thơ thôi đâu, mà là toàn bộ tôn ti trật tự của hoàng tộc nhà Nguyễn sau này.
Thái hậu nghe con nói đến những chuyện đại sự thì cảm thấy rất hào hứng:
- Thật sao, nói ta nghe.
Vua Minh Mạng đắc ý:
- Phụ hoàng con để lại mười một con trai, ngoài con ra còn có mười hoàng tử nữa. Con
chế tác mười một bài thơ này, lấy các chữ trong thơ để làm tên lót cho con cháu mười một dòng.
Con cháu con sẽ có bài Đế hệ thi, mỗi đời dùng một chữ làm tên lót, để khi nghe đến tên một
người, người ta sẽ biết ngay là kẻ đó thuộc dòng dõi của nhà vua và thuộc về đời thứ mấy.
Thái hậu gật gù:
- Như thằng cháu Tông của ta thì sẽ đặt tên lót như thế nào?
Vua Minh Mạng giảng giải:
- Tông cũng như Hoằng và mười bảy anh em nó, dòng dõi của con, sẽ có chữ lót tên là
Miên, tức là chữ đầu trong bài Đế hệ thi. Con xin đọc mẹ nghe:
Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh,
Bảo Quý Định Long Trường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thế Thọ Quốc Gia Xương.
- Thế là từ nay anh em chúng nó sẽ là Miên Tông, Miên Hoằng? Nghe cũng hay lắm! -
Thái hậu hưởng ứng.
Vua Minh Mạng tiếp:
- Đúng như vậy. Các anh và các em con mỗi người cũng được một bài thơ để đặt tên lót
cho con cháu. Những bài này sẽ gọi là Phiên hệ thi, tức là thơ dành cho dòng dõi các phiên
vương.
Thái hậu gặng hỏi thật kỹ:
- Vậy là bọn hoàng tôn Đán, hoàng tôn Kính bên dòng hoàng tử Cảnh cũng sẽ có thêm
chữ lót riêng?
- Đúng vậy. Chính vì Đán, Kính và con cháu dòng hoàng tử Cảnh mà con phải nghĩ ra
những bài thơ này. Đán, Kính và dòng trưởng sẽ phải dùng một trong mười bài phiên hệ. Những
bài thơ này sẽ làm rõ tôn ti trật tự trong hoàng tộc. Từ đây dòng dõi của hoàng đế sẽ vượt lên và
đứng cao hơn những dòng khác trong họ Nguyễn Phúc.
Thái hậu tấm tắc:
- Hoàng thượng thật thông minh. Ta đã suy tính rất thấu đáo, mà cũng chưa nghĩ được
một chuyện hay như thế này.
- Vâng, theo mẹ thì các hoàng thân trong phiên hệ có vui nhận những bài thơ này không?
Thái hậu nhìn con, nghiêm khắc:
- Vui thì sao, mà không vui thì sao? Hoàng thượng là vua, ý vua là ý Trời!
Vậy là các bài Đế hệ thi và Phiên hệ thi được Tôn Nhân phủ ban hành, quả là một cuộc
cải cách về tên tuổi trong tất cả các thành viên hoàng tộc Nguyễn.
Các hoàng tử con vua Minh Mạng còn non trẻ, chỉ cảm thấy hân hoan vì với chữ mới
trong cái tên vốn có, từ nay các cậu sẽ được gia phả triều Nguyễn xếp vào hệ phái cao quý nhất
gọi là “Đệ nhị chánh hệ” - nghĩa là dòng thứ hai, nhưng lại là dòng chính. Đa số con cháu các
hoàng thân anh em của Minh Mạng như Phúc Hy, Phúc Bính, Phúc Đài… lâu nay an phận
hưởng phú quý, nên không nghĩ ngợi gì nhiều, ai nấy đón nhận cái tên mới, đều là những mỹ tự
đẹp đẽ, như một ân điển của tân hoàng đế ban cho. Chỉ có các đại thần huân cựu là hiểu thâm ý
sâu xa của vua, muốn tách biệt hẳn con cháu dòng trưởng của Anh Duệ hoàng thái tử Cảnh ra
khỏi con cháu mình, nhấn mạnh địa vị “phiên thần” của họ.
Hoàng tôn Đán, hoàng tôn Kính tất nhiên cản nhận điều đó rất rõ. Bài Phiên hệ thi dành
đặt tên đệm cho dòng trưởng nguyên văn như sau:
Mỹ Lệ Tăng Cường Tráng,
Liên Huy Phát Bội Hương
Linh Nghi Hàm Tốn Thuận
Vĩ Vọng Biểu Khôn Quang.
-“Mỹ lệ tăng cường tráng….” Từ nay tên ta phải có chữ tên lót là Mỹ, hoàng đế lại cho
riêng ta tên mới là Đường. Vậy tên ta từ nay là Mỹ Đường sao? Sao mà giống như tên đàn bà
vậy? - Nhận sắc chỉ từ Tôn Nhân phủ, Kính cầm bài thơ đọc, nhăn nhó.
Hoàng tôn Kính bực dọc muốn khóc:
- Tên mới của em là Mỹ Thùy, nghe còn tệ hơn, đàn bà hơn!
Tống Thị Quyên ấm ức:
- Đến cái tên của mình, giờ đây các con tôi cũng phải chịu theo ý người ta rồi! Trời ơi đất
hỡi! Nghe cái tên mà đủ thấy sự mềm yếu, lệ thuộc! Nghe như người ta rút xương mình!
Hoàng tôn Đán ngồi phịch xuống tràng kỷ, hậm hực:
- Rồi đến đời con ta lại phải đặt tên lót là Lệ, lại thêm một đời nữa mang cái tên lại cái.
Khốn nạn!
Mỹ Thùy tức giận:
- Mặc kệ cái trò thơ phú lộ liễu này, trong phủ ta không ai được nhắc tới mấy cái tên kệch
cỡm ấy. Mẹ cứ gọi chúng con là Đán, là Kính thôi, hỏi ai dám làm gì được mình.
Vậy là mấy tháng sau khi tiên đế băng hà, triều đình chưa thay đổi gì mấy nhưng trong
nội cung và hoàng tộc thì đã ngấm ngầm rất nhiều đợt sóng âm ỉ. Trong Thế miếu và điện Hoàng
Nhân, hàng ngày hoàng gia vẫn dâng cúng trước bài vị của Thế Tổ Cao hoàng đế Gia Long,
nhưng những lo toan và dự tính quyền lực đã chiếm hết phần lớn tâm trí của mọi người.
Chương 18
Tai vạ
Trong biệt phủ ở Kim Long, mỗi tháng hai lần, công chúa Ngọc Tú vẫn làm lễ phóng
sinh để cầu nguyện cho linh hồn tiên đế. Sáng sớm, sau khi tụng mấy hồi kinh Thủy Sám, công
chúa lên thuyền. Hạnh Thảo và mấy nữ tỳ thân tín theo sau, tay xách những thùng đầy cá. Được
thả xuống sông, cả đàn cá bơi đi, vẫy đuôi tung tăng giữa nước sông trong mát.
Trở về phủ, Hạnh Thảo đốt lò trầm. Công chúa ngồi xuống sập, nhìn người nữ tỳ. Tuy
dùng Hạnh Thảo chưa lâu, nhưng trong lòng công chúa đã nảy sinh rất nhiều tình thương với
người con gái hiền hậu, thông minh mà cuộc đời lắm nỗi long đong.
- Hạnh Thảo, ta trông con có vẻ buồn, có phải ở đây thanh vắng quá lòng con không vui?
Từ khi phò mã hy sinh đến nay, ta ăn chay niệm Phật, sống khắc khổ đã quen rồi. Tiên đế ban
thưởng gì, đều đem làm việc thiện hết. Con còn trẻ tuổi, sống thế này chắc là cảm thấy khổ lắm!
Hạnh Thảo thấy công chúa quan tâm, trong lòng cảm động:
- Thưa, không phải ạ! Con cũng gặp nhiều trắc trở, quyết tâm tìm nơi yên tĩnh nên mới
xin được ở chùa. Kham khổ như ở chùa, con còn chấp nhận, huống hồ nay được ở trong công
phủ, còn chi hơn nữa.
Công chúa ôn tồn:
- Qua câu chuyện con kể, ta cũng hiểu tâm sự của con lắm. Nếu con không tiện ở luôn
trong phủ Phạm thượng thư thì thỉnh thoảng ta sẽ có việc sai con về đó. Được thăm lại những
người thân thiết, chắc lòng con cũng đỡ nhớ thương.
Hạnh Thảo giật mình:
- Đa tạ công chúa đã thương con. Nhưng từ lúc ở chùa Thiên Mụ nghe sư thầy thuyết
giảng, con đã quyết tâm không quay về phủ thượng thư nữa.
- Nếu con thực lòng nhất định không về phủ Phạm nữa, hay là để từ từ ta kiếm người tử
tế gả cho. Nay tuổi con cũng lớn rồi, phải tính chuyện hôn nhân cho kịp con ạ!
- Ấy chết - Hạnh Thảo giẫy nẩy lên - Xin công chúa đừng làm vậy! Con xin nguyện theo
công chúa ăn chay niệm Phật mà thôi!
Công chúa cười, một nụ cười hiền hòa:
- Việc gì phải vậy? Như ta là vì thương chồng chết thảm, nên sau này tiên đế năm lần bảy
lượt tìm người tốt cho ta tái giá nhưng ta đều khước từ. Bởi ta nghĩ trước đây Phúc Điến làm
người bề tôi trung liệt, biết giữ nghĩa mà chết, ta là vợ phải sống cho xứng đáng. Còn con là
khác, một người con gái tốt giỏi giang như con, ở vậy thật là phí hoài!
104
Hạnh Thảo chỉ lắc đầu không nói, nước mắt rơn rớm trên mi. Chạnh lòng, công chúa
cũng bùi ngùi, nhưng hình ảnh xa xưa vụt trở về trong tâm trí. Nhớ cái thời mới lấy chồng, thời
ấy mang tiếng là em vua nhưng cả triều đình còn ẩn náu trong Nam, lễ cưới đơn sơ, công chúa
chỉ mặc có chiếc áo dài lụa xanh mà mẹ nàng đã mặc hồi mới được tiến vào phủ chúa… Vợ
chồng trẻ đang thương yêu nhau mặn nồng thì xảy ra cuộc truy đuổi của quân Tây Sơn, nhà vua
em nàng chạy đến đảo Điệp Thạch thì cùng đường. Trong lúc nguy cấp, Điến bảo vua cởi áo cho
mình mặc, rồi ra đứng ở đầu thuyền. Quân Tây Sơn xúm lại bắt, nhờ thế nhà vua mới chạy thoát.
Bị bắt, Điến luôn miệng chửi bới không chịu hàng, bị địch đâm chém nát tan từng mảnh…
Kỷ niệm thảm khốc khiến công chúa nhắm nghiền đôi mắt. Dù đã hơn ba mươi năm, nỗi
đau chưa bao giờ thành sẹo. Bao nhiêu ngày đêm tụng kinh, người vợ góa vẫn phải cố gắng tự an
ủi mình: Phò mã nay đã an vui trong cõi Phật.
Hạnh Thảo thấy công chúa bỗng lặng người đau đớn, vội chạy đến bên đỡ lưng chủ, vỗ
về. Công chúa mở choàng mắt, nắm chặt tay Hạnh Thảo, thổn thức:
- Ta đã xin tiên đế, khi nào chiến thắng về Kinh, sẽ cạo đầu vào chùa, xuất gia đầu Phật.
Tiên đế cứ hẹn lần hẹn mai, rồi nay người đã khuất núi.
Hạnh Thảo an ủi:
- Tiên đế nhờ có phò mã mà thoát nạn, có được cơ nghiệp ngày nay. Vì vậy muốn công
chúa cùng hưởng phú quý, đâu có đành cho công chúa tu hành cực nhọc.
Công chúa thở dài:
- Ai cũng nói vậy, đâu biết là cực thân không khổ, cực lòng mới thật là khổ! Ta nhất định
sẽ tâu xin với đương kim hoàng thượng, cho đến khi nào người phải chuẩn y mới thôi.
Công chúa đi nằm rồi, Hạnh Thảo lui xuống nhà dưới, lúi húi tự tay làm món nộm chuối
sứ trộn chua ngọt cho thật khéo để công chúa dùng trưa. Cô chợt nhớ, món này Hằng rất thích,
cô bé cứ nằn nì bày cho bí quyết làm sao cho giòn và trắng, không bị mủ chuối làm cho đen xạm.
Hạnh Thảo đã hứa bày cho mà chưa kịp… Những ngày ở phủ Phạm, nếu không có chuyện hiểu
lầm của Phạm phu nhân thì quả là những ngày êm đềm nhất trong cuộc đời long đong của Hạnh
Thảo. Cô nghĩ thầm: “Thôi đừng tiếc, mình có ra đi, cả nhà Phạm thượng thư mới được bình
yên…”
Hạnh Thảo đâu biết trong lúc đó phủ Phạm đang gặp khó, Hằng mỗi ngày tất tả lo lắng
hết nấu ăn cho cả nhà lại canh chừng từng siêu thuốc cho mẹ. Phạm phu nhân bị bệnh thời khí đã
hơn nửa tuần trăng, cả nhà lo lắng tột độ. Phạm Đăng Hưng cũng phải tạm bỏ cả việc quan, giao
hết cho viên tham tri lo liệu mọi việc. Hằng đã nghĩ đến việc gọi Hạnh Thảo trở về giúp đỡ một
tay, nhưng Đăng Hưng gạt đi, không muốn làm phật lòng công chúa, hơn nữa cũng sợ phu nhân
nghĩ ngợi vẩn vơ rồi bệnh nặng thêm.
Mới chưa đầy mươi hôm mà Phạm phu nhân đã gầy rộc đi, nằm liệt trong giường, vẻ mặt
xanh xao. Hằng một mình tất tả dưới bếp. Một siêu thuốc và mấy nồi thức ăn đang sôi trên ba
bốn cái bếp lò. Cô cầm siêu thuốc rót vào chén, lấy khăn lót tay rồi bưng thuốc lên cho mẹ.
Phạm phu nhân hé mở mắt.
- Con… Khổ thân con, vất vả quá. Sao không sai chị bếp mới sắc thuốc cho.
Hằng cố lấy vẻ mặt vui vẻ:
- Con cho chị bếp về quê rồi! Con giận quá, cũng vì chị ấy nấu nướng không cẩn thận, để
tà khí nhiễm vô đồ ăn nên má mới ra nông nỗi thế này.
Phạm phu nhân trằn trọc:
- Có tìm được người mới không, thấy con khó nhọc vậy má nằm không yên.
Hằng vẫn ra vẻ tươi tỉnh:
- Má đừng lo, con làm được hết. Má không bệnh lâu đâu mà, ít hôm nữa sẽ lành thôi.
Phạm phu nhân ứa nước mắt:
- Má biết trong người má lắm, thuốc uống vào sao không thấy bớt, cứ đi tả hoài. Sợ má
có bề gì lấy ai chăm sóc hai cha con.
Hằng dỗ dành:
- Má phải thương má đi chớ, đau ốm thế này mà lại cứ thấp thỏm lo cho người khác, vậy
sao mà lành bệnh được! Má yên tâm đi, con đã lớn rồi, đâu có còn nhỏ như hồi trước nữa đâu.
Ngoài cửa, Phạm Đăng Hưng đang đưa thầy lang vào. Đây là thầy lang họ Đỗ rất danh
tiếng ở kinh thành, đã nhiều lần được Tôn Nhân phủ cho sung vào Thái y viện, nhưng ông đều từ
chối.
Thầy lang Đỗ bắt mạch cho Phạm phu nhân. Hằng nhìn theo cử chỉ của thầy, lo âu:
- Thưa cụ, bệnh má con có khá hơn rồi phải không cụ? Sáng nay con đã dỗ dành má con
uống được hết chén thuốc.
Thầy lang Đỗ vẫn bắt mạch, không nói gì.
Phạm Đăng Hưng ngồi trước nhà khách, vẻ mặt lo âu. Thầy lang bước ra, Đăng Hưng vội
đứng dậy, chờ đợi từng lời của thầy.
- Mời cụ uống chén trà. Bệnh phu nhân tôi thế nào, thưa cụ?
Hằng nấp nghe lóm sau màn cửa. Thầy lang dùng lưng bàn tay đẩy chén trà ra xa, không
uống.
- Phu nhân nhiễm phải bệnh thời khí, thượng thổ hạ tả, bệnh này rất nguy hiểm. Thuốc gì
vào cũng không thể giữ được trong dạ dày, nên tác dụng chẳng đáng kể. Nay chỉ còn cách triệt tà
bằng vôi và muối. Vôi trắng thì ngài cho gia nhân đào một cái hố trong vườn, cho tất cả những
quần áo dơ, những đồ người bệnh thải ra vào đó. Còn muối thì nấu sôi với nước cho bệnh nhân
uống, uống một ngày cho được một đấu, cứ như thế trong ba ngày. Nếu qua khỏi thì tôi mới dám
nói tới chuyện thuốc thang cho phu nhân.
Đăng Hưng nghẹn ngào:
- Còn nếu sau ba ngày…
Thầy lang Đỗ phẩy tay, không nói, chỉ vái chào rồi bước ra.
Đăng Hưng lặng người đứng im, hai vai rũ xuống.
Hằng ôm mặt cố nén tiếng khóc sau màn cửa.
- Má ơi!
Nghe tiếng khóc, Đăng Hưng bước ra sau màn, vỗ nhẹ lưng con.
- Vẫn còn hy vọng, còn nước còn tát, con à!
Ngay trưa hôm đó, cả nhà ra sức cứu bệnh cho phu nhân. Hằng cùng một lính hầu người
trộn vôi, người khuấy muối, người đun nước trên bếp. Đăng Hưng thắp nhang lên bàn thờ:
- Xin tổ tiên phò hộ cho con dâu họ Phạm tai qua nạn khỏi…
Người lính hầu đang canh cổng bước vào:
- Bẩm quan lớn, công đường bộ Lễ cử người mời quan đến duyệt danh sách phong thần
của triều đình.
Đăng Hưng lắc đầu:
- Ta chưa đi được, đã ủy thác công việc cho quan thị lang và quan tham tri rồi.
Đăng Hưng nói rồi vào trong, ngồi cạnh vợ. Phạm phu nhân thều thào.
- Tôi nghe cả rồi. Phong thần là việc trọng đại, triều đình coi trọng lắm. Quan lớn cứ đi
đi, là nam nhi phải lo việc nước hàng đầu mới phải.
Đăng Hưng gạt đi:
- Gì thì gì, tôi cũng không thể bỏ mình mà đi lúc này được!
Phạm phu nhân cười héo hắt, đưa bàn tay gầy giơ xương vuốt vuốt tay áo chồng.
- Quan lớn đừng lo, tôi thương mình lắm, tôi không bỏ mình mà đi đâu!
Hằng đã nấu xong nước muối, đưa lên. Đăng Hưng bưng liễn, tự tay san ra bát, đỡ vợ dậy
cho uống.
Phu nhân uống mấy hớp rồi nghẹn lại, chực nôn.
Hai hôm sau, bệnh vẫn không đỡ. Cả nhà đều đuối sức vì lo buồn. Một anh lính hiến kế:
- Cái bệnh tả lỵ này là do thần ôn dịch sai âm binh đi bắt người đó, ngày xưa ông bà chữa
bằng cách dùng roi dâu quất quanh nhà, dọa như vậy âm binh mới sợ mà tránh xa. Quan lớn mau
mau làm vậy đi!
Trước Đăng Hưng đã nghe nhiều người khuyên như vậy nhưng ông cho là nhảm nhí,
không tin. Bây giờ đã cùng đường, đành phải nghe theo vậy. Chú lính hầu cầm cây roi dâu, chạy
ra ngoài quất vùn vụt trong không khí.
- Âm binh này, bộ hạ này. Mau tránh xa phu nhân nhà ta. Âm binh này, bộ hạ này…
Hằng ngồi đốt áo giấy và vàng mã một bên, những mong hối lộ quỷ thần, xin tha mạng
cho mẹ. Ngọn lửa bốc cao, Hằng vừa đốt vừa lâm râm cầu khấn.
Ngoài cổng, Trương Đăng Quế phi ngựa đến, vất cương chạy vội vào:
- Nghe nói phu nhân bệnh nặng, bây giờ ra sao rồi?
Hằng bưng mặt, không kìm nén nổi nữa, khóc òa:
- Hết cách rồi anh Quế ơi, giờ chỉ biết cầu Trời thôi!
Hôm sau, đúng vào ngày thứ ba như thầy lang tiên đoán, Phạm phu nhân kiệt sức, trút hơi
thở cuối trên tay chồng. Năm ấy, phu nhân mới ba mươi sáu tuổi.
Lễ tang phu nhân giản dị nhưng rất đầy đủ lễ nghi, mộ đặt trên đồi phía Tây thành Huế.
Ba hôm sau, đến lễ mở cửa mả, Đăng Hưng đứng trước mộ phu nhân, nước mắt giàn
giụa. Không biết do gió chiều thổi lộng trên đồi cao, hay do linh hồn người dưới mộ cảm thấu
nỗi tiếc thương của người ở lại, mà bó hương vừa cắm xuống đã cháy rực lên thành những ngọn
lửa nhỏ bập bùng.
Hằng đặt dĩa bánh trước mộ.
- Má ơi, má thường ngày thích bánh nếp nhân mứt bí lắm, con làm cho má đây.
Gió thổi qua những ngọn thông vi vu. Xa xa dưới chân đồi là con đường ngoằn ngoèo
dẫn về thành. Hằng lau nước mắt, níu vai cha:
- Cha ơi, chiều tối rồi, thôi mình về!
Đăng Hưng vẫn đứng im lặng. Hằng nắm lấy tay cha dẫn đi.
- Về với con đi cha, bây giờ con chỉ còn có cha thôi.
Hai cha con dựa vào nhau đi xuống dốc đồi. Thỉnh thoảng Hằng lại ngoái lui nhìn mộ mẹ.
Bên cạnh dĩa bánh, khói hương vẫn nhè nhẹ bay lên… tưởng như linh hồn phu nhân còn lưu
luyến những ngày ngắn ngủi trên dương thế.
Chương 19
Trọng tội
Vua Minh Mạng rất giận dữ về việc tày trời đã xảy ra tại bộ Lễ. Hơn một trăm sớ tấu từ
bộ Lễ đưa lên, xin sắc phong cho các thánh thần trên khắp đất nước, nhà vua đã phê duyệt bằng
bút son. Nay tất cả được giữ lại để xem xét, vì có kẻ tố giác: Có ẩn lậu sớ gian, dám xin sắc
phong cho tướng giặc làm thần.
Đập bàn, vua quát:
- Thế này thì trẫm còn biết tin vào ai? Phạm Đăng Hưng là cố mệnh đại thần, trẫm đang
còn tính cất nhắc lên chức ngự sử. Vậy mà nay lại sai phạm tày trời. Nếu trẫm không xử nghiêm,
thì còn ai sợ phép nước nữa đây?
Theo lệ từ xưa thì hoàng đế là con của Trời, đứng trên tất cả các thần linh. Các thần thánh
được dân gian thờ cúng trong các đền điện miếu vũ, chỉ được chính thức xem là thần thì phải có
hoàng đế thay mặt Trời ban sắc chỉ thừa nhận. Gần đây, thấy ở nhiều làng xã, dân còn giữ hủ tục
như thờ thần ăn trộm, thần gian dâm, hoàng đế Minh Mạng muốn nghiêm chính phong tục nên
bắt bộ Lễ rà soát lại lai lịch các thần, chỉ cho thờ phụng những vị nào xứng đáng. Vì vậy các “tà
thần” do mê tín đã được bỏ đi, nhưng ai ngờ lại sót một thần: Vị thần này không ai khác, chính là
tướng nhà Trịnh tên gọi Hoàng Ngũ Phúc, vị tướng đã cầm quân đánh vào kinh thành Phú Xuân
năm Giáp Ngọ, khiến cả triều đình chúa Nguyễn phải chạy tan tác vào Nam. Trong số nạn nhân
của biến cố năm Giáp Ngọ có cậu thiếu niên Nguyễn Phúc Ánh lúc ấy mới mười lăm tuổi, tức
Gia Long hoàng đế sau này.
Trong triều, tay chân thân tín của thái hậu cũng không ít. Biết thái hậu không ưa Đăng
Hưng, họ nhân cơ hội này gièm pha trước mặt vua:
- Tâu hoàng thượng, việc này rất là nghiêm trọng. Thời tiên đế, năm Gia Long thứ mười
sáu, Binh bộ Thượng thư là Đặng Trần Thường cũng vì gian lận phong thần cho tướng ngụy
Hoàng Ngũ Phúc mà bị triều đình xử tội thắt cổ chết. Nay Phạm Đăng Hưng lại to gan đưa vào,
xin hoàng thượng nghiêm trị.
Lê Văn Duyệt thấy nguy, vội nói gỡ:
- Tâu hoàng thượng, xin hoàng thượng bớt giận. Đăng Hưng xưa nay làm việc cẩn trọng,
không biết tư túi cho ai. Nay trong lúc gia sự bối rối nên có sơ suất, xin hoàng thượng gia ơn xét
lại.
Bình Thái quận công Đinh Tăng Kiên phản bác:
- Phạm Đăng Hưng là đại thần cố mệnh, mà làm việc bừa bãi vậy, có xứng không?
Hoàng Ngũ Phúc đánh Phú Xuân, xâm phạm cơ nghiệp của chúa ta, vơ vét vàng bạc đem về
Bắc. Tội ác y tày trời như vậy nên mới bị Trời hại, trên đường về thối ruột ra mà chết. Linh hồn
y lại còn tác oai tác phúc khiến dân chúng sợ hãi mà thờ cúng. Trước đây tiên đế giận lắm đã sai
phá miếu thờ, vậy mà dân ngu lại lén lút lập lên. Nay bộ Lễ cũng nhắm mắt đưa vào danh sách
phong thần là có ý gì? Tính làm phản hay sao?
Lê Văn Duyệt tức giận:
- Ông mới chính là kẻ nói bừa, té nước theo mưa, chẳng có chút lương tâm!
Vua Minh Mạng lừ mắt:
- Lê Văn Duyệt, không được vô lễ! Trước mặt trẫm đây, sao khanh dám to tiếng? Trẫm
nhắc lại lần nữa, phép nước là phép nước. Hoàng tử phạm tội, xử như thứ dân. Đại thần cố mệnh
có tội, càng phải xử nặng hơn người để răn phạt cái lỗi không xứng đáng.
Lê Văn Duyệt hậm hực:
- Hoàng thượng đã phán vậy, thì lão thần làm sao dám mở miệng nữa đây!
Vua Minh Mạng nghe rõ cái ý trách móc trong lời tâu của Lê Văn Duyệt, nhưng vẫn lạnh
lùng:
- Lui ra hết đi. Việc này giao Tam pháp ty nghị xét, nội trong bảy ngày phải trình lên cho
trẫm xem lại.
Tối hôm đó, nhà vua ngự về cung thất của Tiệp dư Ngô Thị Chính. Chính vừa tự tay giúp
nhà vua cởi áo, vừa khéo léo gợi chuyện khiến vua nhắc đến việc lúc ban ngày. Nàng làm như vô
tình:
- Nghĩ cũng cám cảnh cho cái ông Phạm Đăng Hưng ấy. Vợ chết tới nơi thì còn lòng dạ
nào nữa, bảo sao không sơ suất.
Vua Minh Mạng hừ một tiếng, giọng nhẹ nhàng đi nhiều:
- Vậy sao? Nhưng mà cũng không tha được đâu! Đã là quan chức ăn lộc triều đình, thì
việc công phải đặt lên hàng đầu mới phải. Tình riêng nhi nữ sao bằng mệnh vua phép nước? Bậc
trượng phu sao có thể mềm yếu như vậy? Coi một người đàn bà lớn hơn mệnh vua sao?
Ngô Thị Chính nhỏ nhẹ:
- Tâu hoàng thượng, hoàng thượng cương dũng lắm. Nhưng hoàng thượng là một người
phi thường siêu việt, nếu lấy người ra làm khuôn mẫu thì trên đời không có người đàn ông nào
theo được!
- Chứ sao? Trẫm đây là thiên tử, trong cung hàng mấy trăm đàn bà, nếu cứ vì tình riêng
thì có mà loạn cả quốc gia lên sao! Nhưng mà ái khanh nói phải, trên đời mấy ai bắt chước được
trẫm. Đăng Hưng tất nhiên không thể theo kịp.
Ngô Thị Chính dựa ý vua:
- Dạ, cái ông ấy thì nghe đâu nổi tiếng thờ vợ, cả đời chỉ biết một bà không dám nhúc
nhích hó hé với ai! Đàn ông mà như thế thì kỳ cục quá!
Vua Minh Mạng gật đầu:
- Kể thì bụng dạ Đăng Hưng thế nào, trẫm biết chứ. Cái việc này, trẫm tuy không trực
tiếp tra xét, cũng biết thừa ra là vắng mặt Đăng Hưng, các tham tri, thị lang không biết việc, lấy
nhầm tờ tấu cũ mười mấy năm trước để sao chép lại, dâng lên.
Ngô Thị Chính cười mơn:
- Hoàng thượng thật là bậc minh quân sáng suốt, góc khuất nào cũng soi thấu. Thật may
cho Đăng Hưng được thờ ông vua như hoàng thượng!
Minh Mạng rắn giọng lại ngay:
- Nhưng vẫn phải xử thẳng tay, để dằn mặt Lê Văn Duyệt mới được. Cái lão Lê này, cậy
thế là đại thần cố mệnh, lâu nay bàn việc gì cũng mạnh giọng lấn lướt trẫm. - Nhà vua như muốn
xả ra hết bao nhiêu tức giận lâu nay kìm nén - Y cứ tưởng vẫn còn cái thời ở trong Nam, khi tiên
đế bắt trẫm đi theo học việc với y. Mấy chục năm qua rồi, trẫm đâu có thua kém y cái gì nữa, chỉ
có y quá tự cao tự mãn nên không nhận ra thôi! À, sao nàng ở trong cung mà lại biết việc vợ
Đăng Hưng mới mất? - Vua nhìn thẳng vào mặt Ngô Thị Chính: - Này ái khanh, trẫm nhắc lại
lần nữa là trẫm nghiêm cấm việc nội cung tham dự vào triều chính đó!
Chính sợ hãi, vội vã thanh minh:
- Dạ đâu có, chỉ vì lúc ban ngày đến thăm lớp học, vô tình nghe sư phó Đăng Quế nói
chuyện với các hoàng tử, mới biết gia cảnh của Phạm thượng thư. Thiếp thấy tội nghiệp, lại nhân
hoàng thượng nhắc đến, thiếp mới dám góp đôi lời.
Thật ra lúc chiều nay Trương Đăng Quế nghe tin từ trong triều cho biết: Phạm Đăng
Hưng đang gặp nguy, nên đã nghĩ ngay đến việc cầu cứu với Ngô Tiệp dư, vợ yêu của hoàng đế.
Cảm động vì lòng trung thành của Đăng Quế đối với ân nhân, vì tình vợ chồng chung thủy của
quan Thượng thư họ Phạm, Ngô Thị Chính đã hứa sẽ hết lòng giúp đỡ.
Hơn nữa trong thâm tâm, Ngô Thị Chính thấy Đăng Quế có tài có chí, đường sự nghiệp
còn dài, biết đâu có lúc sẽ là chỗ dựa cho mẹ con mình. Nay cũng nên giúp đỡ một chút, xem
như gầy dựng mối ơn nghĩa về sau…
Ba tháng sau Tam pháp ty đã xử xong. Theo bản án thì Phạm Đăng Hưng tội nặng khó
dung, phong giặc làm thần, đáng ra phải thắt cổ như Đặng Trần Thường khi trước. Nhưng vì
thánh thượng thương xót công thần, giơ cao đánh sẽ, nên chiếu cố mở cho một con đường sống,
hòng còn được lập công chuộc tội. Đăng Hưng bị cách chức Thượng thư bộ Lễ, thu lại áo mũ, sai
vào Quảng Nam nhận việc quản thủ kho lương.
Lệnh quan giục giã, thấm thoắt đã đến lúc phải ra đi. Trên đường thiên lý, Đăng Hưng
mang tay nải ngồi trên lưng ngựa. Một người lính cỡi con ngựa gầy đi trước dẫn đường.
Đến gần đèo Phước Tượng, quang cảnh đìu hiu, chợt có tên hầu nhà ai mặc áo gia binh
đứng đợi bên đường. Thấy Đăng Hưng đi tới, y cất tiếng gọi:
- Quan lớn, quan lớn!
Đăng Hưng ghìm cương:
- Ta nay là quan nhỏ chứ chẳng còn là quan lớn nữa. Ngươi là ai, chờ ta có việc gì?
Tên gia nhân thưa:
- Bẩm, con là thủ hạ của Đức ông Lê Văn Duyệt. Đức ông sai con chờ ở đây để trao cho
ngài một ít quà tiễn chân.
Gia nhân đưa cho Đăng Hưng một phong thư cùng một bọc gói kín.
Đăng Hưng đỡ lấy, ngậm ngùi. Đức ông giờ đây không dám gặp ta đường đường chính
chính nữa sao! Mà cũng phải, chính ta, trước khi ra đi cũng tránh không đến chào Đức ông, sợ
liên lụy đến người.
Trong thư, Lê Văn Duyệt chỉ viết mấy dòng:
“Đường xa trăm dặm, ông hãy chú ý bảo toàn thân thể. Ta muốn tiễn chân ông, nhưng e
rằng như thế sẽ chỉ làm ông lâu có ngày trở lại! Cả hai ta nay đã nằm trong tầm ngắm của thái
hậu, hãy hết sức cẩn thận, chớ có coi thường.”
Đăng Hưng thúc ngựa đi, hình ông in trên con đường núi cheo leo giữa nắng chiều vàng
vọt.
Chương 20
Ân tình với người đã khuất
Cùng lúc ấy, trong cung Từ Thọ, thái hậu đang hỏi hoàng đế Minh Mạng về việc xử trí
với Phạm Đăng Hưng. Nhà vua đáp:
- Giết Đăng Hưng thì nhẫn tâm, rõ là không nên, vì ai cũng thấy ông ta vô tình sơ suất,
không phải cố ý lừa vua như Đặng Trần Thường khi trước. Cho ông ta đi xa là cách hay nhất, để
cách ly ông ta với Lê Văn Duyệt. Theo con, nếu tách rời khỏi Duyệt thì Hưng chẳng còn gì đáng
sợ nữa.
Thái hậu cảm thấy hài lòng, bà ngắm nhìn con trai, khuôn mặt giãn ra với một nụ cười
toại nguyện. Đây là một trong những giây phút hạnh phúc nhất của đời bà.
- Sao hoàng thượng không xưng trẫm với ta? Nay hoàng thượng đã là vua rồi mà.
Vua Minh Mạng hơi bất ngờ:
- Con làm vua với thiên hạ, chứ đâu lẽ nào làm vua với mẹ?
Thái hậu thung dung:
- Hãy xưng trẫm cho ta nghe, ta thích từ miệng hoàng thượng thốt ra cái tiếng tuyệt vời
đó! Từ lúc còn mang con trong bụng, ta đã nghĩ đến việc làm mọi cách để cho con lớn lên được
ngồi trên ngai, xưng trẫm!
Vua Minh Mạng xúc động.
- Mẹ! mẹ nhìn xa trông rộng, sắp đặt trước mọi việc, quả là người tạo ra thời thế. Dù đàn
ông cũng không mấy ai tài giỏi được như vậy!
Thái hậu gật đầu:
- Hãy xưng trẫm đi. Ta thích cái danh xưng uy nghi ấy. Cũng như khi nghe người gọi ta
là thái hậu, hai tiếng ấy cứ vang vang trong lòng ta.
Vua Minh Mạng hơi dè dặt một chút rồi chiều theo ý mẹ:
- Vâng… Trẫm xin chiều ý thái hậu!
Thái hậu hài lòng:
- Bây giờ mẹ con ta lại nói chuyện công việc. Hoàng thượng, hoàng thượng giải quyết
việc Đăng Hưng như vậy là phải lắm, không nặng không nhẹ, ai thấy cũng sợ mà không ai dám
bất mãn. Việc triều đình hoàng thượng xử lý mạnh mẽ, thông minh, ta quả thật rất yên tâm. Ta
chỉ còn băn khoăn việc trong hậu cung…
- Việc hậu cung trẫm đã theo ý thái hậu mà không lập hoàng hậu, không phong thái tử.
Thái hậu còn điều gì không an tâm?
Thái hậu tỏ vẻ bùi ngùi:
- Là việc ân tình với người đã khuất. Trước đây Hồ Thị Hoa con nhà cao môn lệnh tộc,
nhan sắc đức hạnh đều hơn người. Cũng chỉ vì sinh con trai đầu lòng cho hoàng thượng mà qua
đời khi mới mười bảy tuổi. Công ấy, tình ấy làm sao quên được…
Vua Minh Mạng thở dài:
- Hồ Thị Hoa là người vợ đầu tiên của trẫm, tuy sống chung vỏn vẹn có một năm nhưng
ân ái thật trọn vẹn. Chẳng may trời xanh ác nghiệt, nàng chết đi trẫm cũng đau buồn lắm! Vì vậy
đã tâu xin tiên đế cho lập miếu nhỏ thờ nàng ngay trong cung. Từ ấy đến nay vẫn hương khói
thành kính, có quên đâu?
Thái hậu lắc đầu:
- Ta thấy vẫn chưa đủ. Người ta bảo sự tử như sự sinh, đối với người chết cũng phải như
đang còn sống. Vừa rồi hoàng thượng phong cho Ngô Thị Chính làm chức Tiệp dư. Chính mà so
với Hoa thì mười phần thua kém, Hoa là con công thần khai quốc, Chính là con hàng thần, thử
hỏi ai cao quý hơn. Đó là chưa kể nhan sắc, đức hạnh…
Vua Minh Mạng hơi sốt ruột:
- Trẫm chưa hiểu thái hậu muốn nói gì? Khi trẫm còn là hoàng tử, mới đầu ở với nàng
Hoa một năm thì Hoa chết, sau đó cung tần họ Phạm vào cung được ba năm cũng lăn ra chết.
Các quan lúc đó sợ quá không ai dám tiến con gái cho trẫm, ai cũng bảo trẫm cao số khắc thê,
đưa con cho Hoàng Đảm xem như đưa đi chôn. Đến khi trẫm ở với Ngô Thị Chính được năm sáu
năm yên ổn, lúc bấy giờ các quan mới ào ào xin đưa các tiểu thư vào cung. Chính tuy lai lịch
không tốt nhưng đã mười mấy năm hầu hạ trẫm, khoan nhu lễ phép, biết chiều ý trên, nay trẫm
phong nàng làm Tiệp dư có gì là không phải?
Thái hậu lạnh lùng:
- Hoàng thượng đã phong rồi, phải hay không phải ta cũng không cần bàn nữa! Chỉ có
điều phải công bằng, đã phong cho Chính thì phải phong cho Hoa, không được bên trọng bên
khinh!
Vua Minh Mạng ngạc nhiên trợn tròn mắt.
- Phong cho Hoa? Nàng đã khuất núi rồi thì có cần gì đến chức tước ở thế gian này nữa?
Thái hậu không chịu:
- Sao lại không? Hùm chết để da, người ta chết để tiếng. Nếu hoàng thượng không phong
nàng chức phẩm xứng đáng, hồn thiêng của nàng đâu có ngậm cười chín suối được.
Vua Minh Mạng cố gắng dịu nét mặt:
- Phong làm sao đây? Trẫm chưa nghĩ ra!
Thái hậu khăng khăng:
- Có gì là khó, người còn sống thì quỳ nghe chiếu nhận ấn nhận sắc, người chết rồi thì
cho quan bưng ấn vàng sách vàng đến trước bàn thờ, tuyên đọc chiếu chỉ mà dâng. Có gì không
được? Chính được phong Tiệp dư thì Hoa phải được phong chức cao hơn, chứ ngang bằng là
không được đâu!
Vua Minh Mạng lắc đầu ngán ngẩm, nhưng không muốn làm phật lòng thái hậu:
- Cái này thì… Trẫm xin chịu thái hậu. Thái hậu muốn sao trẫm xin tùy ý.
Lễ tuyên phong diễn ra tại miếu thờ Hồ cung tần. Thái giám Trung Trực đứng đọc chiếu.
“… Cung tần Hồ Thị Hoa, con nhà dòng dõi ở Biên Hòa, đời ông nội tiếp đến đời cha
hết lòng phò tá cơ nghiệp nhà Nguyễn ta. Lúc tuổi mười lăm nàng vào cung, dung nhan xinh
đẹp, cử chỉ khoan từ, mười phần khả ái. Sớm sinh được con trai nối dõi, công ấy ai bì. Rủi ro
một sớm lìa đời, người người đều xót. Nay xét công lao, trẫm phong nàng làm Chiêu nghi, tước
vị cao quý trong hàng phi tử. Hỡi ôi, mong hồn thơm dưới suối vàng được thỏa nguyện. Khâm
thử.”
Trên một án nhỏ trước bàn thờ có bày ấn vàng và sách vàng. Lệ phong tước ngày xưa,
vua phong cho ai thì ban cho người ấy một cuốn sách đúc bằng vàng, bạc hoặc đồng tùy theo
bậc, bên trong có khắc tên tuổi chức tước của người ấy. Tước phong cho Hồ Thị Hoa là Chiêu
nghi, cao nhất trong hàng Nhất giai phi.
Lễ tất, ai nấy lui ra. Ấn vàng, sách vàng nằm lạnh lẽo dưới bát nhang còn cháy dở.
Hôm sau, việc triều thư thả, hoàng đế Minh Mạng đến miếu thắp nhang cho tân Chiêu
nghi.
Xa xa ngoài vườn, nàng Nguyễn Thị Bảo đang tỉa hoa trà mi. Đang say sưa chăm khóm
hoa, bỗng nàng giật mình ngẩng lên.
Nhà vua đang đứng trước mặt.
Nguyễn Thị Bảo sụp lạy.
- Thần thiếp xin ra mắt hoàng thượng.
Vua Minh Mạng nhìn nàng:
- Đứng dậy đi. Lâu rồi ta mới gặp lại ngươi. Coi bộ ngươi lớn lên nhiều đó!
Nguyễn Thị Bảo cười, không có vẻ gì sợ sệt.
- Tâu hoàng thượng, hoàng thượng còn nợ thiếp một vế đối, hoàng thượng còn nhớ
không?
Vua Minh Mạng lừ mắt, nhưng khác với cái lừ mắt thường ngày, bởi miệng ngài lại hơi
nhếch cười:
- Trẫm nhớ. “Thừa giá phiêu vân, nhất hướng thanh thiên quan đế khuyết.” Câu đối của
ngươi để cho cánh diều lướt mây mà nhìn xuống cung điện của hoàng đế từ trên cao, vậy là chưa
ổn đâu.
- Dạ! Hoàng thượng trách quở, thiếp xin nhận tội. Nhưng hoàng thượng có đối được
không đã?
Vua Minh Mạng hắng giọng:
- Ngươi dám hỏi thế à? Sao ta lại không đối được? Nếu ta đối được, lần này chắc chắn
ngươi phải nghe lệnh ta!
Trong mắt Nguyễn Thị Bảo lấp lánh một nụ cười tinh nghịch:
- Hoàng thượng nay đã là vua, ai dám không tuân lệnh? Nhưng ngài phải đối được, thì
thần thiếp mới phục trong lòng.
Vua Minh Mạng đến gần, di di ngón tay vào trán Bảo:
- Được rồi! Vậy ngươi nghe đây:
“Cung trang ngọc diện, cửu trùng đan quế phụng quân vương.”
Thế đã gọi là đối chan chát chưa?
Cung kính trang điểm khuôn mặt đẹp như ngọc, đến trước thềm cao chín bậc dâng cành
quế đỏ lên đấng quân vương. Câu đối vừa kín đáo ca ngợi sắc đẹp của Bảo, vừa đặt lại vị trí của
nàng: Từ vị trí cánh diều trên trời cao tự do nhìn xuống, về vị trí người cung phi dưới thềm sâu
chín bậc ngẩng lên chiêm bái. Nguyễn Thị Bảo hiểu ý vua muốn “sửa lưng” mình, nàng lúng
túng chưa biết nói sao cho phải.
- Sao? Đã tâm phục khẩu phục chưa? Phục rồi thì hãy nghe lệnh đây: Nàng hãy mau theo
trẫm, kể từ hôm nay trẫm phong nàng làm Quý nhân.
Nguyễn Thị Bảo ngơ ngác.
- Tâu hoàng thượng… Thế còn ai chăm hoa trà mi…
Vua Minh Mạng cười lớn:
- Trẫm sẽ cho trồng hoa trà mi ngập tràn cung thất của nàng.
***
Trong lớp học hoàng cung, Trương Đăng Quế đang dạy cho các hoàng tử.
Mấy hoàng tử còn nhỏ cắm cúi tập viết. Các hoàng tử lớn nghe Quế giảng bài.
- “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện…” Cái học để làm
việc lớn xoay quanh ba điều quan trọng nhất: Minh đức, tân dân, chí thiện. Điều thứ nhất nói về
sự rèn luyện bản thân; Điều thứ hai, là ứng xử với xã hội; Điều thứ ba, là định hướng của con
người trong trời đất vô cùng. Hôm nay tôi sẽ nói về điều thứ nhất, minh minh đức. Thế nào là
minh đức?
Miên Tông chăm chú nghe, bên cạnh là Miên Định, Miên Hoằng, Miên Liêu… Miên
Hoằng tính thiên về võ nghệ, nên ngồi lâu một chỗ lại phải nghe những chuyện triết lý xa xôi thì
cảm thấy rất tù túng. Ngặt vì phụ hoàng đã ban roi cho sư phó Đăng Quế, nên Hoằng không dám
bày trò nghịch ngợm. Hơn nữa, mẹ Hoằng, Tiệp dư Ngô Thị Chính được vua sai theo dõi lớp
học, hôm nào cũng ngồi trong sảnh nhỏ bên cạnh, nên Hoằng đành phải cố gắng ngồi nghiêm.
Ngoài gian bên tả, như thường lệ Ngô Thị Chính đang đứng trông cho hai cung nữ thân
tín bày dọn nước trà và bánh ngon để thầy trò dùng trong giờ giải lao. Hôm nay vẻ mặt Ngô Thị
Chính buồn rười rượi.
Cung nữ Khánh Nhi thấy vậy, gợi chuyện:
- Bẩm lệnh bà, mời bà dùng thử chè bột lọc thịt quay, xem nhà bếp nấu có khéo không?
Ngô Thị Chính lắc đầu, ngồi thẫn thờ trên ghế.
- Em nếm giúp ta đi.
Cung nữ thứ hai, Hỷ Nhi đến bên, hạ giọng:
- Bà có gì không vui sao, con thấy hai hôm nay bà biếng ăn biếng nói.
Ngô Thị Chính thở dài:
- Năm nay ta gặp toàn chuyện không may. Từ đầu tháng, nghe nói thái hậu ép hoàng
thượng phong cho Hồ cung tần quá cố làm Chiêu nghi, ta đã thấy tức cười. Sao mà tâm ý sâu xa
đến thế? Cứ nói là trung hậu nhân nghĩa không quên người đã khuất. Làm như ai nấy đều mù cả
nên mới không thấy!
Khánh Nhi gật đầu:
- Dạ, cái thâm ý của thái hậu là muốn Hồ thị có địa vị cao hơn bà, để con trai Hồ thị được
xem là cao hơn con trai bà. Thì ai chẳng biết Miên Tông là con gà chọi của thái hậu!
Ngô Thị Chính nhìn quanh, ấm ức:
- Thì rõ là thế! Chỉ thương Hồ thị chết rồi còn bị người sống lôi lên để lợi dụng. Lại còn
việc thái hậu đưa con gái làng Kim Long vào trồng hoa quanh miếu nữa. Chẳng qua là muốn
quyến rũ hoàng thượng để phá tấm lòng của ngài với ta mà thôi. Mưu sao mà sâu, kế sao mà
hiểm!
Cung nữ Hỷ Nhi mách:
- Bẩm lệnh bà, cô gái trồng hoa đó hôm qua đã được nhập cung, hoàng thượng phong cho
làm Quý nhân! Bà không biết gì cả sao?
Ngô Thị Chính giật mình, đau đớn:
- Trời ơi! Vậy ư? Vậy là hoàng thượng đang vui vầy với người mới, thảo nào không thấy
lui tới thăm ta nữa. Khánh Nhi, em thay ta trông coi, ta muốn về cung nằm một lát. Sao ta thấy
bủn rủn như trúng phải gió độc thế này…
Về đến viện Đoan Trang rồi, Ngô Thị Chính nằm vùi, nước mắt chảy ướt gối. Hỷ Nhi
xoa dầu, bóp trán, cố sức an ủi:
- Bà bình tĩnh đi, có phải đây là lần đầu hoàng thượng có đàn bà khác đâu. Ngài vốn là
người khí lực mạnh mẽ, lại thêm cung phi mỹ nữ tối ngày chầu chực, mỗi cô mỗi mánh lới, trách
sao không có lúc cung kia viện nọ.
Chính thổn thức:
- Ta cũng biết vậy, nhưng lần này, ta lo lắm…
- Bà đừng lo! Lâu nay vẫn vậy, đi đâu rồi ngài cũng quay về đây, dù có sủng hạnh ai đi
nữa ngài cũng vẫn xem bà là nhất. Lần này chắc cũng vậy thôi!
Ngô Thị Chính vẫn trằn trọc:
- Hoàng thượng là vua, ta là phận phi tử làm sao dám ghen tuông. Nhưng ta sợ là sợ thái
hậu đứng đằng sau việc này, thì ta làm sao mà chống đỡ cho nổi.
Hỷ Nhi hiến kế:
- Bà cứ bình tâm đi, chuyện đâu còn có đó mà. Con gái Kim Long có trẻ có đẹp nhưng
chắc gì đã biết chiều ý ngài. Theo con thì mình cứ chuẩn bị đồ ăn thật ngon rượu thật tốt, làm
cho hoàng thượng ghiền luôn, rồi ngài sẽ không rời bà nửa bước cho mà xem!
Theo kế sách “làm cho hoàng thượng ghiền luôn” của Hỷ Nhi, nên ngay hôm sau, Tiệp
dư Ngô thị đã đến thăm phủ đệ của công chúa Ngọc Tú.
(Xem tiếp số báo tới – Chương 21)